intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

36
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là việc rèn luyện kỹ năng sống cho các em là điều rất cần thiết. Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em. Khi xảy ra vấn đề nào đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống, các em sẽ không đủ kiến thức để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp các em sớm có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 2

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN I. Lời giới thiệu Trong giáo dục kỹ  năng sống luôn cần có sự  quan tâm chú ý của nhà  trường cùng sự phối hợp giáo dục của gia đình. Đây cũng chính là một nhu cầu   không thể thiếu dành cho các bé khi đã bước vào tuổi học tiểu học. 1. Giáo dục kỹ năng sống là nhu cầu quan trọng hiện nay  Giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi vì: Các   em chính là những chủ  nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ  quyết  định sự  phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng  sống, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình,   cộng đồng và đất nước.  2. Những thách thức của trẻ và vai trò của kỹ năng sống Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu  ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc   về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo kích động. Đặc biệt trong  giai đoạn hiện nay, thế  hệ  trẻ  thường xuyên chịu tác động đan xen của những   yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn những  giá trị, phải đương đầu với những khó khăn, thử  thách, những áp lực tiêu cực.  Nếu không được giáo dục kĩ năng sống, nếu thiếu kĩ năng sống, các em dễ bị lôi  kéo vào các hành vi tiêu cực, bạo lực, vào lối sống ích kỉ, lai căng, thực dụng, dễ  bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong các nguyên nhân dẫn đến các hiện   tượng tiêu cực của một bộ  phận học sinh phổ  thông trong thời gian vừa qua   chính là do các em thiếu những kĩ năng cần thiết như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ   năng từ  chối, kĩ  năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn, kĩ năng thương  lượng, kĩ năng giao tiếp. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng sống cho các em là rất  cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia  đình, cộng đồng và Tổ  quốc; giúp các em có khả  năng  ứng phó tích cực trước   các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn   bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hoà và lành mạnh.  Giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ  thông. Vì Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự  phát triển xã hội. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại   hoá đất nước, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện, do  vậy cần phải đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ  thông nói  riêng. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là xu thế chung của nhiều nước trên  thế giới. Tầm quan trọng của giáo dục kỹ năng sống cho trẻ em 1
  2. Vì sao trẻ em ngày càng thiếu các kỹ năng sống? Có một thực tế là nhiều học sinh thành phố, đô thị hiện nay được bố  mẹ  chăm ăn, chăm mặc kỹ quá, chẳng thiếu thứ gì và được bao cấp đến “tận răng”.  Có những em đã học lớp 11, lớp 12, mà bố  mẹ  vẫn đưa đón hàng ngày, không  dám cho tự  đi học.  Ở  nhà, nhiều trẻ  được miễn việc giúp đỡ  bố  mẹ  làm công  việc nhà, dù là nhỏ  nhất với lý do là để  dành thêm thời gian cho con học, hoặc   đã có “bác giúp việc”. Có rất nhiều lời giải thích, biện minh cho việc chăm sóc,  nuông chiều con cái quá mức ở các bố mẹ. Hệ lụy của việc nuông chiều ấy là  sẽ làm mất đi tính tự lập của trẻ, làm cho trẻ trở nên lười nhác, ỷ lại cho người  khác những việc có thể thực hiện trong tầm tay. Bên cạnh  đó, mặc dù  điều kiện sống của lớp trẻ  ngày càng tốt hơn,   nhưng việc giao lưu, chia sẻ, kết bạn…của trẻ dường như lại thu h ẹp lại. Đầu  tiên là việc tạo ra các kết nối trong gia đình, giữa bố  mẹ  và con cái. Thời gian   bố mẹ dành cho con trẻ ngày càng eo hẹp. Do mải làm kinh tế, nên hầu hết các   bố mẹ không có nhiều thời gian dành cho gia đình nhỏ của mình. Những chuyến  đi công tác dài ngày, việc đi làm về  muộn là chuyện bình thường trong xã hội   hiện đại ngày nay. Ngay cả khi có mặt ở nhà, nhiều cha mẹ cũng không thể sắp  xếp thời gian, để có thể tâm sự, trò chuyện cùng con trẻ. Hình ảnh một gia đình  với bố  mẹ  ôm máy tính, nghe điện thoại, con cái chúi đầu chơi game trên ipad   không còn hiếm thấy và ngày càng phổ  biến. Có một nghịch lý là: công nghệ  ngày càng phát triển, mạng xã hội ngày càng phổ biến để giúp con người có thể  trao đổi với nhau thuận lợi nhất, thì ngược lại việc trao đổi thông tin bằng ngôn  ngữ giữa người với người, sự quan tâm tới nhau trong các gia đình sử dụng công   nghệ  ngày càng kém đi. Cuối cùng những đứa trẻ  cảm thấy cô đơn ngay trong  chính ngôi nhà của mình. Trẻ  em không chỉ  cần người lớn cho ăn ngon, mặc đẹp. Trong quá trình  phát triển và hình thành nhân cách của trẻ, việc được quan tâm, bồi dưỡng về  mặt tinh thần đôi khi quan trọng hơn nhiều so với vật chất. Ngay cả khi bạn có  thể thuê cho con mình những gia sư, giáo viên tốt nhất, thì việc có bố mẹ  quan  tâm, chia sẻ, định hướng là không thể  thiếu đối với sự  trưởng thành của trẻ.   2
  3. Việc định hướng này sẽ  quyết định 60­70% sự  thành công và tính cách của trẻ  sau này.   Ngoài ra một nguyên nhân nữa dẫn đến việc trẻ  em thành phố  rất thiếu   các kỹ năng sống cần thiết, đó là việc trẻ thực sự thiếu một môi trường để  có  thể học hỏi, giao lưu, tương tác và trải nghiệm. các trường học và chương trình   giáo dục của nước ta dù đã có nhiều cố gắng cải cách, nhưng thực tế cho thấy   phương pháp giảng dạy vẫn còn theo lối mòn cũ, lý thuyết vẫn được coi trọng   hơn thực hành. Là một quốc gia thường có các học sinh đoạt nhiều giải thưởng  toán, lý, hóa quốc tế, nhưng nước ta lại là một nước công nghệ  “đi mua”, các  sáng chế  hầu như  chỉ  là các công trình trên giấy. Các sinh viên ra trường hàng  năm rất khó tìm kiếm được việc làm và có khi tốt nghiệp loại giỏi càng dễ thất  nghiệp. Thật tiếc khi nhà trường chỉ chú trọng dạy văn hoá mà không quan tâm  nhiều đến việc dạy kỹ  năng sống cho trẻ. Trẻ  dù học giỏi nhưng thụ  động,  không dám giao tiếp trước đám đông còn nguy hiểm hơn cả việc học dốt.    Đến giờ nhiều gia đình và phụ huynh mới giật mình khi phát hiện ra một   lỗ  hổng trong việc giáo dục trẻ. Chúng ta đã quá nặng việc quan tâm cho trẻ  được sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp, mà quên đi mất việc giáo dục cho trẻ một  cách nghiêm túc các kỹ  năng để  giúp trẻ  có nền tảng cơ  sở  để  tự  lập sau này.  Việc thiếu được trang bị các kỹ  năng sống cần thiết để  giúp cho trẻ  từ  nhỏ  đã  hình thành các thói quen tốt, các kỹ  năng cần thiết cho cuộc sống sau này khi  tham gia vào xã hội như: sự  tự  tin, tư  duy sáng tạo, khả  năng tập trung, niềm  đam mê học tập suốt đời…   3. Lựa chọn của bố mẹ khi cho con tham gia các lớp học KNS. Hiện nay, có nhiều trung tâm đào tạo kỹ  năng sống tại Hà Nội, nhưng  chất lượng rất khó kiểm nghiệm. Cách dạy kỹ  năng sống chủ  yếu là cho trẻ  xem videos các tình huống và hướng dẫn làm theo hay tổ chức một số hoạt động  thực hành, vui chơi. Phương pháp tổ  chức lớp học vẫn theo mô hình truyền  thống, trong đó giáo viên đóng vai trò trung tâm, trẻ  tiếp thu kiến một cách thụ  động. Đặc biệt, do thiếu giáo viên, nhiều trung tâm nhận thầy cô giáo “tay   ngang” nên không đủ chuyên môn dạy kỹ năng sống cho trẻ. Việc phụ  huynh đổ  xô đi tìm lớp kỹ  năng sống cho con là điều dễ  hiểu.   Ngày trước, trẻ chủ yếu được chăm sóc, vui chơi trong môi trường tự nhiên, nên  dần hình thành những kỹ  năng sống cần thiết. Ngày nay, trẻ  đi học bán trú  ở  trường, rồi đi học thêm, thời gian rảnh rỗi thì ngồi chơi game, xem tivi…, nên  trẻ em ít có cơ hội trải nghiệm từ cuộc sống xung quanh. Thời gian bố m ẹ ti ếp   xúc với con cái cũng rất hạn chế, nên việc chia sẻ  và dạy dỗ, định hướng của   bố  mẹ  cũng giảm xuống. Thực tế  cho thấy, nhiều em học  ở trường có thể  rất   giỏi nhưng ra ngoài lại thành “gà công nghiệp”. Tuy nhiên, thật không dễ dàng để  phụ  huynh tìm được một khóa học kỹ  năng sống chất lượng và phù hợp về  thời gian, học phí cho trẻ. Rất nhiều các  trung tâm đào tạo kỹ năng sống đưa ra những lời quảng cáo như: “Ngay lập tức   giúp con bạn trở nên tự tin”; “Giúp trẻ khai phá tài năng” … Để thu hút học sinh,  nhiều trung tâm chia nhỏ khoá học thành 1 tuần đến 1 tháng, kinh phí từ 1 triệu   3
  4. đến vài chục triệu đồng. Với thời lượng như vậy, có thể khẳng định chất lượng   cũng như  hiệu quả  mang lại không thể  làm thay đổi được trẻ. Việc rèn luyện   để hình thành các kỹ năng cần một quá trình lặp đi lặp lại và lâu dài, không thể  có lớp học vài buổi mà có được kỹ  năng sống. Phụ  huynh không nên chạy theo   phong trào và cũng đừng quá kỳ vọng vào sự thần kỳ của các khóa học kỹ năng   sống “siêu tốc”. Việc lựa chọn cho trẻ  tham gia khóa học Kỹ  năng sống đôi khi còn gặp  trở  ngại đến từ  chính các thành viên trong gia đình. Rất nhiều bố  mẹ  hiện đại  nhưng tư  duy và tầm nhìn lại tương đối lạc hậu theo kiểu “trời sinh voi, trời   sinh cỏ”, các bố  mẹ này tự  an  ủi rằng con trẻ  sẽ  tự học khôn, lớn rồi sẽ  biết.   Nhóm bố mẹ mang tư duy này sẽ tự tay đánh mất đi cơ hội quý giá của con trẻ  được   học   hỏi,   tiếp   thu,   rèn   luyện   những   kiến   thức   sống   quý   báu   cho   việc   trưởng thành.   Nhiều bố mẹ khác lại lựa chọn khóa học cho con theo hướng phong trào,   thấy bạn bè cho con đi học thì cũng đăng ký cho con đi học cùng, mà không có   sự  suy xét, lựa chọn cẩn thận. Việc học cho vui, đi cho biết theo hướng phong   trào sẽ không mang lại hiệu quả, thậm chí sẽ làm phí đi thời gian, tiền bạc của  gia đình.   Việc chọn lựa ngôi trường hay một trung tâm chuyên nghiệp về  đào tạo  kỹ  năng sống là rất quan trọng cho trẻ. Nên nhớ  thời gian trẻ  được tham gia,  tương tác, rèn luyện tại trường không nhiều. Các buổi học về  kỹ  năng sống  thường chỉ kéo dài từ 1­2 tiếng. Các lớp học tiêu chuẩn chỉ nên có tối đa 15 trẻ.   Các phụ huynh cũng nên tham khảo, trao đổi, nghe tư vấn cụ thể trước khi đăng  ký học cho con. Đặc biệt phụ huynh nên quan tâm đến các vấn đề như nội dung   học có phù hợp với con trẻ, chất lượng giáo viên, thời gian học. Một chương   trình học đạt chuẩn phải có sự  giao lưu giữa giáo viên và phụ  huynh chặt chẽ.   Cụ thể sau các buổi học, phụ huynh nên dành thời gian trao đổi với giáo viên để  biết về  nội dung bài học, biểu hiện của trẻ  và trao đổi với giáo viên về  cách   tương tác với trẻ tại nhà.  Cho con học Kỹ năng sống, khi nào là tốt nhất? Học tập không bao giờ là muộn, tuy nhiên việc cho trẻ học Kỹ năng sống  thì không nên chờ  hay trì hoãn. Các nghiên cứu khoa học đã chỉ  ra rằng từ  3­6  tuổi là giai đoạn “cửa sổ  vàng” cho trẻ  học tập. Giai đoạn này não bộ  của trẻ  phát triển rất mạnh, khả năng ngôn ngữ, sáng tạo, ghi nhớ  của trẻ rất cao. Tại   thời điểm trẻ  đang tò mò, khao khát tìm hiểu thế  giới xung quanh là thời điểm   tốt nhất để dạy trẻ biết cách cư xử đúng mực, tự tin giao tiếp, tư duy sáng tạo,  … và hình thành các kỹ  năng sống cơ  bản. Các nghiên cứu cũng cho thấy, trẻ  trong giai đoạn này, nếu được quan tâm nghiêm dạy dỗ  nghiêm túc, sẽ  hình  thành những thói quen tốt giúp ích rất nhiều cho trẻ khi bước vào giai đoạn tiểu  học.   Trong quá trình làm việc, tiếp xúc với trẻ  và qua tham khảo ý kiến của  nhiều đồng nghiệp trong ngành, chúng tôi thấy có một thực trạng đáng lo ngại  hiện nay, đó là việc các em học sinh đại đa số  mệt mỏi, căng thẳng với việc   4
  5. học tập. Rất đông các em phát triển không đều, nhút nhát, hạn chế về giao tiếp,   kém sáng tạo, thông minh nhưng làm việc máy móc, không biết làm việc nhóm,  … Đầu tư cho con trẻ, đặc biệt là đầu tư giáo dục luôn là cách đầu tư khôn   ngoan nhất. Kiến thức và kỹ  năng là hàng hóa đặc biệt, không nên định giá  giống những hàng hóa khác. Giá trị  khóa học kỹ năng sống mang lại không thể  đánh giá qua số tiền đắt hay rẻ. Những giá trị thực nhận được từ khoản đầu tư  ấy sẽ xứng đáng với công sức chúng ta bỏ ra vì đã góp phần trang bị cho con trẻ  hành trang để bước vào cuộc sống tương lai. Giáo dục kĩ năng sống cho trẻ  là việc rất quan trọng,  ảnh hưởng tới quá   trình hình thành nhân cách của trẻ cho đến tuổi trưởng thành. Giáo dục kĩ năng   sống phải được bắt đầu từ  khi trẻ  còn rất nhỏ, đặc biệt  ở  lứa tuổi Tiểu học.   Bởi vì lửa tuổi này đã hình thành những hành vi các nhân, tính cách và nhân cách.   Việc làm quen với các môn học để  hình thành và xây dựng cho các em các kĩ  năng sống như: Giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm,… sẽ giúp các em tự  tin, chủ động biết cách xử lí mọi tình huống trong cuộc sống và quan trọng hơn   là khơi gợi những khả năng tư duy sáng tạo, biết phát huy thế mạnh của các em.  Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh sẽ hình thành và tập dượt cho các em  những hành vi, thói quen, kĩ năng xử  lý các tình huống diễn ra trong cuộc sống.   Học sinh Tiểu học là những học sinh đang  ở  độ  tuổi 6 ­ 11 tuổi, độ  tuổi có  nhiều biến động về tâm sinh lý rất nhạy cảm dễ bị ảnh hưởng bởi môi trường   sống bên ngoài tác động. 4. Vị trí, vai trò của người GVCN: GVCN là người được hiệu trưởng bổ nhiệm trong số những giáo viên có  kinh nghiệm và có uy tín. Giáo viên chủ nhiệm lớp được thay mặt Hiệu trưởng  quản lý và tổ chức học tập, rèn luyện đạt mục tiêu đào tạo. GVCN vừa đóng vai  trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò người thầy giáo, đồng thời  còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể lớp. GVCN là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức,  lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm GVCN là cầu nối giữa lớp với các GV bộ  môn, Ban giám hiệu, Tổ  CM,  các tổ chức đoàn thể trong nhà trường (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Nữ công...)   và Cha mẹ học sinh GVCN là người tổ  chức các HĐGD trong lớp, các HĐTT và chịu trách  nhiệm trước hiệu trưởng về công tác GD ĐT, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt  của lớp mình được quy định tại QĐ số  16/QQD­BGD ĐT ngày 5/5/2006 của  BGD và ĐT về việc ban hành chương trình GDPT 5
  6. GVCN lớp là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của tập   thể học sinh, là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội. 4.1. Những vấn đề  cơ  bản về  công tác chủ  nhiệm trong giai đoạn  hiện nay: 4.1.1. Nhiệm vụ, chức năng của người giáo viên chủ  nhiệm trong   trường tiểu học: a. Nhiệm vụ Dựa vào tình hình thực tế, vạch kế  hoạch giúp lớp tổ  chức thực hiện  chương trình đào tạo (học tập, rèn luyện) trong từng tuần, từng tháng, học kỳ và  năm học. cùng cán bộ lớp theo dõi, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp chủ  nhiệm theo từng tháng, học kỳ  và năm học; đồng thời báo cáo kết quả  đó với   nhà trường vào cuối mỗi tháng. Liên hệ với gia đình HS để phối hợp giáo dục HS khi cần thiết. Ghi nhận xét, xác nhận các vấn đề thuộc về quản lý hành chính Nhà nước  trong phạm vị  hoạt động của lớp (như  các đơn từ  của HS, các báo cáo của  lớp ...) Kết thúc thời gian năm học, chủ nhiệm lớp phải bàn giao hồ  sơ  công tác  chủ nhiệm lớp cho cán bộ văn phòng và bàn giao tình hình lớp cho giáo viên chủ  nhiệm mới. b. Chức năng Phát hiện, bồi dưỡng và cử  đội ngũ cán bộ  lớp và phân công nhiệm vụ  nhằm giúp các em tổ chức thực hiện tốt mọi hoạt động của lớp, của trường. Định hướng, tư vấn và giúp các em tổ chức thực hiện các mặt hoạt động  của lớp. Tổng hợp tình hình, đề  xuất các giải pháp để  tham mưu cho Trường về  công tác giáo dục, rèn luyện của HS. Nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ  và kết quả  học tập, rèn luyện của   HS; phối hợp với gia đình và đoàn thể để giúp đỡ, cảm hoá HS trong rèn luyện   để trở thành người tốt cho xã hội. c. Quyền hạn Được mời dự họp hoặc là thành viên hội đồng giải quyết các vấn đề  về  HS của lớp mình phụ trách. Được liên hệ với các giáo viên bộ môn, Tổ trưởng tổ  chuyên môn, BGH,  ĐTN, Ban đại diện CMHS để phản ánh tình hình giảng dạy của giáo viên, tình   hình học tập, rèn luyện của HS và bảo vệ  quyền lợi chính đáng của HS lớp   mình phụ trách. Được quyền cho học sinh nghỉ học (khi HS có đơn với lý do chính đáng)   một ngày trong phạm vi gần trường (25 km). Được gọi HS cá biệt đến nơi làm việc để giáo dục HS. 6
  7. Được   mời   phụ   huynh   HS   đến   trường   để   phối   hợp   giáo   dục   khi   cần   thiết.Giáo viên chủ  nhiệm là người chủ  chốt của nhà trường làm công tác giáo  dục đạo đức, lối sống cho HS.. + Ngoài các nhiệm vụ như giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm còn có  những chức năng, nhiệm vụ sau đây: + Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp   tổ chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của từng học sinh   và của cả lớp. +Xây dựng kế  hoạch các hoạt động giáo dục thể  hiện rõ mục tiêu, nội  dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả  thi, phù hợp với đặc điểm HS,  với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của  từng học sinh; + Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng; Tham gia  hướng dẫn hoạt động tập thể, HĐGD và RLHS do nhà trường tổ chức. + Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ  và cuối năm học; đề  nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp  thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về  hạnh kiểm trong kỳ  nghỉ  hè,  phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh; + Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng,   hoặc phó hiệu trưởng khi được uỷ quyền. + Giáo viên chủ  nhiệm là người trực tiếp, thường xuyên hướng dẫn học   sinh tạo dựng môi trường thân thiện trong mỗi lớp học; là thành viên tích cực  trong phong trào thi đua xây dựng "Trường học thân thiện – Học sinh tích cực". Giáo viên chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các   nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.Vì vậy đề nghị các giáo viên chủ nhiệm nêu  cao tinh thần trách nhiệm, với mục đích "Tất cả  vì học sinh thân yêu" tích cực   tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, góp phần giáo dục nhân cách học sinh có hiệu   quả và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường. 4.1.2. Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục địa   phương trong giai đoạn hiện nay: ­ Về đạo đức nghề nghiệp. ­ GVCN cần quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu, nguyên lý giáo  dục.... ­ Thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp CN... ­ GVCN phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục ngắn  hạn... ­ Xây dựng tập thể HS lớp CN... ­ Tổ chức các hoạt động giáo dục và các hình thức giao lưu đa dạng... ­ Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong lớp. ­ Đánh giá kết quả  tu dưỡng, học tập và sự  tiến bộ  của HS về  các mặt  giáo dục... ­ Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường... 7
  8. ­ Cập nhật hồ sơ công tác GVCN và hồ sơ học sinh... Hiện có những thay đổi và tác động của môi trường kinh tế  xã hội cũng  như  môi trường giáo dục đối với nhà trường phổ  thông và các hoạt động GD  trong nhà trường, trong đó có các hoạt động thuộc công tác GV chủ  nhiệm lớp.   Theo đó, cần thiết phải chú trọng hơn nữa đến công tác GV chủ  nhiệm lớp và  đề cao vai trò của GV chủ nhiệm lớp. Ngoài việc tực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, GV chủ nhiệm trước hết   phải là nhà GD, là người tổ  chức hoạt động GD, quan tâm tới từng học sinh,   chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về  tư  tưởng,   nhu cầu, nguyện vọng của các em. Đồng thời, người GV chủ  nhiệm lớp bằng   chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành   các phẩm chất đạo đức, nhân cách của HS. Mặt khác, họ  còn là cầu nối giữa   tập thể  HS với các tổ  chức – xã hội trong và ngoài trường, là người tổ  chức  phối hợp các lực lượng GD. Người GV chủ  nhiệm lớp là người đại diện cho  quyền lợi chính đáng của HS, bảo vệ HS về mọi mặt một cách hợp lý, phản ánh  trung thành mọi nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của HS với Ban giám hiệu nhà   trường, với các GV bộ môn, với gia đình HS, với cộng đồng và với các đoàn thể  xã hội khác. Trên cơ  sở  xác định phẩm chất và năng lực của GV chủ  nhiệm lớp, cần   chú ý đến các điều kiện để người GV có thể làm công tác chủ nhiệm hiệu quả.  Các điều kiện này rất đa dạng. Bên cạnh đó, trong quá trình lao động nghề  nghiệp, GV phải được bồi dưỡng về công tác chủ nhiệm lớp với nội dung như:   phương pháp xây dựng hồ  sơ  công tác chủ  nhiệm, kỹ  năng làm công tác chủ  nhiệm, kỹ năng tổ chức các hoạt động xã hội... Kinh nghiệm của các GV chủ  nhiệm lớp cũng chỉ  rõ: Thành công của  phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực"  ở  mỗi nhà  trường phụ  thuộc rất nhiều vào người GV chủ  nhiệm lớp. Điều này khẳng  định, hơn những GV khác, người GV chủ nhiệm lớp không chỉ  nắm vững mục   tiêu, nội dung của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, HS tích   cực" mà còn thuần thục trong phương pháp triển khai phong trào thi đua này, có  kỹ năng tích hợp nội dung của phong trào thi đua với nội dung của công tác chủ  nhiệm lớp. 4.1.3. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với BGH, Đồng nghiệp,   phụ huynh, cha mẹ học sinh và cộng đồng: * Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với BGH: Mối quan hệ giữa GVCN lớp với BGH và HĐGD nhà trường là mối quan  hệ  của người bị  quản lý đối với lãnh đạo, vì thể  nó cần thiết phải thực hiện  những công việc sau:  + Tiếp nhận chủ trương, kế hoạch và những định hướng cho từng hoạt  động cụ thể của BGH và HĐGD nhà trường.   + Xây dựng kế  hoạch và chỉ  đạo triển khai thực hiện kế  hoạch cho phù  hợp với tình hình của lớp chủ nhiệm. Trong quá trình xây dựng và triển khai kế  8
  9. hoạch, nếu xuất hiện những khó khăn hoặc những tình huống đột biến không  thể hoặc không thuộc quyền xử lý thì cần báo cáo kịp thời với BGH và HĐGD  để  lấy ý kiến chỉ  đạo, bổ  xung, điều chỉnh kế  hoạch hoặc thay đổi phương  pháp, hình thức tổ chức hoạt động tận dụng sự hỗ trợ về tinh thần và vật chất  của cấp trên. Báo cáo kế  hoạch hoạt động chủ  nhiệm lớp theo định kỳ  (cuối học kỳ,  cuối năm học) hoặc đột xuất nếu có với BGH và HĐGD theo hướng dẫn chung   của nhà trường (đánh giá, xếp loại học tập, rèn luyện đạo đức và các mặt hoạt   động khác của từng học sinh và của cả lớp).   + Đề đạt nguyện vọng chính đáng của học sinh lớp chủ nhiệm với BGH   và HĐGD nhà trường, đề  xuất các phương án giải quyết với sự  suy nghĩ thấu   đáo, cẩn trọng.   + Phản ánh những ý kiến nguyện vọng của gia đình học sinh về sự đồng  tình hay phản bác đối với những chủ trương, quy định của trường trong các mặt  hoạt động giáo dục để  cấp trên có sự  xem xét, giải đáp hoặc sửa đổi cho phù   hợp với thực tế.  Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với Đồng nghiệp: Trong nhà trường các em được học tốt tất cả các môn theo qui định. Ngoài  công tác chủ  nhiệm, GVCN còn phải phụ  trách các bộ  môn chuyên môn vì thế  viếc phối hợp với giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng và cần thiết. Phối hợp với các lực lượng khác như: bảo vệ, thư viện, y tế, đặc biệt là  các tổ  chức đoàn thể  và bộ  phận giám thị... để  giáo dục học sinh. GVCN cần   phản ánh nguyện vọng của học sinh, đề xuất yêu cầu và đề nghị các lực lượng  này cùng phối hợp tác động tới học sinh, hỗ trợ các hoạt động của lớp khi cần   thiết. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với Phụ huynh, cha mẹ học sinh và  cộng đồng:    Giáo  viên chủ nhiệm phải thường xuyên liên lạc, trao đổi với phụ huynh   về  tình hình học tập của các em trong nhà trường (qua số  điện thoại, liên lạc  trực tiếp...).        Vậy khi đặt mình vào vị  trí của người phụ  huynh, thì hãy suy nghĩ họ  mong muốn điều gì  ở  người giáo viên chủ  nhiệm? Chính vì thế  giáo viên chủ  nhiệm phải thật sự  quan tâm phối hợp chặt chẽ  với phụ  huynh để  cùng nhau   tìm ra phương pháp hiệu quả nhất nhằm hạn chế những tiêu cực làm sa sút về  nhân cách đạo đức con người mà trong đó có con em chúng ta. Hãy đến nhà của  các em thường xuyên vi phạm để có thể nắm tình hình một cách chính xác nhất,  đừng ngồi chờ  PHHS đến rồi mới phản ánh ý kiến, khi thấy sự  việc là cần   thiết! 4.2. Hồ sơ về công tác chủ nhiệm lớp: ­ Sổ chủ nhiệm lớp. ­ Kế hoạch công tác chủ nhiệm hàng tháng. ­ Sổ ghi các nội dung thu chi quỹ lớp và các khoản thu khác. ­ Sổ liên lạc với gia đình học sinh. 9
  10. ­ Nội quy của học sinh. ­ Sổ thi đua của lớp. ­ Các văn bản liên quan đến công tác chủ nhiệm. ­ Sổ theo dõi kết quả học tập của HS để phối hợp với GV dạy lớp lên kế  hoạch nâng HS kém hoặc bồi dưỡng HS giỏi, Sổ điểm. ­ Giáo án lên lớp tiết chủ  nhiệm và sinh hoạt dưới cờ: dùng thuật ngữ  giáo án để thể hiện tính nghiêm túc về mặt trách nhiệm chứ thật ra sự cần thiết  ở  đây chính là phải chắt lọc thông tin rõ ràng khúc chiết và tuyệt đối không  được cháy giáo án. ­ Các bài kiểm tra chuyên môn. ­ Các bài báo cáo, bài tập về nhà để kiểm tra. ­ Sổ cập nhật những thông tin khẩn cấp. ­ Sổ họp phụ huynh học sinh, Biên bản các cuộc họp phụ huynh học sinh. ­ Sổ  theo dõi những các hoạt động ngoài giờ  lên lớp, chương trình phụ  đạo và bồi dưỡng HS giỏi... Kết luận  Khác với trung học, giáo viên (GV) dạy các môn học  ở  tiểu học cũng là   GV chủ nhiệm. Chính vì tập trung đầu tư  công sức vào bài dạy của nhiều môn  mà đa số thầy cô ở tiểu học gần như chỉ thực hiện công tác chủ  nhiệm trên sổ  chủ nhiệm và sổ liên lạc theo quy định. Thực tế, công tác chủ nhiệm ở tiểu học rất quan trọng, nếu làm tốt, nó sẽ  hỗ trợ  rất nhiều cho thầy cô trong việc giảng dạy, giáo dục học sinh (HS). GV  tiểu học thường có thời gian gần gũi các em rất nhiều, một số trường hợp thầy   cô tiếp xúc với HS còn nhiều hơn cha mẹ. Vì vậy, thầy cô chủ nhiệm không chỉ  là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu  được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Làm tốt công tác chủ nhiệm, GV có   thể  ngăn chặn được trẻ  bỏ  học, trẻ  chán học, trẻ  trầm uất vì gia đình, trẻ  bỏ  nhà đi hoang, trẻ giải quyết bất đồng bằng bạo lực... đồng thời phát huy được  những năng khiếu tiềm ẩn ở các em, từ đó các em cũng thích đi học và thích học  hơn. Thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt  đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Để làm tốt công tác chủ nhiệm, việc đầu tiên khi nhận lớp, GV phải nắm  được thông tin cá nhân từng em. Lưu ý các trường hợp HS mồ  côi, cha mẹ  ly   hôn, cha mẹ làm ăn xa (hoặc lý do khác) phải ở với người thân, gia đình quá khó  khăn về kinh tế, bản thân các em bị bệnh mãn tính, bệnh phải điều trị dài hạn...  Kế  tiếp là các em được phụ  huynh quá cưng chiều, các em học yếu, các em   thường nghịch phá chọc ghẹo bạn bè. Các trường hợp này thường nảy sinh  nhiều vấn đề  trong năm học, bởi ở tuổi tiểu học, trẻ rất nhạy cảm, hành động  theo bản năng, dễ  bi quan trước những điều không tốt đẹp từ  gia đình hay từ  bạn bè trường lớp.... Từ  những thông tin này, GV nên gần gũi trò chuyện tiếp   xúc các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể dễ dàng   bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi cần thiết. Qua đó,  10
  11. thầy cô hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ nông cạn, sai  lầm, các hành vi không hay... hướng các em vào điều tốt đẹp, lạc quan hơn. Quan hệ  mật thiết với phụ  huynh HS cũng là điều hết sức quan trọng  trong công tác chủ nhiệm. Đừng đợi đến các kì họp phụ huynh hay khi các em vi   phạm nội quy trường lớp mới mời phụ huynh lên để  trao đổi. GV có thể  thăm  hỏi chuyện gia đình, trao đổi cách dạy dỗ  con em khi có dịp gặp mặt nhau như  lúc phụ huynh đưa đón con em. Thầy cô cũng đừng để các cuộc họp phụ huynh   là lúc phê phán, chê bai việc học tập, hạnh kiểm của HS. Hãy làm cho cuộc họp  trở  thành buổi trao đổi thân mật giữa người giáo dục trẻ  em được đào tạo bài   bản  ở  trường sư  phạm và những người giáo dục trẻ  theo bản năng, theo vốn  hiểu biết của bản thân. Cả hai bên đều học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cho nhau.   Làm được như  thế, chắc chắn các thầy cô sẽ  được sự  tin yêu ở  phụ  huynh và  họ  sẵn sàng hỗ  trợ  cho GV trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt mà GV đề  ra, cũng như dễ dàng cung cấp mọi thông tin về trẻ ở gia đình. Ngoài ra, công tác chủ  nhiệm còn phải làm cho lớp học đoàn kết, yêu  thương nhau, luôn quan tâm gắn bó với nhau. Để  tạo được một lớp học như  thế, người GV cần phải tạo điều kiện cho HS thể  hiện sự  quan tâm của mỗi  thành viên trong lớp, chẳng hạn như  cho các em tự  làm thiệp chúc mừng bạn  trong lớp nhân ngày sinh nhật, bạn trai làm thiệp chúc mừng bạn gái nhân ngày  8­3, thăm các bạn bị  bệnh, viết nhật ký lớp (mỗi HS viết 1 ngày, nêu tất cả  những vui buồn của lớp trong ngày mà mình cảm nhận được), động viên các em  tham gia tất cả  các phong trào của trường, của đội, nhất là các phong trào đòi  hỏi sự tham gia tập thể... Có thể nói để vừa phải đảm bảo tốt việc truyền thụ kiến thức văn hóa ở  nhiều môn học cho HS, vừa phải làm tốt công tác chủ  nhiệm, đó là việc không   dễ  dàng nhưng "Chính sự  quan tâm, lòng yêu thương và sự  chia sẻ  của người   thầy  đã giúp những  đứa trẻ  phát huy hết khả  năng của chúng" – theo John  O'brien. Mong rằng các thầy cô giáo tiểu học đừng quên điều đó. Để  nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế  hệ  trẻ, đáp  ứng nguồn  nhân lực phục vụ  sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng   yêu cầu hội nhập quốc tế  và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ  thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ  theo bốn trụ  cột của giáo dục thế  kỉ  XXI, mà thực chất đó là cách tiếp cận kĩ năng sống, đó là: Học để biết, Học để  làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Cùng với các biện   pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường,  giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là yêu cầu vô cùng quan trọng, một nội dung  không thể  tách rời của quá trình giáo dục. Mục đích của quá trình giáo dục kỹ  năng sống là nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng cơ  bản, cần thiết nhất  để  các em có thể  thích  ứng với cuộc sống của xã hội thời hiện đại, luôn có   những thay đổi trong điều kiện của một xã hội đang trên đà phát triển và hội  nhập. Đặc biệt rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong   11
  12. những nội dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,   học sinh tích cực” trong các trường phổ  thôn.  Từ  thực tiễn trên, qua quá trình  giảng dạy, tôi nhận thấy việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 nói riêng và  học sinh tiểu học nói chung là một vấn đề  cần thiết nên tôi đã chọn và viết đề  tài: “Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho học sinh lớp 2”. II. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao kĩ năng sống cho   học sinh lớp 2” III. Tác giả sáng kiến Họ và tên: Nguyễn Thị Giang Địa chỉ    : Đồng Tĩnh – Tam Dương – Vĩnh Phúc Số điện thoại: 0394957971 Email: nguyengiangthc@gmail.com IV. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Giang V. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Lĩnh vực có thể áp dụng sáng kiến là: Đề tài này tập trung nghiên cứu về  các biện pháp nâng cao kĩ năng sống cho học sinh của giáo viên chủ  nhiệm lớp  học ở trường Tiểu học nói chung và lớp 2A nói riêng. Vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết: Đề tài này nghiên cứu nhằm giúp các em học sinh :  Rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp học sinh nhanh chóng hoà nhập và khẳng  định vị trí của mình trong tập thể, mà xa hơn là một cộng đồng, xã hội. Do đó,  cho dù các em có tài giỏi, thông minh đến đâu nhưng thiếu kỹ năng sống, các em  cũng không thể tiếp cận với môi trường xung quanh, hòa nhập cũng như khẳng  định mình.   Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ  năng sống cho các em là điều rất cần  thiết. Việc hình thành các kỹ năng cơ  bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố  quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em.   Khi xảy ra vấn đề  nào đó, nếu không được trang bị  kỹ  năng sống, các em sẽ  không đủ kiến thức để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng   sống sẽ  giúp các em sớm có ý thức làm chủ  bản thân, sống tích cực và hướng   đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội. VI. Ngày áp dụng sáng kiến lần đầu 12
  13. Được áp dụng từ năm học 2016­2017 đến năm học 2017­2018 (từ 9/2016  đến 5/2017) VII. Mô tả bản chất của sáng kiến 1. Nội dung sáng kiến 1.1. Những nội dung được đề cập trong Sáng kiến kinh nghiệm a) Thực trạng vấn đề nghiên cứu b) Những thuận lợi  c) Những tồn tại cần khắc phục d) Các giải pháp thực hiện e)  Một số biện pháp nâng cao kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 1.2. Thực trạng: a) Đối với học sinh: Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng hiện nay kĩ năng  của các em còn rất nhiều hạn chế. Trong quá trình giáo dục chúng ta thường  mới chỉ  quan tâm tới việc dạy chữ  và chưa quan tâm nhiều tới việc dạy làm  người cho học sinh. Vì vậy việc thích ứng với xã hội, với cuộc sống xung quanh  là một vấn đề khó với các em. Qua điều tra cho thấy tình trạng học sinh nói tục,  chửi bậy, đánh nhau vẫn xảy ra. Trong đó các kĩ năng như tương trợ nhau, giao  tiếp, diễn đạt trước đám đông được các thầy cô giáo tích cực hình thành và củng  cố  nhưng chưa thể  hiện được. Học sinh ngày càng thực dụng, ích kỉ  và lười  hoạt động hơn. b)  Đối với giáo viên:    Hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ở trong nhà trường đôi lúc chưa được quan   tâm đúng mức. Giáo viên mỗi người hiểu, tiếp cận và thực hiện một cách khác   nhau. Nhiều giáo viên vẫn coi nhẹ công tác chủ  nhiệm lớp từ  đó cũng coi nhẹ  việc rèn các kĩ năng sống cho học sinh. c)  Đối với môi trường địa phương:   Trường nằm trong địa bàn khu vực gần chợ. Đa số  người dân làm nghề  buôn bán và lao động là chính vì vậy điều kiện kinh tế  gia đình gặp nhiều khó   khăn. Nhiều học sinh phải ở nhà với ông bà vì bố mẹ đi làm ăn xa, nên thiếu sự  quan tâm dạy dỗ  của bố  mẹ. Đây chính là điều kiện tốt để  các tệ  nạn xã hội  xâm nhập vào các em nếu không có sự quản lý tốt của nhà trường ­ gia đình – xã  hội. 13
  14. Vậy làm thế nào để hoạt động giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh   được hiệu quả? 1.2.1. Những thuận lợi  ­ Giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với học sinh nên tìm hiểu  và nắm bắt được những khó khăn và tồn tại của các em khi học tập và giao tiếp  rất thuận lợi. ­ Những buổi tham dự  hội thảo chuyên đề, hội thi giáo viên giỏi của   trường, của Phòng giáo dục đã góp phần cho giáo viên được học hỏi, phấn đấu  tìm tòi nâng cao kiến thức, kĩ năng thực hành sư phạm. Từ đó vận dụng sáng tạo   và linh hoạt trong phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng học tập của   học sinh. ­ Có những kinh nghiệm thực tế giảng dạy và cuộc sống hàng ngày. 1.2.2.  Những tồn tại cần khắc phục:    a)  Về phía giáo viên:      Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo  của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ  trợ  phong phú, sử  dụng thiết bị  dạy học và ứng dụng CNTT trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động,   tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí   cởi mở thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội   cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, tham gia sắm vai trước  tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần   tích lũy kỹ năng hợp tác cho các em. b)  Về phía học sinh:            ­ Về Kiến thức: + HS hiểu thế nào là kĩ năng sống? + HS hiểu lợi ích của học kĩ năng sống.           ­ Về kĩ năng: + Rèn luyện kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và   kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội;          ­ Về Thái độ: Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự bảo vệ bản   thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội. Đối với HS  tiểu học việc hình thành các kỹ  năng cơ  bản trong học tập và sinh hoạt là vô  cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau  này. 2. Khả năng áp dụng của sáng kiến 2.1. Các giải pháp thực hiện 14
  15. Trong quá trình giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên, tôi đưa ra một số  giải pháp sau: ­ Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp. ­  Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua việc đổi mới phương pháp dạy  học. - Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoại khoá. ­ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các buổi chào cờ đầu tuần. ­  Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh thông qua  xây dựng trường, lớp  xanh­sạch­đẹp­an toàn. ­    Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua các hoạt động   ngoài giờ lên lớp. ­ Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học: 2.1.1. Một số biện pháp nâng cao kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 Qua thực tế, trong học kì vừa qua tôi đã áp dụng phối hợp các biện pháp   đã có và nghiên cứu thêm các biện pháp sau đây:  a. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp Mỗi thầy giáo, cô giáo muốn hoàn thành nhiệm vụ  của người giáo viên   chủ  nhiệm trước hết phải có tình yêu thương con người, có sự  độ  lượng, bao   dung, đồng thời phải hiểu về tâm lý lứa tuổi, phải có cái nhìn tinh tế. Cùng đó,   giáo viên chủ  nhiệm cần am hiểu và biết cách tổ  chức giáo dục kĩ năng sống   cho học sinh. Đối với học sinh có những biểu hiện lệch lạc về nhân cách giáo  viên chủ nhiệm chính là người cùng với gia đình có những biện pháp “kéo” em   về với “cái thiện”. Thầy, cô giáo chủ  nhiệm là cầu nối quan trọng để  kết nối   giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Làm chủ  nhiệm là một nghệ  thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm  gương sáng cho học sinh noi theo về  lời ăn, tiếng nói, tác phong làm việc cho   đến trình độ chuyên môn; quan hệ với trò như người thân để trò cảm thấy vừa  gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm lâu  thấm đất. Trước đây, giáo viên chủ nhiệm chủ yếu là định hướng, hướng dẫn hành  vi  đạo  đức cho HS. Hiện nay giáo viên chủ  nhiệm không chỉ  làm công tác  chuyên môn mà còn phải có tình cảm để giải quyết những tình huống phát sinh  của học sinh trong lớp. Vì thế  ngoài việc phải đảm bảo nội dung lên lớp vừa   tạo sự  hấp dẫn, sáng tạo, mới mẻ, gây hứng thú học tập cho HS. Và điều  không thể  thiếu là người giáo viên chủ  nhiệm phải có tâm huyết với nghề  và  tình yêu thương đối với HS. 15
  16. Vậy để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông qua công tác   chủ nhiệm lớp thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần: ­ Tăng cường giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hình thức   dạy học của mình, qua các giờ sinh hoạt để giáo dục đạo đức và nhân cách cho  HS. ­ Xây dựng hành vi giao tiếp giữa “Thầy với thầy, trò với trò, thầy với   trò” rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hoá, lên án mọi hành vi bạo lực học đường và  xã hội. ­ Thường xuyên liên hệ với cha mẹ HS, kịp thời nắm bắt thông tin, cùng  kết hợp với cha mẹ HS rèn cho HS kĩ năng ứng xử  văn hoá, rèn luyện sức khoẻ  phòng chống bạo lực. ­ Nâng cao ý thức tự nguyện, tự giác, tự  chủ  phát huy được tính tích cực   trong việc rèn luyện kĩ năng sống của thầy cô giáo và học sinh. Giáo dục cho HS  nhận biết được lợi ích của việc rèn luyện kĩ năng về mọi mặt: cho bản thân, gia  đình, xã hội và đất nước. Đồng thời biết quan tâm chia sẻ đến mọi người. ­ Tổ  chức lớp cũng nên đổi mới: lớp trưởng, lớp phó, tổ  trưởng, tổ  phó  cần thay đổi theo từng tháng để  từng học sinh biết được các công việc của   người lãnh đạo, các khó khăn gặp phải và xử  lí ra sao. Đồng thời biết cảm  thông với công việc của người chỉ  huy. Qua đó, rèn cho các em những kĩ năng  chỉ huy­lãnh đạo cần thiết. ­ Giáo viên chủ nhiệm phải thực sự đổi mới phương pháp trong việc thực  hiện công tác chủ  nhiệm lớp, tạo điều kiện để  HS rèn luyện và tự  rèn luyện.  Coi trọng tự rèn luyện của HS và động viên kịp thời.      Vấn   đề   giáo   dục   kĩ   năng   sống   cho   HS   còn   cần   đến   vốn   sống,   tình  thương và nhân cách của người thầy. Học kiến thức  ở thầy trước hết là ở tấm  gương sống của thầy. Vì vậy để  giáo dục kĩ năng sống cho học sinh HS trước   hết “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự  học và sáng tạo” mà  ngành Giáo dục đã phát động. 2.1.2  Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh  qua việc đổi mới phương   pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng   tạo của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử  dụng thiết  bị  dạy học và  ứng dụng CNTT trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ  động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu  không khí cởi mở  thân thiện của lớp của trường. Trong giờ  học, giáo viên cần  tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể,   16
  17. nhất là các em còn hay rụt rè, khả  năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy   kỹ năng sống cho các em. 2.1.3  Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh   qua  các hoạt động ngoại   khoá Hiện nay, việc tổ  chức các hoạt động ngoại khoá luôn được các trường  học quan tâm, chú trọng để rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Các buổi hoạt động   ngoại khoá đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục trẻ, mang đến cho các  em một môi trường học tập năng động, tích cực. Thông qua các hoạt động ngoại  khoá, trẻ  em sẽ  được phát triển trí tưởng tượng, khả  năng sáng tạo, đồng thời  phát huy sự  nhanh nhạy, khéo léo. Ngoài ra, hoạt động ngoại khoá còn giúp trẻ  sống hoà đồng, gắn bó với nhau. Ví dụ: GV tổ chức cho HS thăm nghĩa trang liệt sĩ của xã, nằm ngay sau   trường thì các em sẽ  biết cùng nhau hợp tác để  đi theo hàng lối, tôn trọng kỉ  luật, tôn trọng những người đã hi sinh thân mình vì Tổ  quốc vì nền độc lập và   sự   ổn định hòa bình cho các em được hưởng hạnh phúc, được cắp sách đến  trường. Vậy các em phải biết trân trọng, biết giữ gìn, vệ  sinh và bảo vệ  nghĩa  trang cho trang nghiêm và sạch đẹp, biết cùng nhau dâng hoa lên các chiến sĩ  nhân ngày Thương binh liệt sĩ (27/7).     Hy vọng những thông tin bổ  ích trên sẽ  giúp giáo viên có cái nhìn đúng  đắn và toàn diện về kĩ năng hợp tác cho trẻ để  giúp các em phát triển một cách  tốt nhất.   Giáo dục kĩ năng hợp tác trong học tập và vui chơi cho học sinh Tiểu học thông  qua các môn học đã giúp các em hình thành, xây dựng và rèn các kĩ năng hợp tác  cần thiết để các em tự giải quyết được các vấn đề trong học tập, hoạt động và  trong cuộc sống hàng ngày. 2.1.4 Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh qua các buổi chào cờ  đầu   tuần. Mục tiêu buổi chào cờ  không chỉ  là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập,   các hoạt động giáo dục trong tuần qua, triển khai kế  hoạch tuần tới của Ban   giám hiệu nhà trường mà cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ  một cách sáng  tạo, rèn luyện các kỹ  năng cho học sinh. Chẳng hạn như để  các em được thay  mặt lớp trực đánh giá, nhận xét thêm phần giao lưu với toàn trường qua các tiết  mục văn nghệ, kể chuyện, câu đố, trò chơi… do chính các em đứng ra tổ  chức   dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm. 2.1.5 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua  xây dựng trường,  lớp xanh­sạch­đẹp­an toàn.  17
  18. Trong đó cần chú trọng tạo môi trường tự  nhiên gần gũi với cuộc sống  như trồng  và chăm sóc vườn cây thuốc nam, các câu khẩu hiệu ở các cây xanh,  bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở các em. Ngoài  ra, nhà trường cần phối hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà   trường để cùng góp phần giáo dục kỹ năng sống cho các em. 2.1.6.  Giáo dục kỹ  năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua các hoạt   động ngoài giờ lên lớp Hoạt động văn hóa nghệ  thuật: Đây là một loại hình hoạt động quan  trọng, không thể thiếu được trong sinh hoạt tập thể của trẻ em, nhất là HS tiểu   học. Hoạt động này bao gồm nhiều thể  loại khác nhau: Hát, múa, thơ  ca, kịch   ngắn, kịch câm, tấu vui, độc tấu, nhạc cụ, thi kể chuyện… Các hoạt động này  góp phần hình thành cho các em kỹ năng mạnh dạn, tự tin trước đám đông. Đây  là một trong những kỹ năng rất quan trọng trong xu thế toàn cầu hóa. Hoạt động vui chơi giải trí, TDTT: Vui chơi, giải trí là nhu cầu thiết yếu   của trẻ, đồng thời là quyền lợi của các em. Nó là một loại hoạt động có ý nghĩa  giáo dục to lớn đối với HS  ở trường tiểu học. Hoạt động này làm thỏa mãn về  tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số  phẩm chất: tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần đoàn  kết, lòng nhân ái… Nói về hoạt động này thì hầu hết các trường có tổ chức thực   hiện nhưng xét về tính hiệu quả thì không phải nhà trường nào cũng đạt được.  Sở dĩ như thế là do điều kiện về cơ sở vật chất cũng như  trình độ  chuyên môn  của tổng phụ  trách chưa thể  đáp  ứng được. Nhưng dù sao chúng ta cũng phải   nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này để  hướng hoạt động đạt   mục tiêu đã đề ra. Hoạt động xã hội: Bước đầu đưa HS vào các hoạt động xã hội để  giúp  các em nâng cao hiểu biết về  con người, đất nước, xã hội. Đây là một hoạt   động tuy khó nhưng nó mang một ý nghĩa vô cùng to lớn. Thông qua hoạt động   này, các em sẽ  được bồi dưỡng thêm về  nhân cách, đặc biệt là tình người.   Trong thực tế, hoạt động này đã được các nhà trường tiến hành tương đối tốt.   Nhưng, theo chúng tôi, hoạt động này phải được khai thác một cách triệt để  nhằm phát triển tối đa nhân cách ở các em. Hoạt   động   lao   động   công   ích:   Đây   là   một   loại   hình   đặc   trưng   của  HĐNGLL. Thông qua lao động công ích sẽ giúp các em gắn bó với đời sống xã  hội. Ngoài ra lao động công ích còn góp phần làm cho trẻ  hiểu thêm về  giá trị  lao động, từ  đó giúp trẻ có ý thức lao động lành mạnh. Lao động công ích giúp  trẻ  vận dụng kiến thức vào đời sống như: Trực nhật, vệ  sinh lớp học, sân   trường, làm  đẹp bồn hoa, cây cảnh cho  đẹp trường, lớp. Đây là hoạt động   tưởng như  là thường xuyên nhưng thật ra trong nhà trường bây giờ  HS rất ít  được tham gia các hoạt động này. Có chăng chỉ là ép buộc và hình thức. Nhưng   đây là hoạt động thật sự  cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung  18
  19. quanh. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể  tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động.   Hoạt động tiếp cận khoa học ­ kĩ thuật: Đây là hoạt động giúp các em  tiếp cận được những thành tựu khoa học ­ công nghệ  tiên tiến. Điều đó sẽ  tạo   cho các em sự say mê, tìm tòi, kích thích học tập tốt hơn. Những hoạt động này  có thể là sưu tầm những bài toán vui, tham gia sinh hoạt CLB khoa học, tìm hiểu   các danh nhân, các nhà bác học… Đây là một hoạt động nhằm tạo điều kiện cho   các em làm quen với việc nghiên cứu khoa học và tự  khẳng định mình. Có thể  nói đây là hoạt động mà các nhà trường ít chú trọng tới ­ ít chú trọng không phải  là do không hiểu hết tầm quan trọng của nó mà là do điều kiện không cho phép.  Đó là điều kiện về cơ chế, về thời gian, về năng lực của đội ngũ giáo viên tổng  phụ trách… Tóm lại, hoạt động ngoài giờ  lên lớp có ý nghĩa hết sức to lớn đối với  việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh. Do đó, các nhà quản lý giáo dục cần  tạo mọi điều kiện thật tốt cho những giáo viên phụ  trách công tác này để  sao   cho việc rèn luyện KNS cho HS đạt được hiệu quả cao nhất. 2.1.7 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua các môn học    Qua thực tế cho ta thấy một bộ phận không nhỏ học sinh càng lớn lên đạo  đức càng đi xuống. Biểu hiện ở chỗ thiếu tôn trọng thầy cô, coi thường kỉ luật   của nhà trường, sống không lành mạnh, xa rời chuẩn mực đạo đức của dân tộc  Việt Nam, gian lận trong học tập và thi cử....Đó là những biểu hiện đáng lo   ngại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng một nguyên nhân  được coi là nguồn gốc sâu xa là do các em thiếu kĩ năng sống. Giáo dục kĩ năng  sống là một nội dung rất quan trọng và thiết thực trong chiến lược giáo dục toàn   diện của một nền giáo dục tiên tiến. Vậy Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh   Tiểu học thông qua các môn học là một nội dung thiết yếu mà bất cứ  nhà  trường nào cũng phải quan tâm đến. Thông qua nội dung bài học, cách tổ  chức   các hoạt động dạy học giáo viên hình thành và xây dựng cho các em các kĩ năng  sống như: quan sát, nhận xét, giao tiếp, phân tích, ....Việc giáo dục kĩ năng sống  cho học sinh lớp 2 nói chung và Tiểu học được thực hiện thông qua dạy học các  môn học và tổ chức các hoạt động giáo dục, nhưng không phải là lồng ghép, tích  hợp thêm kinh nghiệm sống vào nội dung các môn học và hoạt động giáo dục  một cách quá tải, mà theo một cách tiếp cận mới: đó là sử  dụng các phương   pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để  tạo điều kiện, cơ  hội cho học sinh thực   hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Từ  đó lồng ghép một  cách nhẹ  nhàng những kinh nghiệm sống vào bài học đến từng đối tượng học  sinh. Trong quá trình dạy lồng ghép kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học thông  qua các môn học cần phải khơi gợi và phát huy sự tham gia của các em bên cạnh  sự  hướng dẫn của giáo viên. Tuyệt đối không nên áp dụng ý kiến hay suy nghĩ  19
  20. chủ quan của giáo viên. Tuyệt đối không được phê bình hay đánh giá khi các em  làm gì đó chưa tốt. Bởi nếu vậy sẽ  làm mất sự  chủ  động, tự  tin và hoà nhập  cùng bạn bè vì  ở  lứa tuổi này các em rất muốn thể  hiện mình.  Trong chương  trình giáo dục Tiểu học vấn đề  Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học   được thể  hiện rõ nhất trong một số  phân môn như: Tiếng Việt, Đạo đức, Tự  nhiên và xã hội. 2.1.8 Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn Tiếng Việt Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành và phát triển  ở học sinh các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi  trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua hoạt động dạy và học môn Tiếng  Việt góp phần rèn luyện thao tác tư  duy, góp phần mở  rộng hiểu biết về  tự  nhiên, xã hội và con người. Kĩ năng sống đặc thù, thể  hiện  ưu thế  của môn  Tiếng Việt là kĩ năng giao tiếp, sau đó là kĩ năng nhận thức, bao gồm nhận thức  thế  giới xung quanh, tự  nhận thức, ra quyết định. Trong sách giáo khoa Tiếng   Việt Tiểu học, có nhiều bài học mà tên gọi của nó đã nói rõ mục tiêu giáo dục   các kĩ năng giao tiếp xã hội như: Lập danh sách học sinh, Lập thời gian biểu,  Viết nhắn tin, Làm biên bản cuộc họp. Khả năng Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh của môn Tiếng Việt không  chỉ  thể  hiện  ở  nội dung môn học mà còn được thể  hiện qua phương pháp của  giáo viên. Để  hình thành các kiến thức và kĩ năng mà chương trình môn Tiếng  Việt   đặt   ra   với   học   sinh   Tiểu   học,   người   giáo   viên   phải   vận   dụng   nhiều   phương pháp dạy phát huy tính tích cực chủ  động sáng tạo của học sinh như:   thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề,  phương pháp tổ  chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi ­ đáp...Thông qua các  hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ  ý  kiến cá nhân, đóng vai... HS có cơ  hội rèn luyện, thực hành nhiều kinh nghiệm  sống cần thiết. 2.1.9 Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 qua môn Tự nhiên và xã   hội Môn Tự nhiên và Xã hội  là một môn học giúp HS có một số kiến thức cơ  bản ban đầu về con người và sức khoẻ, về một số sự vật, hiện tượng đơn giản  trong tự nhiên ­ xã hội. Chú trọng đến việc hình thành và phát triển các kĩ năng  trong học tập như: quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, đặt câu hỏi và diễn đạt  hiểu biết của bản thân về  các sự  vật, hiện tương đơn giản trong tự  nhiên và   trong xã hội,.Đặc biệt môn học giúp HS xây dựng các quy tắc giữ  vệ  sinh, an  toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng; yêu gia đình, quê hương, trường học  và có thái độ thân thiện với thiên nhiên.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1