intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 5

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

26
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học được hoàn thành với mục tiêu nhằm giúp học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 5 tự tin, tự vươn lên trong học tập, biết tự đặt ra nhiệm vụ học tập và có khả năng tự học để hoàn thành môn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành môn Toán lớp 5

  1. PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU            1. Lí do chọn sang kiên: ́ ́        Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những  cơ  sở  ban đầu rất quan trọng của nhân cách các em. Trong các môn học ở tiểu học,  cùng với môn tiếng Việt, môn Toán có vị trí hết sức quan trọng bởi vì:      ­ Các kiến thức kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời  sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học các môn học khác   ở tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc Trung học.        ­ Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ  về số lượng và hình  dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có được phương pháp   nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động có hiệu quả  trong học tập và trong đời sống .       ­ Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ,  phương pháp giải quyết vấn đề; góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả  năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề  đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập   Toán; góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt; khả năng   ứng xử  và giải quyết những tình huống nảy sinh trong học tập và trong cuộc sống;  nhờ  đó mà hình thành và phát triển cho học sinh các phẩm chất cần thiết và quan   trọng của người lao động mới trong xã hội hiện đại        Cũng như  các môn học khác, muốn học tốt môn toán lớp 5, trước hết mọi học  sinh phải có lòng say mê, hứng thú học tập. Bên cạnh đó giáo viên đặc biệt chú ý đến  tâm sinh lí của học sinh cũng như  khả  năng tiếp thu kiến thức của các em. Do vậy   giáo viên ngay từ những ngày đầu năm học giáo viên phải hệ thống lại các kiến thức  và kĩ năng đã học. Từ đó tạo tiền đề để các em tiếp nhận những kiến thức mới của   năm học này.         Tuy nhiên trong thực tế, mỗi học sinh có trình độ nhận thức không giống nhau   dẫn đến việc tiếp thu kiến thức không đồng đều. Trong lơp đ ́ ược phân thanh nhiêu ̀ ̀ 
  2. ́ ượng, trong đo cân quan tâm nhât la nh đôi t ́ ̀ ́ ̀ ưng hoc sinh ch ̃ ̣ ưa hoan thanh môn hoc. Vì ̀ ̀ ̣   thế, để  chất lượng giảng dạy môn Toán được tốt, đòi hỏi giáo viên đứng lớp phải  quan tâm và phải có biện pháp cụ  thể  đối với từng đối tượng học sinh đê giup cac ̉ ́ ́  ̣ em hoan thanh môn hoc. Trong th ̀ ̀ ực tế giảng dạy lớp 5, tôi đã nghiên cứu thực hiện  ́ Một số  biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa  và đã đúc kết thành sang kiên: “ ́ hoan thanh môn Toán l ̀ ̀ ớp 5”.  2. Điêm m ̉ ơi cua sang kiên ́ ̉ ́ ́: ́ ́ Một số biện pháp tiếp sức cho học sinh chưa hoan thanh môn Toán Sang kiên “ ̀ ̀   lớp 5” xuât phat t ́ ́ ừ việc đổi mới đánh giá học sinh theo TT30/2014/TT­BGDĐT ngày   28/8/2014 vê Qui đ ̀ ịnh đánh giá học sinh tiểu học. Sáng kiến đưa ra nhưng giai phap ̃ ̉ ́  ̀ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ nhăm giup hoc sinh hoan thanh môn hoc ma lâu nay giao viên th ̀ ́ ường quen goi hoc ̣ ̣   sinh yêu kem. ́ ́  Sang kiên có ý nghĩa thi ́ ́ ết thực và mang tính thực tiễn cao, đáp  ứng   được nhu cầu của giáo viên trong giai đoạn giáo dục hiện nay. Nó giúp  häc sinh cha hoµn thµnh m«n to¸n lớp 5 tự tin, tự vươn lên trong học tập, biết tự đặt ra nhiệm   vụ  học tập và có khả  năng tự  học đê hoan thanh môn hoc. ̉ ̀ ̀ ̣  Đông th ̀ ơi đ ̀ ề  cao tính tự  chủ, tự lập cua ch ̉ ủ thể của học sinh, người thầy chỉ làm vai tro h ̀ ướng đạo, áp dụng  tính ưu việt của mô hinh VNEN trong qua trinh d ̀ ́ ̀ ạy học phat huy t ́ ối đa tính tích cực,   ̣ sang tao, ch ́ ủ động của người học. 3. Phạm vi ap dung: ́ ̣      Sang kiên áp d ́ ́ ụng trong thời gian tư tháng 9 năm 2014 đ ̀ ến tháng 3 năm 2015 vơí  ́ ượng  học sinh lớp 5 tôi đang day  đôi t ̣ ở đơn vị công tác. Vơi sang kiên nay, tôi không ́ ́ ́ ̀   có nhiều tham vọng mà chỉ  nhằm mục đích đóng góp một phần công sức của mình  ̉ ̣ ̣ vào công tác giang day hoc sinh, giup cac em hoan thanh môn Toan theo h ́ ́ ̀ ̀ ́ ương đôi ́ ̉  mơi đanh gia hoc sinh tiêu hoc. Tôi mong mu ́ ́ ́ ̣ ̉ ̣ ốn sẽ  có được những giải pháp hữu   hiệu, bài học kinh nghiệm để  áp dụng vào thực tiễn day hoc nhăm nâng cao chât ̣ ̣ ̀ ́  lượng giao duc  ́ ̣ ở trương va trong huyên nha. Đi ̀ ̀ ̣ ̀ ều này càng có ý nghĩa nếu sang kiên ́ ́  ̉ ̀ ̣ giúp học sinh đat đ co tinh kha thi thi viêc  ́ ́ ̣ ược yêu câu vê chuân kiên th ̀ ̀ ̉ ́ ức ki năng môn ̃  
  3. ̣ ̣ ̉ ̣ ̣ ợi bởi vi đây la môn hoc công cu đê  Toan cang đat hiêu qua. Hoc sinh cang thuân l ́ ̀ ̀ ̀ ̀ ̣ ̣ ̉ giuṕ   ́ ̀ ́ ́ ́ ớp trên va trong cuôc sông cua minh. cac em co hanh trang quy bau lên cac l ́ ̀ ̣ ́ ̉ ̀
  4. PHÂN II ̀ : PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC TIẾP SỨC HỌC SINH  CHƯA HOÀN THÀNH  MÔN TOÁN LỚP 5: 1. Thuận lợi:         ­ Cơ sở vật chất cua  nha tr ̉ ̀ ương ngày càng tăng tr ̀ ưởng phuc vu cho viêc day hoc ̣ ̣ ̣ ̣ ̣   ̉ ̉ ̉ ơi.  đam bao theo đôi m ́        ­ Đội ngũ giáo viên phần đa trẻ, khoẻ, nhiệt tình năng nổ, có tâm huyết và trách  nhiệm với nhiệm vụ được phân công. ́ ̣ ̉ ực trong hoc tâp. Viêc đanh gia theo          ­ Đa sô hoc sinh chăm ngoan, nô l ̣ ̣ ̣ ́ ́ thông tư  ̣ ợi cho hoc sinh châm tiên bô, cac em không con tâm ly t 30/2014/TT­BGDĐT thuân l ̣ ̣ ́ ̣ ́ ̀ ́ ự  ̣ ̉ ̀ ́ ự  cô găng v ti, măc cam ma co s ́ ́ ươn lên. Cung v ̀ ơi s ́ ự  hợp tac giup đ ́ ́ ỡ cua cac ban ̉ ́ ̣   ̣ ́ ́ ức cua giao viên cac em đa co s trong nhom, cac biên phap tiêp s ́ ́ ̉ ́ ́ ̃ ́ ự tiên bô. ́ ̣       ­ Phụ huynh đã có sự nhận thức sâu sắc đến công tác giáo dục con em trên địa bàn. 2.  Khó khăn:        a/Về học sinh: ̣ ́ ̣ ̉ ̣ ̣ ̣        ­ Môt sô hoc sinh kha năng tiêp thu bai con châm, vân dung th ́ ̀ ̀ ực hanh luyên tâp ̀ ̣ ̣   ̀ ̣ con han chê nên ch ́ ưa hoan thanh môn hoc. ̀ ̀ ̣       ­ Tính tự giác của môt sô h ̣ ́ ọc sinh trong học tập chưa cao, chưa nhận thức đúng  đắn về động cơ và mục đích học tập, các em còn ham chơi, lười học.        ­ Trong một lớp học có học sinh chưa hoan thanh d ̀ ̀ ẫn đến tiến đô h ̣ ọc tập ca l ̉ ơṕ   chậm lai, giao viên danh nhiêu th ̣ ́ ̀ ̀ ơi gian kem căp làm  ̀ ̀ ̣ ảnh hưởng đến những học sinh   khác. ̣ ̣        ­ Theo quy đinh hiên nay  giáo viên không ra bài tập về nhà cho học sinh, nên việc  tự học bài ở nhà của một số học sinh hâu nh ̀ ư không có, nếu có thì cũng chỉ học qua  loa.        b/Về phía giáo viên:         ­ Giáo viên ít có kinh nghiệm trong việc vận dụng mô hình trường học mới nên   vẫn con lung tung ̀ ́ ́ trong công tác giảng dạy. Khi lên lớp giáo viên thường quen sử 
  5. dụng các phương pháp dạy học truyền thông, vi ́ ệc vận dụng phương pháp đổi mới  trong dạy học vân ch ̃ ưa linh hoat. ̣                 ­ Giao viên ch ́ ưa co ki năng đanh gia hoc sinh theo ́ ̃ ́ ́ ̣   thông tư  30/2014/TT­ BGDĐT. c/Về phụ huynh học sinh         ­ Một số p hụ  huynh học sinh không quan tâm đến việc học của con em mình,  phó thác cho nhà trường và thầy cô giáo. Do đó, các em học sinh  thường không có ý  thức trong học tập, thậm chí các em không hề xem bài hay học bài ở nhà.  3. Số liệu thống kê:           Qua thời gian tích cực thực hiện công tác giảng dạy, phụ đạo học sinh chưa   hoan thanh. Tôi theo dõi th ̀ ̀ ấy các em học sinh chưa đạt môn Toán ở đợt kiểm tra đầu   năm như sau:       Sĩ số 9 ­ 10 7 – 8 5 – 6
  6.  Một số  em bị  hỏng một số kiến thức, kĩ năng  ở  lớp trước, khả  năng tiếp thu  kiến thức và hình thành kĩ năng chậm. Phương pháp học tập của một số  em chưa   phù hợp, thiếu khoa học.   Một số  em hay lơ  là  thiếu tập trung, chủ  quan hay tính  nhẩm mà không chịu làm ra nháp, làm xong bài không thử lại. 4.3. Về phía giáo viên: Một số giáo viên chưa nắm thật vững những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng của   bài dạy, giảng dạy còn mang tính dàn trải, chưa theo dõi sát sao, xử lý chưa kịp thời   những biểu hiện sa sút của học sinh. Khi phát hiện học sinh hỏng kiến thức giáo viên   không dám mạnh dạn dừng bài dạy để  giúp các em nắm lại kiến thức. Vì vậy các  em không hiểu bài, dễ mặc cảm, chán nản, không có hứng thú trong học tập.  Giáo viên khi đứng lớp có vận dụng đổi mới phương pháp nhưng chưa đạt hiệu  quả cao vì giáo viên còn ảnh hưởng phần nào thói quen nói nhiều hay lặp lại câu trả  lời của học sinh; nhận xét thay cho học sinh. Giao viên ch ́ ưa tin tưởng vào khả năng  tự học của các em nên chưa tạo nhiều cơ hội cho các em tự học, tự chiếm lĩnh kiến  thức, hợp tac nhom. Chính vì l ́ ́ ẽ đó mà còn hạn chế khả năng phát triển của học sinh.  Tổ chức giúp đỡ, tiếp sức cho các em còn chung chung không có biện pháp cụ  thể  cho từng đối tượng học sinh nên số  lượng học sinh chưa hoan thanh môn toán ̀ ̀   ́ Giáo viên chưa chú ý quan sát đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là  con không it .  ̀ học sinh chưa đạt. Chưa tìm tòi nhiều phương pháp dạy học mới kích thích tính tích  cực, chủ động của học sinh. Chưa thật sự quan tâm tìm hiểu đến hoàn cảnh gia đình  của từng học sinh.  Trên đây là một số  nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa hoàn thành  môn học mà bản thân nhận thấy trong quá trình làm công tác dạy học. Qua việc phân   tích những nguyên nhân đó, bản thân đưa ra một số  biện pháp để  giáo dục, giúp đỡ  tiếp sức cho các em. Trong phạm vi của đê tai, tôi ch ̀ ̀ ỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ  học sinh chưa hoàn thành môn toán lớp 5.
  7. II. CAC  BI ́ ỆN PHÁP THỰC HIÊN: ̣ Biện pháp thứ nhất:  Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn  trở ngại về mặt tâm lí .   Việc thua kém bạn bè trong học tập làm cho các em gặp những khó khăn về  mặt tâm lí  như tự ti, chán học. Vì vậy giúp các em khắc phục vượt qua các khó khăn   trở ngại về tâm lí này sẽ  tạo điều kiện cho các em vươn lên đạt kết quả  trong học  tập.   Để làm tốt điều đó, tôi luôn gần gũi, chăm sóc uốn nắn các em, tạo cho các em   cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Vì lứa tuổi các em là hiếu động, khả  năng tập trung chú ý tuy đã tiến bộ hơn các lớp trước nhưng vẫn dễ bị phân tán. Thật  là một cực hình nếu các em phải ngồi im không nói, không cựa quậy. Vì vậy, tôi cần  hướng tính năng động của các em vào hoạt động có mục đích để  giờ  học đạt hiệu  quả.   Trong giảng dạy trước đây, chủ yếu tôi đặt câu hỏi cho từng học sinh trả lời,   không cho trả lời tập thể, hạn chế đồng thanh. Vì vậy một số em không được gọi thì  không có việc để  làm. Những em này không tập trung suy nghĩ, không khí lớp học  không sôi nổi, cho nên tôi nghĩ phải làm sao cho các em vui mà học, học mà chơi, vừa   học vừa chơi. Chơi là hình thức, vui là tính chất, học là mục đích cuối cùng. Muốn   được như vậy thì hình thức cung cấp kiến thức, kĩ năng cho học sinh phải phong phú  không chỉ  khô khan: cô giảng trò nghe, cô hỏi trò trả  lời, mà cần phải tổ  chức cho   từng học sinh được tham gia hoạt động.   Cụ  thể   ở  bài Mi­li­mét vuông. Bảng đơn vị  đo diện tích( Trang 27­SGK): .   Thay vì tôi đặt câu hỏi cho học sinh nêu những đơn vị  đo diện tích đã học để  hình  thành bảng đơn vị đo diện tích cho học sinh, tôi đã chuyển cái mệnh lệnh khô khan  ấy bằng trò chơi truyền điện: đầu tiên tôi nêu một đơn vị  đo diện tích rồi gọi một   học sinh  khác trả  lời, em này có nhiệm vụ  nêu tiếp một đơn vị  đo diện tích nhưng  không được trùng với đơn vị  trước và không được chậm quá 5 giây. Nếu nêu xong  em có quyền gọi bạn khác. Cứ như thế cho đến lúc tôi thấy đủ số đơn vị ở bảng ôn  
  8. thì dừng lại. Hình thức chơi này, tuy chỉ từng em nói nhưng vẫn gây được hào hứng  và sôi nổi vì tất cả  các em đều trong tư  thế  chuẩn bị  đón nhận luồng điện truyền  đến. Các em còn hứng thú vì đây không phải là lệnh của cô giáo mà là của bạn bè và   bản thân các em được gọi bạn em sau khi trả lời đúng. Để khuyến khích các em mạnh dạn phát biểu ý kiến ngoài việc khen ngợi tuyên  dương những ý đúng, ý sáng tạo, tôi cũng không bác bỏ những ý kiến chưa hợp lí của  các em một cách thô bạo mà tôi luôn nhẹ nhàng, hóm hỉnh dẫn dắt các em phát biểu   vào trọng tâm vấn đề. Còn đối với những học sinh chưa đạt hay nhút nhát tôi vẫn   chấp nhận những ý kiến mà các em lặp lại của bạn hay của cô. Tôi thiết nghĩ đối   với học sinh tiểu học giáo viên nên khen ngợi kịp thời khi các em hoàn thành nhiệm  vụ, đồng thời động viên các em chưa hoàn thành nhiệm vụ. Không nên trách phạt,  chê bai các em mà cần động viên khuyến khích là chính.    Việc tạo cho các em một không khí học tập nhẹ nhàng, vui tươi thoải mái tao ̣   cho các em cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui với nhiều trò chơi học   tập. Điều đó đã góp phần quan trọng giúp các em khắc phục vượt qua những khó   khăn trở ngại về mặt tâm lí.  Biện pháp thứ hai: Hình thành khả năng tự học ở học sinh.   Theo cách dạy truyền thống các em đến trường chỉ  nhận được lượng kiến  thức duy nhất từ  thầy cô. Những kết luận bài học đều do thầy cô cung cấp. Cách   dạy học như thế tạo cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách thụ  động. Chính vì  thế chưa hình thành khả năng tự học ở học sinh. Do đó, muốn hình thành cho học sinh kĩ năng tự  học thì tôi phải lựa chọn, phối   hợp nhiều hình thức giảng dạy như: cá nhân, nhóm, cả  lớp.  Các em được thực sự  cùng nhau trao đổi, tìm tòi khám phá kiến thức qua các hoat đông hoc tâp đ ̣ ̣ ̣ ̣ ể tìm ra lời  giải hoặc để  hiểu bài; chỗ  nào chưa rõ thì hỏi cô giáo hoặc bạn trong nhóm để  có   thêm gợi ý giải thích…HS tiến bộ rõ về sự tự tin cũng như mạnh dạn hơn trong giao   tiếp; các em có sự  chia se giúp đ ̉ ỡ nhau trong học tập, kĩ năng tự học và tự  đánh giá   được nâng lên; các em có cơ  hội phát biểu, nêu vân đê con  th ́ ̀ ̀ ắc mắc và hiểu được  
  9. bài học. Đăc biêt chu trong đên ph ̣ ̣ ́ ̣ ́ ương phap day hoc nêu vân đê đê cac em tim cach ́ ̣ ̣ ́ ̀ ̉ ́ ̀ ́   ̉ ́ ơi hoc sinh con châm, giao viên tiêp s giai quyêt, v ́ ̣ ̀ ̣ ́ ́ ức gợi mở đê tim ra ph ̉ ̀ ương an. ́ Tôi phải chăm chút từng đối tượng học sinh nhất là học sinh chưa hoàn thành  theo hướng cá thể hóa dạy học. Tôi thường xuyên đi đến từng nhóm, từng học sinh  để  giúp đỡ  các em, mối thân thiện sẽ  hình thành từ  đây và các em sẽ  bộc lộ  những  suy nghĩ, hiểu biết của mình với giáo viên. Tôi luôn yêu cầu cao đối với bản thân và  xác định các yếu tố  quyết định sự  thành công của giờ  học là phương pháp dạy của  người thầy và cach h ́ ọc của trò. ̉ ̣ ̣ Chăng han, day bai  ̣ ́ ̀ Diên tich hinh tam giac: ̀ ́ GV yêu cầu HS lấy ra 2 hình tam giác  bằng nhau, cắt 1 hình tam giác theo một  đường cao rồi ghép lại thành một hình chữ nhật  A E B Đường cắt 1 2 1 2 D H C ­Yêu cầu HS so sánh diện tích một hình tam giác với diện tích hình chữ  nhật   vừa tạo ra (HS nhận ra diện tích hình tam giác bằng 1/2 diện tích hình chữ nhật),  ­ Yêu cầu HS nhắc lại cách tính diện tích hình chữ nhật, so sánh cạnh đáy hình  tam giác với chiều dài hình chữ  nhật, chiều cao hình tam giác với chiều rộng hình  chữ nhật. ­Từ cách tính diện tích hình chữ nhật suy ra cách tính diện tích hình tam giác. Sau bước này GV mới cho HS rút ra công thức tính diện tích hình tam giác a x h S= 2 Phải tạo không khí lớp học sinh động từ khâu giới thiệu bài, hình thành bài mới   như thế nào để lôi cuốn các em tham gia hoạt động một cách tích cực.   Tôi cũng rèn cho các em biết cách sắp xếp và sử  dụng đồ  dùng học tập như  thế nào cho nhanh, chính xác. Tôi luôn nghiên cứu bài dạy đề ra mục tiêu cho sát, rõ 
  10. về kiến thức, kĩ năng, thái độ không chung chung quá nặng so với trình độ học sinh.   Xây dựng cho mình kế hoạch bài dạy sát với trình độ  của học sinh, làm sao cho tất  cả học sinh đều làm việc như vậy các em sẽ tập trung chú ý vào bài giảng của thầy   cô. Đầu tiết học tôi thường kiểm tra kiến thức cũ có liên quan đến bài mới rồi từ đó  dần dắt vào bài mới để các em dễ nắm được bài. Biện pháp thứ ba:  Kiểm tra đánh giá mức độ kiên th ́ ưc ́ ở cac l ́ ơp d ́ ươi, có k ́ ế  hoạch bổ sung những kiến thức mà các em bị hỏng.         Kiến thức các lớp dưới là nền tảng để tiếp thu các kiến thức lớp trên. Do vậy  tôi đã tiến hành kiểm tra, phân loại đối tượng học sinh, lên kế  hoách bổ  sung các  kiến thức liên quan  ở  các lớp dưới. Các kiến thức cần ôn tập bổ  sung tôi chia làm   các nội dung sau:        ­ Kĩ năng tính toán.        ­ Kĩ năng đổi đơn vị đo.       ­ Các quy tắc, công thức tính chu vi diện tích các hình đã học.       ­ Kĩ năng giải các dạng toán điển hình...  Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi thường xuyên theo dõi kết quả  học tập   của các em với nhiều hình thức kiểm tra để nắm được số  lượng học sinh chưa hoàn   thành môn toán. Từ đó có phương pháp giúp đỡ, tiếp sức cho thích hợp đối với từng  đối tượng. Nếu giáo viên không phát hiện kịp thời thì các em dần dần hỏng kiến  thức rồi các em sẽ chán học. Biện pháp thứ tư:  Chia đối tượng học sinh chưa hoàn thành ra từng nhóm  nhỏ có đặc điểm gần giống nhau.            Sau khi nắm được đối tượng học sinh chưa hoàn thành môn Toán, tôi không áp  dụng cách giúp đỡ, tiếp sức một cách chung chung cho tất cả  các đối tượng mà tôi  tiến hành phân chia các em ra thành nhiều nhóm nhỏ có đặc điểm gần giống nhau và  có phương pháp giúp đỡ, tiếp sức cho từng nhóm.    ­ Nhóm 1: Học sinh lơ là thiếu tập trung trong giờ học.
  11.   Các em này có khả năng tiếp thu được kiến thức. Nhưng các em còn ham chơi   và hiếu động nên không tập trung trong giờ  học dẫn đến các em chưa nắm được  kiến thức.  ­ Nhóm 2: Học sinh chưa biết cách giải bài toán có lời văn   Các em này có khả năng tính toán được nhưng kĩ năng giải toán có lời văn còn   hạn chế hoặc còn nhầm lẫn giữa các dạng toán.  ­ Nhóm 3: Học sinh tính toán chậm.      Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do tư duy các em phát triển chậm, bị  hỏng các kiến thức, kĩ năng của các lớp trước, không năm đ ́ ược quy tăc th ́ ực hiên ̣   ̉ tinh, quên bang c ́ ửu chương... Biện pháp thứ năm:  Giao viên  ́ lựa chọn phương pháp thích hợp tiến hành  giúp đỡ,tiếp sức đôi v ́ ới từng nhóm nhỏ:   a/ Đối với nhóm 1: Các em lơ là thiếu tập trung. Để các em có ý thức tốt tập trung nghe giảng,  ở giờ học trên lớp giáo viên cần   thường xuyên nhắc nhở quan tâm đến các em, gọi các em phát biểu, làm bài với câu  hỏi, yêu cầu vừa sức với các em. Cần động viên khen ngợi khi thấy các em có tiến   bộ. Bên cạnh đó giáo viên cần tạo cho không khí lớp học thoải mái bằng các hình   thức trò chơi, câu đố có liên quan đến bài học.    Khi dạy bài “Mét khối” giáo viên có thể  cho học sinh chơi trò chơi Rung   chuông vàng ở bài tập 2 (a.Viết các số đo sau dưới dạng số đo có đơn vị là đề­xi­mét   khối: 1cm3 ;  5,216m3;  13,8m3;  0,22m3 . b. Viết các số đo sau dưới dạng số đo có đơn vị là xăng­ti­mét­khối: 1 1dm3;  1,969dm3;  dm3;  19,54dm3  ) 4   Học sinh suy nghĩ rồi ghi kết quả vào bảng con, giáo viên nhận xét khen ngợi  những học sinh giải đúng. Đến cuối tiết học tôi quan tâm đến đối tượng này xem các em có nắm được  kiến thức hay chưa? Nếu chưa nắm được tôi cần chú ý nhiều hơn  ở  tiết ôn luyện  
  12. cho đến khi các em nắm được kiến thức mới thôi. Dần dần sẽ thúc đẩy được động  cơ  học tập của các em, nếu chúng ta không quan tâm, các em sẽ  chán học dẫn đến   không nắm được kiến thức.   Vào các tiết ôn luyện  ở cuối mỗi mạch kiến thức tôi thường tổ  chức cho các  em chơi các trò chơi mà các em thích như trò chơi hái hoa dân chủ  đểgiúp các em ôn   tập và hệ thống hoá lại kiến thức đã học.Trong trò chơi này mỗi bông hoa tôi ghi tên  một quy tắc tính đã học. Sau đó cho một số  em lên bảng hái và nêu to cho cả  lớp   nghe quy tắc tính có tên trong bông hoa mà mình đã hái. Giáo viên nhận xét khen ngợi  những em nêu đúng động viên khuyến khích những em nêu chưa được về  ôn lại và  cố gắng ở lần sau.  b/ Đối với nhóm 2: Học sinh han chê gi ̣ ́ ải bài toán có lời văn    Để khắc phục được tình trạng này tôi cần phải lưu ý các em nhiều hơn trong  hoạt động giải toán có lời văn. Ngay từ những bài đầu cần tập cho các em cách phân  ̉ tích bài toán chi ra nh ững yếu tố  bài toán đã cho và những yếu tố  cần phải tìm và   mối quan hệ  giữa các yếu tố  này, từ  đó hướng dẫn các em lập kế  hoạch giải bài   toán một cách khoa học, dễ  hiểu. Nếu làm tốt bước này ngay từ  đầu thì khi gặp  những bài toán có lời văn cơ bản các em có thể giải một cách thuận lợi hơn.  * Với dạng bài tập này học sinh thường mắc phải những sai lầm sau:           + Một số em không hiểu đề bài, đọc đề toán mà không tóm tắt được bài toán  cho biết gì? Bài toán yêu cầu tìm gì? (do đề  toán dài, thực lực của một số  em còn   yếu)           + Một số em không biết phân tích bài toán theo hướng đi lên, từ  cái cần tìm   đến cái đã cho để lập kế hoạch giải toán.           +Học sinh không nắm được mối liên hệ của các phép tính trong một bài toán  giải. Có những em tìm ra được điều kiện để  giải bài toán song lại không biết sử  dụng nó cho bước tiếp theo mà chỉ  dựa vào yếu tố  bài toán cho phần đầu, giải một   phần bài toán theo quán tính (ví dụ: thấy hình chữ nhật cho chiều dài, chiều rộng thì 
  13. tính diện tích, hay hình hộp chữ nhật cho chiều dài, chiều rộng và chiều cao thì tính  thể tích) rồi bỏ ngõ bài toán.          + Nhiều em biết các bước làm song việc vận dụng các kiến thức thực tế cũng   như  cách giải các dạng toán điển hình vào một phần của bài toán còn nhiều lúng  túng(do các em thiếu kiến thức thực tế, việc vận dụng một cách tổng hợp nhiều  kiến thức trong một bài toán hạn chế).        * Biện pháp khắc phục:        + Hướng dẫn HS đọc kĩ đề  bài, tóm tắt bài toán, nắm chắc những dữ  liệu bài  toán cho, những yêu cầu cần tìm.         + Phân tích bài toán theo hướng đi lên, muốn có cái cần tìm này thì cần phải biết   thêm cái gì, và để tìm cái tiếp theo phải làm như thế nào, cần sử dụng dạng toán nào  để giải quyết. Cứ như vậy cho đến khi định hướng được cách giải bài toán đó.         + Lập kế hoạch giải bài toán         + Đối chiếu các đơn vị đo xem đã phù hợp chưa, đổi đơn vị đo nếu có.         + Trình bày bài giải. Ví dụ: Hướng dẫn HS giải bài toán sau:         Một bể nước dạng hình hộp chữ nhật có kích thước trong lòng bể là: chiều dài   2m, chiều rộng 1,5m và chiều cao 1m. Khi bể  không có nước, người ta mở  vòi cho   chảy vào bể, mỗi giờ được 0,5m3 . Hỏi sau mấy giờ bể sẽ đầy nước? ­Đầu tiên cho HS đọc kĩ đề toán( ít nhất 3 lần) ­Cho HS tóm tắt bằng cách chỉ ra những dữ liệu bài toán cho, những yêu cầu cần tìm. +Hướng dẫn HS phân tích:  Hỏi HS: ­Nếu cứ  mỗi giờ  vòi chảy được 0,5m3, muốn biết sau mấy giờ  vòi chảy  đầy bể cần biết gì? (Cần biết lượng nước có trong bể). Muốn biết lượng nước trong bể cần tính gì? ( thể tích của bể) ­Nêu cách tính thể tích của hình hộp chữ nhật? ( Lấy chiều dài nhân với chiều rộng   rồi nhân với chiều cao, cùng đơn vị đo) ­Nhắc HS lưu ý các số đo phải cùng một đơn vị.
  14.  +Hướng dẫn HS lập kế hoạch giải: Gọi HS nêu các bước giải: ­Dựa vào phân tích bài toán, theo em bước 1 cần tìm gì? (thể tích của bể ) ­Khi đã biết thể tích của bể bước tiếp theo em tính gì ? (Số giờ để vòi chảy đầy bể)  GV chốt: B1: Tính thể tích của bể.                B2: Tính số giờ để vòi chảy đầy bể.       Chẳng hạn trong tiết ôn luyện tuần 21 khi hướng dẫn học sinh giải bài tập 2:  Một người thợ  gò một cái thùng tôn không nắp dạng hình hộp chữ  nhật có   chiều dài 6dm, chiều rộng 4dm và chiều cao 9dm. Tính diện tích tôn dùng để  làm   thùng( không tính mép hàn) (SGK trang 110) tôi yêu cầu các em phân tích, tóm tắt bài  toán bằng cách đưa ra các câu hỏi: ­ Bài toán cho biết gì? ( Bài toán cho biết một cái thùng tôn không nắp có chiều  dài 6dm, chiều rộng 4dm, chiều cao 9dm ­ Bài toán yêu cầu gì? ( Bài toán yêu cầu tính diện tích tôn dùng để làm thùng?) ­ Thùng không nắp thì có mấy mặt? ( Thùng không nắp có 5 mặt bao gồm 4 mặt   bên và 1 mặt đáy.)) Sau đó tôi tiếp tục đặt câu hỏi để  giúp các em lập kế hoạch giải toán theo mô  hình phân tích bài toán như sau:                    Giáo viên hỏi:                                      Học sinh trả lời: Có diện tích xung quanh rồi, ta           cần tính thêm yếu tố nào nữa?             ­  Tính diện tích một mặt đáy thung tôn ̀ ­ Muốn tính diện tích tôn làm thùng    ­ Tính diện tích xung quanh thung tôn ̀ Trước hết ta phải tính cái gì?                                         ­Bài toán yêu cầu làm gì?                    ­ Tính diện tích tôn dùng để làm                                                                   thùng       
  15.       Từ sơ đồ trên tôi yêu cầu học sinh giải theo thứ tự từng bước từ trên xuông.  ́ ̣ ̣ ́ ( Tinh DT môt măt đay thung tôn­ Tinh DT xung quanh thung tôn­ Tinh DT tôn dung  ́ ̀ ́ ̀ ́ ̀ ̉ ̀ đê lam thung tôn đo. ̀ ́          Với đối tượng hoc sinh ch ̣ ưa hoan thanh n ̀ ̀ ếu các em không giải được các bài   toán hợp thì GV tách bài toán đó ra làm hai hoặc ba bài toán đơn, cho HS giải từng bài  toán đơn  rồi sau đó gộp các bài toán đơn thành một bài toán hợp và yêu cầu HS giải. Trong các tiết ôn luyện có dạng toán giải tôi cũng yêu cầu các em tự tóm tắt và   lập sơ đồ như thế, sau khi các em lập xong sơ đồ tôi sẽ xem xét chỉnh sửa (nếu cần   thiết). Cứ làm kiên trì như thế các em sẽ nắm được cách giải các bài toán có lời văn   và giải một cách thành thạo.    c/ Đối với nhóm 3: Học sinh tính toán chậm.   Đây là một trong những đối tượng tương đối khó, giáo viên cần phải tốn nhiều   thời gian và công sức nhất, khi học chính khóa cũng như lúc giúp đỡ, tiếp sức thêm.   Giáo viên cần thường xuyên ôn tập và hệ thống hóa kiến thức kỹ năng cho các   em. Khi chưa nắm rõ kiến thức các em thường ghi nhớ một cách máy móc. Dân dân ̀ ̀  ́ ́ ́ ́ ́ ́ ́ ́ ươc tinh khi th giup cac em năm chăc cac quy tăc tinh, cac b ́ ́ ực hiên. Bên c ̣ ạnh đó giáo  viên cần khéo léo sắp xếp cho các em học sinh yếu ngồi cạnh một học sinh khá tạo  điều kiện cho các em có thể giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn. Sự có mặt kịp thời của   giáo viên trước những khó khăn của học sinh yếu khi làm bài có tác dụng nâng cao  niềm tin cho các em trong học tập.     Trong tiết học, giáo viên cần tạo điều kiện cho các em phát biểu nhiều lần   bằng cách nêu những câu hỏi, đưa những bài tập vừa sức các em làm được để  tạo   niềm tin trong học tập cho các em đã làm được những bài tập đó, giáo viên nên khen   ngợi kip thời và tăng dần bài tập  ở  mức học sinh trung bình có thể  làm được. Như  vậy là tôi đã giao việc cho các em từ mức dễ đến mức vừa sức. Đối với các tiết ôn luyện của mỗi tuần tôi thường đưa ra các bài tập có dạng   tương tự  nhau để  các em luyện cho quen dạng bài. Sau mỗi mạch kiến thức tôi lại  hệ thống hoá lại các kiến thức cơ bản để các em dễ nhớ. Đối với những bài có kiến  
  16. thức dễ lẫn sau khi các em đa năm được từng dạng tôi sẽ ra mỗi bài tập ở mỗi dạng  yêu cầu các em làm rồi giúp các em rút ra điểm khác nhau của mỗi bài để  các em   khắc sâu và ghi nhớ cách làm của mỗi dạng. Ví dụ: Khi dạy phép chia số thập phân là phép tính mà các em thường sai nhiều,   bởi đối với từng dạng bài thì có cach th ́ ực hiên khác nhau. ̣ Cách khắc phục là khi ôn luyện, tiếp sức tôi cho các em làm cùng lúc cả 4 dạng:  Chia một số thập phân cho một số tự nhiên, chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên  mà thương tìm được là một số  thập phân, chia một số  tự  nhiên cho một số  thập   phân, chia một số  thập phân cho một số  thập phân để  dễ  dàng rèn kĩ năng tính và  nhấn mạnh sự khác biệt. Cụ thể:  Đặt tính rồi tính:   5,28 : 4;         882 : 36;        702 : 72;         8,216 : 5,2 Đối với dạng toán về tỉ số phần trăm các em cũng dễ lẫn giữa dạng 2 và dạng   3. Để  khắc phục tôi cũng làm tương tự  cho các em làm cùng lúc hai dạng bài này   chẳng hạn: “tìm 20% của 100” và “ 20%  của một số là 100, tìm số đó?”         Khi giúp đỡ tiếp sức cho nhóm này tôi đặc biệt rèn cho các em kĩ năng tính toán,   bởi có tính toán được thì các em mới có thể làm được các dạng toán khác. Cụ thể tôi   sẽ giúp các em thực hiện đặt tính, sau đó thực hiện tính. Khi các em đã tính được kết  quả các phép tính mà tôi đưa ra, tôi sẽ hướng dẫn các em cách thử lại kết quả đó để  các em tự kiểm tra xem mình đã làm đúng chưa. Biện pháp thứ sau: ́   Phối kết hợp với cha mẹ học sinh.   Sau một thời gian giảng dạy, tôi nắm được một số  học sinh chưa hoàn thành  môn Toán của lớp mình. Ngoài việc họp tất cả cha mẹ phụ huynh học sinh, tôi tiến   hành mời cha mẹ học sinh theo từng thời điểm của từng nhóm để trao đổi cặn kẽ về  đặc điểm của từng nhóm học sinh. Từ  việc trao đổi từng nhóm riêng lẻ  tôi và phụ  huynh học sinh có điều kiện bàn bạc để  tìm ra nhiều biện pháp khắc phục những  hạn chế của các em.
  17.   Hàng tháng tôi thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh để báo cáo kết quả  học tập cũng như những biểu hiện thất thường của học sinh để cho phụ huynh nắm   mà có biện pháp cụ thể đối với các em.         Biên phap th ̣ ́ ư bay ́ ̉ : Sử dụng hình thức khen thưởng, động viên học sinh.        Trong quá trình giảng dạy, tôi luôn động viên, khuyến khích học sinh. Đặc biệt  quan tâm đến sự  tiến bộ của đối tượng học sinh chưa hoan thanh, trân trong s ̀ ̀ ̣ ự  tiên ́  ̣ ̉ ̀ ̀ ́ ́ ử dụng các hình thức khen thưởng như: Khen trước lớp,   bô cua cac em du la rât it. S ́ khen trước toàn trường. Ngoài ra  ở  lớp, tôi còn lập quỹ  khen thưởng, trích quỹ  thưởng cho những học sinh có sự tiên bô ro rêt tháng sau h ́ ̣ ̃ ̣ ơn tháng trước. Trong năm  ̣ ̣ hoc nay, viêc th ̀ ực hiên đanh gia hoc sinh theo ̣ ́ ́ ̣  thông tư  30/2014/TT­BGDĐT   mang  ́ ơ hôi đ tinh nhân văn sâu săc. Cac em co c ́ ́ ́ ̣ ược nha tr ̀ ường khen thưởng, đo la đông l ́ ̀ ̣ ực  lơn thuc đây s ́ ́ ̉ ự nô l ̉ ực phân đâu v ́ ́ ươn lên ở hoc sinh. ̣       Không nhưng thê, tôi luôn đ ̃ ́ ộng viên gia đình học sinh đặt mục tiêu khen thưởng  ở nhà va theo doi s ̀ ̃ ự tiên bô cua con em đê khen kip th ́ ̣ ̉ ̉ ̣ ời.  III.  KẾT QUẢ ĐAT Đ ̣ ƯỢC: Qua nghiên cứu và thực hiện một số biện pháp để giúp đỡ, tiếp sức cho các em   chưa hoàn thành môn Toán của lớp mình phụ  trách, tôi nhận thấy các em có tiến bộ  rõ rệt. Đa số  các em biết cách tính toán và tỉ  lệ  các em thực hiện tính đúng kết quả  các phép tính mà giáo viên đưa ra là rất cao. Đa số các em đã biết cách giải những bài  toán có lời văn cơ bản. Những em hay lơ là thiếu tập trung trong giờ học nay các em  đã hào hứng tham gia một cách sôi nổi, càng ngày các em chưa hoàn thành môn học   thể hiện rõ nét tiến bộ của mình.  Theo thống kê kết quả bài kiểm tra định kìcuối học kỳ I, năm học 2014­ 2015  như sau: Sĩ số    Điêm 9 ­ 10 ̉   Điêm 7 – 8 ̉     Điêm 5 ­ 6 ̉     Điêm 
  18.                  Từ các bảng số liệu trên cho ta thấy qua nghiên cứu và thực hiện số học sinh đạt  yêu cầu cơ bản tăng từ  75,9 % lên 100% , không co h ́ ọc sinh chưa hoan thanh môn  ̀ ̀ ̉ Toan ( giam 21,1% so v ́ ơi đâu năm). Đ ́ ̀ ặc biệt các em rất tự tin, hứng thú trong học  tập. Điều này cho ta thấy một số biện pháp giúp đỡ, tiếp sức cho học sinh chưa hoàn  thành môn Toán đã mang lại kết quả tương đối khả quan. Nhiều em vào đầu năm  học rất nhút nhát hay trốn học nay em có tiến bộ rất nhiều có thể tự học được bài. PHÂN III: PH ̀ ẦN KẾT LUẬN 1. Y nghia cua sang kiên: ́ ̃ ̉ ́ ́ Việc nghiên cứu những biện pháp để giúp đỡ, tiếp sức cho học sinh chưa hoàn   thành môn Toán ở trong nhà trường  có  y nghĩa rât quan trong trong công tác nâng cao ́ ́ ̣   chất lượng dạy học. Qua thơi gian th ̀ ực hiên, tôi rut ra bài h ̣ ́ ọc kinh nghiệm cho bản   thân, đó là:  Giúp các em khắc phục, vượt qua những khó khăn trở ngại về mặt tâm lí. Giáo  viên phải tạo được cho các em sự thích thú khi đi học, ham thích học toán   Phải tiến hành đổi mới phương pháp dạy học nhằm hình thành khả  năng tự  học của học sinh.          Kiểm tra đánh giá mức độ kiên th ́ ưc ́ ở cac l ́ ơp d ́ ươi, có k ́ ế hoạch bổ sung những  kiến thức mà các em bị hỏng. Phân chia đối tượng học sinh yếu ra từng nhóm nhỏ  có đặc điểm gần giống   nhau. Giao viên  ́ lựa chọn phương pháp thích hợp tiến hành giúp đỡ, tiếp sức đôi v ́ ơi  ́ từng nhóm nhỏ.  Phải thường xuyên kết hợp với cha mẹ của các em trong qua trinh giup đ ́ ̀ ́ ỡ hoc̣   sinh chư hoan thanh.  ̀ ̀         Sử dụng hình thức khen thưởng, động viên học sinh đung m ́ ưc, kip th ́ ̣ ơi.  ̀ 2. Nhưng kiên nghi đê xuât:  ̃ ́ ̣ ̀ ́  Để  duy tri đ ̀ ược kêt qua va ap dung day hoc trong ́ ̉ ̀ ́ ̣ ̣ ̣   nhưng năm tiêp theo, tôi có m ̃ ́ ột số kiến nghị như sau :
  19. ­ Về phía phụ huynh: Cần quan tâm đến việc học của con em, ngay từ đầu năm  học các bậc phụ  huynh phải giúp các em hình thanh thói quen và n ̀ ề  nếp tự  học  ở  nhà. Nhắc nhở  con em đến lớp cần chuẩn bị  đầy đủ  dụng cụ  học tập, sách vở  để  các em có điều kiện học tốt . ­Tạo mọi điều kiện để  con em đi học chuyên cần, thường xuyên trao đổi với  giáo viên chủ nhiệm để nắm bắt tình hình học tập của con em mình. Đăc biêt cha me ̣ ̣ ̣  ̣ hoc sinh  th ực sự  vao cuôc tham gia giup đ ̀ ̣ ́ ỡ hoc sinh hoc tâp, ren luyên va đanh gia ̣ ̣ ̣ ̀ ̣ ̀ ́ ́  con em minh. ̀ ­ Về phía giáo viên: Phải thực sự quan tâm yêu thương gần gũi và tạo không khí  vui để học giúp các em chưa hoàn thành yêu thích môn học. Vận dụng linh hoạt các  hình thức, phương pháp dạy học tích cực để  các em có cơ  hội phát triển kiến thức   của mình. Cần tăng cường rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động  học tập.  ­ Về phía nhà trường: Tăng cương h ̀ ơn nưa viêc tô ch ̃ ̣ ̉ ức cac chuyên đê, hôi thao ́ ̀ ̣ ̉   ̣ ̣ ́ ức giup đ vê công tac phu đao, tiêp s ̀ ́ ́ ỡ hoc sinh ch ̣ ưa hoan thanh môn hoc.  ̀ ̀ ̣    Qua nhiều năm tận tụy với nghề, hết lòng yêu nghề, mến trẻ. Thực hiện   phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Kết hợp với kinh nghiệm của bản thân  và sự  chia sẻ  của bạn bè đồng nghiệp, bản thân luôn hoàn thành tốt việc giúp đỡ,  tiếp sức cho học sinh chưa hoàn thành trong môn Toán. Để vận dụng vào thực tế dạy   học rộng rãi trong các trường học, kính mong các cấp lãnh đạo, quý thầy cô đóng góp  ý kiến để sáng kiến kinh nghiệm đây đu h ̀ ̉ ơn nhăm mang tinh  kh ̀ ́ ả thi cao.  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2