intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy Toán học cho học sinh lớp 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:30

47
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là môn toán ở bậc tiểu học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, về đo lường, về hình học, một số yếu tố thống kê đơn giản, giúp các em có được những kĩ năng tính toán, đo lường, và giải các bài toán có nội dung thiết thực trong đời sống. Mục tiêu quan trọng hơn là phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí, phát hiện và giải quyết các vấn đề đơn giản gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng và bước đầu hình thành phương pháp tự học, tự làm việc một cách khoa học, linh hoạt và sáng tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy Toán học cho học sinh lớp 2

  1. 1. Lời giới thiệu  Mục tiêu của môn toán ở bậc tiểu học là cung cấp cho học sinh những  kiến thức cơ bản ban đầu về số học, về đo lường, về hình học, một số yếu tố  thống kê đơn giản, giúp các em có được những kĩ năng tính toán, đo lường, và  giải các bài toán có nội dung thiết thực trong đời sống. Mục tiêu quan trọng hơn  là phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí, phát hiện và giải quyết  các vấn đề đơn giản gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng và  bước đầu hình thành phương pháp tự học, tự làm việc một cách khoa học, linh  hoạt và sáng tạo. Chương trình tiểu học tập trung vào nội dung và đặt trọng tâm vào đổi  mới phương pháp dạy học, đổi mới sách giáo khoa và thiết bị dạy học, về trình   độ  của giáo viên nhằm khuyến khích dạy học trên cơ  sở  hoạt động tích cực,   chủ  động, sáng tạo của học sinh, giúp các em tự  phát hiện và tự  giải quyết   những kiến thức, biết vận dụng vào thực tế cuộc sống. Môn Toán có một vị trí rất quan trọng trong chương trình tiểu học. Với hệ  thống  kiến thức cơ bản, với những kĩ năng vô cùng cần thiết cho (các môn học  khác) và áp dụng vào đời sống thực tế, môn toán góp phần đào tạo một lớp  người có trình độ  cao, nhân  cách phát triển toàn diện, từng bước xây dựng đất  nước ngày càng phát triển và giàu mạnh. Ở tiểu học, nhiệm vụ của dạy học toán là làm cho học sinh lĩnh hội được   một hệ thống kiến thức kỹ năng cơ bản, cần thiết để có thể vận dụng vào thực   tiễn, từng bước bồi dưỡng các thao tác tư duy, phát triển khả năng suy luận của  học sinh tiểu học.
  2. Qua thực tế những năm giảng dạy lớp 2, tư duy của học sinh tiểu học từ  trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.   Vậy việc bồi dưỡng năng lực tư  duy toán học cho học sinh tiểu học nói chung   và học sinh lớp 2 nói riêng là vô cùng quan trọng và cần thiết. Sách giáo khoa toán 2 được xây dựng trên cơ  sở  kế  thừa những cái hay   của sách cũ và có nhiều ý tưởng mới như: tăng thực hành vận dụng, sử  dụng   nội dung thực tế gần gũi với đời sống học sinh tiểu học. Lựa chọn các nội dung  cơ bản, hiện đại, thiết thực, giúp học sinh hình thành phương pháp tự  học môn   toán. Học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức mới.  Biết vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống. Theo quan điểm trên, tất  cả  các sách giáo khoa mới đều cắt bỏ  những bài toán khó  thay vào đó là những  bài toán vận dụng thực tế thúc đẩy óc tò mò, sáng tạo tăng khả năng tư duy của  trẻ. Thực tế  dạy và học môn toán  ở  trường tiểu học thì trong một lớp có   nhiều đối tượng học sinh khác nhau. Mà hệ  thống bài tập trong sách giáo khoa   chương trình tiểu học lại mang tính chất phổ cập đối với học sinh diện đại trà.  Không còn những bài toán sao, bài toán nâng cao cho học sinh khá giỏi. Những  bài toán khó trước đây đã được cắt bỏ   ở  chương trình giảm tải. Chỉ  còn lại   những bài toán có tính chất đại trà và một số  bài toán cần có sự  tư  duy lô­gic.  Mặc dù biết được điều đó nhưng người giáo viên đứng lớp cũng không thể tự ý  ra thêm các bài tập hoặc giảm bớt số lượng các bài tập cho các đối tượng học   sinh, vì làm như  vậy sẽ  vi phạm quy định về  chuẩn kiến thức kĩ năng đối với  học sinh tiểu học.  Do đó, làm thế nào để  các bài toán phù hợp với từng đối tượng học sinh  khi giải mà vẫn không vi phạm tới quy định về chuẩn kiến thức kĩ năng các môn  ở tiểu học đó là một điều trăn trở  lớn đối với tôi. Vì vậy tôi quyết định viết  ra  một số kinh nghiệm rồi đúc kết thành đề  tài “Một số  giải pháp nâng cao năng 
  3. lực tư  duy Toán học cho học sinh lớp 2.” Mong được sẻ  chia với bạn bè đồng  nghiệp, cũng là để củng cố và trau dồi kĩ năng chuyên môn cho bản thân. Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở lớp 2 nói chung và   dạy giải toán có lời văn nói riêng, cũng còn rất nhiều vấn đề  cần nghiên cứu   xoay quanh các hoạt động dạy học như: Các phương pháp dạy học đặc trưng,  các hình thức tổ  chức dạy học mang lại hiệu cao..., nên tôi đi sâu nghiên cứu   một số giải pháp giúp học sinh biết phân tích đề, tóm tắt và giải các bài toán về  Số học, đại lượng và đo đại lượng, các yếu tố hình học, giải toán 2 (Nhất là các   bài toán có lời văn). Mặt khác, các bài toán có lời văn cũng rất đa dạng về hình  thức, phong phú về nội dung. Có bài tập xuất hiện xen kẽ với các yếu tố  khác   theo nguyên tắc tích hợp, có bài mang tính chất riêng rẽ. Ở đề tài này, tôi chỉ tập  trung nghiên cứu các bài tập cơ bản và mở rộng một chút với một số ví dụ minh  họa để làm sáng tỏ các giải pháp được đưa ra. Trường Tiểu học Hoàng Hoa là một trường thuộc địa bàn vùng núi của   huyện Tam Dương. Điều kiện kinh tế ở đây còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí   chưa cao nên đã kéo theo đại đa số phụ huynh học sinh của trường còn đi làm ăn   xa, thiếu quan tâm đến việc học tập của con em mình. Cùng với đó là cơ sở vật   chất, đội ngũ giáo viên của nhà trường còn chưa đủ, từ đó dẫn đến chất lượng   các môn học, nhất là môn Toán còn rất nhiều hạn chế. Ngay từ  đầu năm học, được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ  nhiệm lớp 2A, tôi nhận thấy các em vẫn còn hạn chế  rất nhiều trong phần số  học, đại lượng và đo đại lượng, các yếu tố  hình học, giải toán và toán có lời  văn. Các em chưa thật sự  nắm được cách giải dạng toán một cách vững chắc,  nhất là các bài toán có lời văn và cần đến sự  tư  duy, chưa phát huy được khả  năng của mình, thiếu tính linh hoạt trong một số tình huống nhất định. Điều đó  sẽ làm cho các em khó đạt được thành tích tốt trong học tập. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài “Một số giải pháp nâng   cao năng lực tư duy Toán học cho học sinh lớp 2.” 2. Tên sáng kiến  “Một số  giải pháp nâng cao năng lực tư  duy Toán học cho học sinh lớp   2.”
  4. 3. Tác giả sáng kiến ­ Họ và tên: Nguyễn Văn Đủ ­   Địa  chỉ  tác  giả  sáng   kiên:  ́ Trương ̉ hoc̣  Hoàng  Hoa,   huyện  Tam   ̀  Tiêu  Dương, tỉnh Vinh Phuc. ̃ ́ ­ Số điện thoại: 0987465248. Email: vandu8376@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến  Nhà giáo Nguyễn Văn Đủ – Giáo viên trương Tiêu hoc Hoàng Hoa – Tam ̀ ̉ ̣   Dương – Vinh Phuc. ̃ ́ 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Học sinh lớp 2 ­ “Một số  giải pháp nâng cao năng lực tư  duy Toán học   cho học sinh lớp 2.” 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử  Ngay 23 thang ̀ ́  9 năm 2019  7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Về nội dung của sáng kiến Quá trình dạy học toán trong chương trình tiểu học được chia thành hai  giai đoạn: giai đoạn các lớp 1, 2, 3 và giai đoạn các lớp 4, 5. Ở giai đoạn lớp 1,  2, 3 có thể  coi là giai đoạn học tập cơ bản còn giai đoạn lớp 4, 5 có thể  coi là  giai đoạn học tập sâu (so với giai đoạn trước).  Ở  lớp 1, 2, 3 học sinh chủ yếu   chỉ  nhận biết khái niệm ban đầu, đơn giản qua các ví dụ  cụ  thể  với sự  hỗ  trợ  của các vật thực hoặc mô hình, tranh  ảnh, ... do đó chủ  yếu chỉ  nhận biết “cái  toàn thể”, “cái riêng lẻ”, chưa làm rõ các mối quan hệ, các tính chất của sự vật,  hiện tượng. Bản thân tôi là một giáo viên đã có nhiều năm làm công tác dạy học khối  lớp 2 nên tôi cũng đã nghiên cứu sâu về phân môn toán học. Khi dạy, tôi rất quan  tâm và đầu tư cho học sinh lớp 2 cách tư duy toán học, vì đây là cách tốt nhất  giúp học sinh làm tốt các dạng toán.
  5. Kiến thức lớp 2 bao gồm các chủ đề kiến thức sau: Số học, Đại lượng và   đo đại lượng, Yếu tố hình học, Giải toán, tôi thấy mình  và các đồng nghiệp còn   gặp nhiều khó khăn về  phương pháp dạy. Song với trách nhiệm của một giáo  viên, muốn nâng cao chất lượng giảng dạy của mình và đồng nghiệp tôi đã có  sự  đầu tư  nhất định trong việc nghiên cứu, tìm tòi để  đưa ra một phương pháp  dạy phù hợp giúp cho quá trình dạy toán của mình đạt hiệu quả. Trong khuôn  khổ bài viết tôi xin được nêu ra một số kinh nghiệm về  “Một số giải pháp nâng   cao năng lực tư duy Toán học cho học sinh lớp 2.”  Những năm học trước, khi dạy toán 2, tôi thường sử  dụng các phương  pháp dạy học: ­ Phương pháp trực quan       ­ Phương pháp thực hành ­ luyện tập       ­ Phương pháp gợi mở ­ vấn đáp           ­ Phương pháp giảng giải ­ minh họa. + Tôi tìm hiểu về hệ thống bài tập trong sách giáo khoa toán 2            ­ Chương trình tiểu học mới.      Toàn bộ  hệ  thống bài tập trong sách giáo kho toán 2 (trong chương trình  giáo dục phổ thông) ­ Được xây dựng trên quan điểm kế  thừa những thành tựu  của toán 2 ­ chương trình 165 tuần và có những ý tưởng mới để phù hợp với xu   thế phát triển của chương trình tiểu học của khu vực và Thế giới. Tìm hiểu hệ thống bài tập ta thấy rõ được ý tưởng của người biên soạn   chương trình. Toàn bộ  hệ  thống bài tập được biên soạn thành các phiếu luyện  tập ­ So với Chương trình 165 tuần thì các bài tập trong SGK toán 2 mới có ý  tưởng rất mới, đó là việc tăng cường rèn luyện kỹ  năng thực hành vận dụng,   hơn 50% thời lượng dạy học toán dành cho thực hành. Học sinh được làm một  số  bài tập để  củng cố, thực hành kiến thức mới học, từ  đó hiểu và vận dụng   những kiến thức và kỹ năng về số, đại lượng, hình học …
  6.        Trong sách giáo khoa thường không nêu các kiến thức có sẵn mà chỉ  nêu   các tình huống có vấn đề  (chủ  yếu bằng hình  ảnh) để  học sinh tự  hoạt động   trên các đồ dùng học tập nhằm phát hiện ra kiến thức mới theo hướng dẫn của   giáo viên. Vì thế, khi xây dựng hệ thống bài tập, ban chỉ đạo chương trình cũng   đã xây dựng theo quan điểm tăng tình huống giải quyết vấn đề. Học sinh muốn   giải quyết được bài tập thì phải nhận biết được các tình huống có vấn đề, từ đó  sẽ dễ dàng giải quyết vấn đề mà bài tập đưa ra.        Nhận định hệ thống bài tập trong SGK toán 2 mới ở góc độ đại trà có thể  thấy rằng: Trong từng tiết học số  lượng các bài tập ít hơn. Sách cũ: Một tiết  toán có ít nhất là 5 bài tập, có nhiều nhất là 10 bài tập. Sách mới: Trong một tiết  toán có nhiều nhất là 5 bài tập, nhờ  có giải pháp này mà học sinh lớp 2 mới có  thể học tới “ Cộng, trừ trong phạm vi 1000 và các bảng nhân, chia 2, 3, 4, 5…”  mà không bị quá tải.         Điều này chứng tỏ  rằng: Số  lượng bài tập  ở  sách mới giảm so với sách   cũ. Mặt khác hệ  thống bài tập đưa ra không khó, không phức tạp, có thể  phù  hợp với tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp. Tuy nhiên những bài tập này  thường chứa đựng nhiều nội dung có thể phát triển ở các mức độ khác nhau.         Sau khi học sinh đã thực hiện các yêu cầu cơ  bản nhất của từng bài tập,  nếu có điều kiện thời gian và căn cứ vào từng đối tượng học sinh, giáo viên có   thể  hướng dẫn học sinh khai thác chính bài tập đó. Số  lượng bài tập giảm nên   giáo viên không được bắt học sinh phải làm thêm nhiều bài tập  ở  ngoài phiếu,   nhất là các bài tập không phù hợp với mục tiêu của tiết học hoặc vượt quá  phạm vi cho phép của chương trình. Vì thế giáo viên có thể dựa vào những bài  tập đã cho sẵn trong sách giáo khoa mà đặt những câu hỏi, bài tập khai thác, phát   triển các bài tập đó cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Những ý tưởng   mới này hướng tới mục tiêu của dạy học môn toán lớp 2 mới là nhằm giúp học   sinh bước đầu có một số  kiến thức và kĩ năng cơ  bản, đơn giản, thiết thực, có  
  7. hệ thống, rèn luyện khả năng diễn đạt, trìmh bày, giải quyết các tình huống có   vấn đề. Phát triển năng lực tư duy theo đặc trưng của môn học, quan trọng hơn   là xây dựng phương pháp học tập cho học sinh.  Tôi áp dụng đề  tài này tại một số  Trường tiểu học của tỉnh Vĩnh Phúc.  Trong đó có Trường tiểu học Hoàng Hoa ­ huyện Tam Dương, Trường nằm trên  địa bàn xã Hoàng Hoa. Một xã còn nghèo nàn về  cơ  sở  vật chất cộng với đời  sống nhân dân trong xã còn gặp nhiều khó khăn do không có việc làm  ổn định.  Học sinh chủ yếu là con nhà nông dân, nên các em thường phải lo phụ giúp gia  đình, điều đó  ảnh hưởng không ít đến chất lượng dạy học nói chung và chất   lượng dạy học các yếu tố của phân môn toán ở bậc tiểu học nói riêng. Qua thực tế  giảng dạy chương trình toán lớp 2 cải cách, khi dạy học về  phần số  học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố  hình học, giải toán tôi nhận  thấy những hạn chế học sinh thường gặp phải là: Thứ nhất, học sinh chưa nắm chắc bảng cộng, trừ, nhân và chia (từ bảng  2 đến bảng 5) Thứ hai, học sinh khó định dạng bài tập. Thứ ba, nhiều em xác định được dạng toán nhưng lại vận dụng một cách  rập khuôn, máy móc mà không hiểu được thực chất của vấn đề cần giải quyết   nên khi gặp bài toán có cùng nội dung nhưng lời lẽ khác đi thì các em lại lúng   túng. Bản thân những bài toán có lời văn vừa thiết thực, song lại có phần trừu  tượng, học sinh phải làm quen với nhiều thuật ngữ  mới như: “nhiều hơn”, “ít   hơn”, “gấp đôi”..., đòi hỏi phải có năng lực tư  duy, khả  năng suy luận hợp lí,  cách phát hiện và giải quyết vấn đề, về  mặt này học sinh tiểu học  ở các vùng  miền khác nhau thì khả năng nói trên cũng khác nhau.  Hai năm học liên tiếp (năm học 2017­2018 và năm học 2018­2019), khi dạy  toán lớp 2, tôi nhiều khi còn lúng túng. Khi hình thành kiến thức mới, giáo viên  phải làm việc tương đối nhiều, việc tổ chức dạy học theo tinh thần lấy học làm   trung tâm chưa hiệu quả khi dạy học yếu tố này. Chuyển sang khâu luyện tập   thực hành, giáo viên vẫn phải theo dõi và giúp đỡ rất nhiều học sinh  mới hoàn   thành các bài tập đúng tiến độ.
  8. Về   phía   giáo   viên,   tôi   cho   rằng,   phần   lớn   là   do   thói   quen,   chủ   quan,  thường hay xem nhẹ  khâu phân tích các dữ  liệu bài toán. Mặt khác, đôi khi còn  lệ thuộc vào sách giáo khoa một cách máy móc, dẫn đến học sinh hiểu bài chưa  kĩ, giáo viên giảng giải nhiều nhưng lại chưa khắc sâu được bài học, thành ra   lúng túng. Thực trạng này cũng góp phần làm giảm chất lượng giảng dạy yếu  tố nói trên của phân môn. Trước thực trạng này, thiết nghĩ, cần phải có một giải pháp cụ  thể  giúp  học sinh biết tư duy, phân tích đề  toán để  làm rõ những điều kiện bài toán cho   và yêu cầu cần giải quyết, tránh sự nhầm lẫn nói trên. Từ đó biết tóm tắt đề bài  sao cho khi nhìn vào phần tóm tắt học sinh có thể  tự  tin mà lựa chọn phương  pháp giải thích hợp. Vì vậy tôi đã: ­ Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn về các dạng toán lớp 2 liên quan đến  nâng cao năng lực tư duy môn toán cho học sinh lớp 2. ­ Nghiên cứu về nội dung, mức độ và phương pháp trong dạy học về nâng  cao năng lực tư duy môn toán cho học sinh. ­ Các cách giải các bài toán có lời văn liên quan đến nâng cao năng lực tư  duy môn toán cho học sinh. ­ Nghiên cứu về  khả  năng tiếp thu, vận dụng các kiến thức đã học vào  giải toán về: số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán 2. Các bài tập có thể khai thác trong chương trình toán 2: 1) Bài tập 2 (trang 46 ­ SGK toán 2) 2) Bài tập 1 (trang 48 ­ SGK toán 2) 3) Bài tập 1 (trang 100 ­ SGK toán 2) 4) Bài tập 2 (trang 169 ­ SGK toán 2) 5) Bài tập 2 ( trang 150 ­ SGK toán 2)  6) Bài tập 4 (trang 131­ SGK toán 2)  7) Bài tập 2 (trang 24 ­ SGK toán 2) 8) Bài tập 3 (trang 30 ­ SGK toán 2) 9) Bài tập 4 (trang 33 ­ SGK toán 2)  10) Bài tập 3 (trang 120 ­ SGK toán 2)
  9. 11) Bài tập 5 (trang 117 ­ SGK toán 2)  Từ việc áp dụng các một số kiến thức cần lưu ý khi dạy các dạng toán 2  này, tôi đã rút ra các giải pháp sau để áp dụng vào quá trình dạy học  a) Giải pháp 1: Tìm hiểu và phân tích nguyên nhân.  Sau khi điều tra tìm hiểu nguyên nhân tôi thấy có 3 lí do dẫn đến chất  lượng bài làm thấp đó là: ­ Nguyên nhân thứ nhất: Giáo viên hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức  không có hệ thống gặp đâu dạy đấy vì vậy học sinh nắm bài hời hợt. ­ Nguyên nhân thứ hai: Trong quá trình dạy, giáo viên chưa biết cách giúp  học sinh ghi nhớ về phương pháp giải từng dạng bài. ­ Nguyên nhân thứ ba là: Một số học sinh chưa nắm vững đặc điểm, bản  chất của một số bài tập cơ bản và nâng cao đã học. + Biện pháp khắc phục:  Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng vào thực  tiễn vấn đề  về  “Một số giải pháp nâng cao năng lực tư duy Toán học cho học   sinh lớp 2.”, tôi thấy giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm lý lứa tuổi học   sinh tiểu học: Tư  duy cụ  thể chiếm  ưu thế nhưng các em rất tò mò ham hiểu   biết từ đó lựa chọn những nội dung phương pháp phù hợp khơi dạy tính tò mò,  tạo hứng thú học tập cho học sinh. b) Giải pháp thứ hai: Nghiên cứu tài liệu sách tham khảo kết hợp với  những kinh nghiệm của bản thân để xây dựng cho mình một phương pháp dạy  phù hợp với trình độ và năng lực của học sinh. Cụ thể các phương pháp áp dụng  là: Gợi mở vấn đáp, luyện tập thực hành... + Biện pháp khắc phục: Phải nắm vững cấu trúc của chương trình để  đưa ra nội dung, kiến thức ở mức độ phù hợp nhằm huy động tối đa những hiểu  biết vốn có của học sinh giúp học sinh có thể chiếm lĩnh kiến thức một cách  chủ động sáng tạo.  Chú trọng từng khâu từng phần trong mạch kiến thức. Không đốt cháy  giai đoạn bởi học sinh có nắm chắc phần kiến thức này thì mới có thể tiếp thu  phần kiến thức khác được. c) Giải pháp thứ ba: Xây dựng hệ thống bài tập theo từng mức độ và từng  giai đoạn nhận thức của học sinh. Hệ thống bài tập gồm:
  10. ­ Bài tập củng cố, khắc sâu. ­ Bài tập xen kẽ với các dạng toán khác. ­ Bài tập mở rộng và vận dụng thực tế.  + Biện pháp khắc phục: Giáo viên phải thấy được những khó khăn của  học sinh để giúp học sinh giải quyết vấn đề một cách thấu đáo. Bao giờ cũng vậy trước khi giúp học sinh tìm tòi phát hiện một vấn đề  mới, cần củng cố và khắc sâu lại những kiến thức có liên quan tạo đà cho việc  chiếm lĩnh kiến thức mới. d) Giải pháp thứ tư: Lên kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch, có  đánh giá rút kinh nghiệm. + Biện pháp khắc phục: Sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học để cho  kết quả học tập một cách cao nhất. 7.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và đưa ra cho mình  một giải pháp dạy phù hợp với trình độ và nâng cao năng lực tư duy của học  sinh,  nâng cao hiệu quả dạy học a. Các bài tập có thể khai thác trong chương trình toán 2 1) Bài tập 2 (trang 46­SGK toán 2)  2) Bài tập 1 (trang 48­SGK toán 2) 3) Bài tập 1 (trang 100­SGK toán 2) 4) Bài tập 2 (trang 169­SGK toán 2) 5) Bài tập 2 ( trang 150­SGK toán 2)  6) Bài tập 4 (trang 131­SGK toán 2)  7) Bài tập 2 (trang 24­SGK toán 2) 8) Bài tập 3 (trang 30­SGK toán 2) 9) Bài tập 4 (trang 33­SGK toán 2)  10) Bài tập 3 (trang 120­SGK toán 2)
  11. 11) Bài tập 5 (trang 117­SGK toán 2)  b. Các cách khai thác đề toán + Tìm nhiều cách giải cho một  bài toán         Sau khi đã giải xong bài toán giaos viên cần hướng dẫn  học sinh khai thác  bằng cách cho học sinh xem xét bài toán có thể giải bằng cách khác nữa không?   Nếu giải được theo cách khác thì yêu cầu  học sinh giải để so sánh các cách giải  với nhau, để từ đó tìm ra cách giải hay nhất. Với cách khai thác này chúng ta có  thể đề ra nguyên tắc sau để tìm ra nhiều cách giải cho một bài toán: “Sau khi đã  tìm ra một cách giải thì viết gộp các phép tính giải lại để  có một dãy tính, rồi  tìm cách biến đổi dãy tính ấy thành các dạng khác để suy ra cách giải mới (nếu   có)  + Đặt các bài toán mới tương tự như bài toán đã giải      Sau khi học sinh đã thực hiện xong yêu cầu của bài toán, giáo viên hướng  dẫn học sinh khai thác, phát triển bài toán bằng cách ra các bài toán mới tương  tự bài toán vừa giải. Việc giải các bài toán mới phát triển này là một biện pháp  rất tốt, giúp HS nắm vững mối quan hệ giữa các đại lượng và những quan hệ  bản chất trong mỗi loại toán. Nhờ thế mà học sinh hiểu bài toán sâu sắc hơn rất  nhiều.  + Đặt các bài toán ngược với bài toán đã giải       Theo nguyên tắc sau: “Thay đáp số  vào một trong những điều đã cho và   đặt câu hỏi vào những điều đã cho ấy’’ + Từ bài tập  đã cho đặt câu hỏi gợi ý để   học sinh phát hiện ra một  số tính chất quan trọng của phép toán. c. Các nguyên tắc khai thác, phát triển các bài tập trong sách giáo  khoa Toán 2
  12. ­ Nguyên tắc1: Khai thác, phát triển các bài tập phải đi đúng nội dung chương  trình của toán 2.  ­ Nguyên tắc 2: Khai thác, phát triển các bài tập phải phù hợp với từng   đối  tượng học sinh.  ­ Nguyên tắc 3: Xuất phát từ các bài tập đã có để khai thác.                              d. Áp dụng các cách khai thác để tạo hệ thống bài tập rèn năng lực  tư duy cho học sinh lớp 2.    1) Bài tập 2 (trang 46 – SGK toán 2 ). Tính nhẩm    9 + 1 =                                 8 + 2 =                                             3 + 7 =     10 – 9 =                              10 – 8 =                                            10 – 3 = 10 – 1 =                              10 – 2 =                                            10 – 7 =      Với bài tập này sách giáo viên chỉ yêu cầu học sinh tính nhẩm và tự điền  kết quả phép tính. Bài tập trên quả là quá dễ  đối với học sinh khá giỏi. Do đó  khi các em đã làm xong bài tập, tôi sẽ đặt các câu hỏi để khai thác bài toán như  sau: ­ Em có nhận xét gì về mối quan hệ giữa các phép tính trong mỗi cột tính?  ­ HS sẽ nhận xét được: Từ phép cộng 9 + 1 = 10 sẽ có hai phép trừ: 10 – 9 = 1 và  10 ­ 1 = 9 hoặc 8 + 2 = 10 suy ra : 10 – 8 = 2 và 10 – 2 = 8 …        Từ cách khai thác bài toán như vậy dần dần HS sẽ nhận thấy: “Lấy tổng   trừ đi số hạng này thì được số hạng kia”. Cách khai thác đó sẽ là tiền đề để HS  làm bài tập dạng: “Tìm một số hạng chưa biết trong một tổng”  2) Bài tập 1 (trang 48 – SGK ). Tính nhẩm   9 + 2 =              8 + 3 =                     7 + 4 =                         6  + 5 =      2 + 9 =              3 + 8 =                      4 + 7 =                        5 + 6 =    11 – 9 =             11 – 8 =                    11 – 7 =                      11 – 6 =    11 – 2 =             11 – 3 =                    11 – 4 =                      11 – 5 =    
  13.         Với bài tập này học sinh phải thao tác trên que tính để tìm kết quả, giáo  viên chỉ  yêu cầu  học sinh  viết đúng kết quả  tính vào từng phép tính, làm như  vậy tuy đúng với mục tiêu của bài dạy nhưng lại không phát huy được năng lực  tư duy của các em.         Do đó, tôi sẽ  cho học sinh khai thác bài tập này để  giúp học sinh tự phát  hiện ra một tính chất quan trọng của phép cộng (chưa gọi tên tính chất) và phát  hiện mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ, giữa các thành phần trong phép  tính. Đặt câu hỏi cho học sinh nêu:     ­ Em có nhận xét gì về kết quả  hai phép tính: 9 + 2 = 11 và 2 + 9 = 11  để  học sinh thấy  2 + 9 cũng bằng 9 + 2 (vì đều bằng 11). Như thế, khi biết 9 + 2 =   11 thì tìm ngay được kết quả của 2 + 9 cũng bằng 11. Lặp đi lặp lại nhiều lần   với các dạng bài tập tương tự  ở tiết học này và các tiết học khác dần dần học  sinh  nhận ra được: “Nếu đổi chỗ  các số  hạng trong một tổng thì tổng không   thay đổi”. Thực chất đây là tính chất giao hoán của phép cộng song chưa yêu   cầu gọi tên tính chất này.        Mặt khác, giáo viên có thể cho học sinh nhận xét mối quan hệ từ các phép  cộng và các phép trừ trong cột tính là: “Lấy tổng trừ đi số hạng này thì được số  hạng kia”.              3) Bài tập 1 (trang 100 – SGK ). Tính                   2 x 3 =                     2 x 4 =                             4 x 3 =                   3 x 2 =                     4 x 2 =                             3 x 4 =        Với bài tập trên, trong sách giáo viên chỉ  yêu cầu  học sinh tự  làm rồi sau  đó giáo viên chữa bài. Thiết nghĩ, trước đó 2 tiết  học sinh  mới chỉ  được học  bảng nhân 2, vì thế  việc làm bài tập trên rất vừa sức với tất cả  các đối tượng   học sinh . Song để phát triển kĩ năng tư  duy cho học sinh tôi đã đặt câu hỏi để  khai thác bài toán trên như sau: 
  14. ­ Em có nhận xét như thế nào về kết quả của 2 phép nhân ở từng cột tính?  ­ HS sẽ nêu nhận xét 2 x 3 = 6 và 3 x 2 = 6 kết quả của 2 phép nhân đều bằng   nhau. + Tương tự học sinh sẽ nhận thấy  2 x 4 = 8 và  4 x 2 = 8;  4 x 3 =12 và 3 x 4 = 12       Qua thao tác so sánh kết quả như vậy, dần dần  học sinh sẽ nhận ra rằng:  “Khi ta đổi chỗ các thừa số trong 1 tích thì tích không thay đổi”. Bằng cách khai  thác học sinh đã tự phát hiện ra 1 tính chất rất quan trọng của phép nhân, đó là  tính chất giao hoán song không yêu cầu học sinh nêu tên của tính chất.        4) Bài tập 2 (trang 169 – SGK) a) Viết các số 842, 965, 477, 618, 593, 404 theo mẫu:            842 = 800 + 40 + 2  b) Viết theo mẫu:            300 + 60 + 9 = 369                             700  + 60 + 8 =  800 + 90 + 5 =                         600 + 50       =  200 + 20  + 2 =                            800 + 8         =      Với bài tập trên, tôi sẽ cho học sinh tự làm phần a theo mẫu. Khi chữa bài  tôi sẽ tập cho học sinh nêu. Chẳng hạn: số 842 có 8 trăm, 4 chục, 2 đơn vị hoặc   số  842 là tổng của 8 trăm, 4 chục, 2 đơn vị. Còn phần b tôi sẽ  phát triển thành   bài tập sau:    ­ Nối tổng với số tương ứng:                                                                               Sau khi học sinh đã nối xong, cho các em nêu nhận xét: 
  15. + Chẳng hạn: “Tại sao lại nối tổng: 300 + 60 + 9 với số 369? ”   Học sinh  sẽ  nhận xét được: Có 300, 6 chục, 9 đơn vị thì viết được số 369.          Như  vậy, từ  việc thực hành luyện tập bài tập này và những bài tập có   dạng như trên học sinh sẽ nắm vững hơn về việc phân tích cấu tạo số, dần dần  có thể học sinh sẽ biết phân tích số dưới dạng tổng quát hơn                    abc = aoo + bo + c        5) Bài 2 (trang 150 – SGK). Số ?                          92 cm +         cm  = 1m                         85 cm +         cm  = 1m                         74 cm +         cm  = 1m        Bài tập trên khó với đối tượng học sinh trung bình, yếu. Vì vậy, khi học  sinh thực hiện yêu cầu của bài tập tôi sẽ  gợi ý hướng dẫn cho đối tượng HS   trung bình, yếu như sau:   ­ Đổi 1m = 100cm .   ­ Thực hiện việc tìm số hạng chưa biết trong tổng dạng 92 +         = 100   ­ Điền số tìm được vào ô trống.    6) Bài tập 4 (trang 131 – SGK) a. Tính độ dài đường gấp khúc ABCDE;  b.Tính chu vi hình tứ giác ABCD:                     B              D                                                               B                                                                                A                                C     A              C              E                                                         D         Bài toán này giúp học sinh củng cố về nhận biết và tính độ dài đường gấp  khúc, nhận biết và tính chu vi hình tứ giác. Đối với bài toán trên tôi sẽ hướng  dẫn học sinh khai thác bằng cách tìm nhiều cách giải khác nhau. Sau khi học  sinh đã tự giải bài toán theo cách thông thường bằng cách sau :
  16. + Cách 1: a. Độ dài đường gấp khúc ABCDE là:                     3cm + 3cm + 3cm + 3cm = 12cm                    b. Chu vi hình tứ giác ABCD là:                     3cm + 3cm + 3cm + 3cm = 12cm     ­ Gợi mở, hướng dẫn HS tìm tòi cách giải khác :   + Cách 2: a. Độ dài đường gấp khúc ABCDE là: 3cm x 4 = 12cm                   b. Chu vi hình tứ giác ABCD là:          3cm x 4 = 12cm      ­ Gợi ý để học sinh nhận xét, so sánh:          Trong cách giải thứ nhất ta lấy lần lượt độ dài của từng đoạn thẳng cộng  lại với nhau thì ra độ dài của đường gấp khúc. Làm tương tự như vậy với việc   tính chu vi tứ  giác. Trong cách giải thứ  hai ta nhận thấy các đoạn thẳng của   đường gấp khúc dều bằng nhau, các cạnh của hình tứ giác cũng bằng nhau .         Do đó, ta chỉ cần lấy độ dài của một đoạn thẳng hoặc một cạnh nhân với  số đoạn thẳng hoặc số cạnh. Sở dĩ cả hai cách làm trên đều cho cùng đáp số  là  do mối quan hệ giữa một tổng các số hạng bằng nhau: 3cm + 3cm +3cm + 3cm   = 12cm. Phép cộng trên có 4 số hạng bằng nhau, do đó ta chuyển phép cộng trên  sang phép nhân: 3cm x 4 = 12cm        Tóm lại: Việc đi sâu tìm hiểu nhiều cách giải khác nhau cho một bài toán  có vai trò to lớn trong việc rèn luyện kỹ  năng, củng cố  kiến thức, phát huy trí  thông minh, óc sáng tạo cho học sinh. Những cách giải khác nhau của một bài  toán góp phần hình thành và củng cố  cho HS về tính chất của các phép tính số  học. Trong khi cố gắng tìm ra những cách giải khác nhau của bài toán  học sinh  sẽ  có dịp suy nghĩ đến những khía cạnh khác nhau của bài toán. Do đó sẽ  hiểu   sâu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong bài toán, giúp các em   có dịp so sánh các cách giải khác nhau    học sinh sẽ  tìm được con đường ngắn  nhất để đi tới đích, không vội bằng lòng với kết quả, chọn ra cách hay hơn và 
  17. tích lũy được nhiều kinh nghiệm để giải toán góp phần rèn luyện trí thông minh,  óc sáng tạo, khả năng tư duy một cách linh hoạt cho học sinh.        7) Bài tập 2 (trang 24 – SGK toán 2)        Nam có 10 viên bi, Bảo có nhiều hơn Nam 5 viên bi.  Hỏi Bảo có bao nhiêu  viên bi?           Bài toán trên là một trong những bài toán về nhiều hơn (dạng đơn  giản).Vì thế trong bài toán xuất hiện từ “nhiều hơn” thì học sinh sẽ làm phép  tính cộng để tìm đáp số của bài toán. Để học sinh phải “động não” không đi theo  thói quen làm toán như trên tôi đã thay đổi từ chỉ quan hệ trong bài toán để phát  triển thành bài toán sau:  “Nam có 10 viên bi, Nam có ít hơn Bảo 5 viên bi. Hỏi  Bảo có bao nhiêu viên bi?”        Bài toán mới này không tồn tại từ “nhiều hơn” nhưng vẫn phải thực hiện   phép cộng để giải. Học sinh sẽ phải suy nghĩ, tìm tòi cách giải bài toán này. Cho  nên, nhất thiết các em phải hiểu được nghĩa của từ “ít hơn” ở trong bài toán này.      8) Bài tập 3 (trang 30 ­ SGK toán 2)  Lớp 2A có 15 HS gái, số học sinh trai của lớp ít hơn số học sinh gái 3 bạn.  Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai?      Trong sách giáo viên chỉ yêu cầu học sinh tóm tắt bài toán rồi giải. Đây là  yêu cầu rất đúng với mục tiêu của tiết học. Song tôi thiết nghĩ đây là bài toán về  “ít hơn” (dạng đơn giản) nên khi giải bài toán học sinh sẽ có thói quen thực hiện  phép trừ  15 ­ 3 = 12 để  tìm số  học sinh trai của lớp 2A. Nhiều học sinh không  cần đọc kĩ đề  mà chỉ  cần thấy có khái niệm “ít hơn” là cho rằng bài toán sẽ  được giải bằng phép tính trừ. Đây cũng chính là điều mà các giáo viên khi dạy   “Bài toán về  ít hơn” và “Bài toán về  nhiều hơn” đã hướng dẫn cho   học sinh.  Giáo viên thường lưu ý cho học sinh:        Nếu thấy trong đề  toán có “nhiều hơn” thì làm phép tính cộng còn trong  bài toán mà có “ít hơn” thì làm phép tính trừ. Với cách hướng dẫn như vậy học  sinh sẽ  thực hiện một cách rập khuôn, máy móc mà không cần phải phân tích, 
  18. nhận xét bài toán làm gì cho mệt. Để  tránh tình trạng như  trên tôi đã phát triển  bài toán trên thành bài toán sau:      “Lớp 2A có 15 học sinh gái, số học sinh gái của lớp nhiều hơn số học sinh  trai là 3em. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu học sinh trai?” Với đề bài này giúp học sinh  hiểu rằng: Không phải bất cứ  bài toán nào có từ  “nhiều hơn” cũng giải bằng  phép tính cộng và bất cứ  bài toán nào có từ  “ít hơn” cũng giải bằng phép tính   trừ. Muốn giải được bài toán thì phải đọc kĩ đề  để  biết được cái đã cho và cái  phải tìm. Yêu cầu học sinh chú ý vào cái bản chất của đề toán. Nhờ đó đầu óc  các em sẽ sáng suốt hơn, tinh tế hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt hơn.               9) Bài tập 4 (trang 33 ­ SGK toán 2)              Mẹ mua về 26 kg vừa gạo nếp vừa gạo tẻ, trong đó có 16 kg gạo tẻ. Hỏi  mẹ mua về bao nhiêu kg gạo nếp?         Đối với bài toán trên, học sinh tự đọc đề, tự  tóm tắt bằng lời sau đó giải  bài toán. Sau khi học sinh đã làm xong yêu cầu cơ bản của bài toán thì giáo viên  sẽ hướng dẫn HS khai thác,  phát triển thành những bài toán như sau:     + Bài toán 1. Mẹ mua về 26 kg vừa gạo nếp vừa gạo tẻ. Trong đó có 10   kg gạo nếp. Hỏi mẹ mua về bao nhiêu kg gạo tẻ?     + Bài toán 2. Mẹ mua về 16 kg gạo tẻ và 10 kg gạo nếp. Hỏi mẹ mua về  tất cả bao nhiêu kg gạo?     + Bài toán 3. Mẹ mua về 10 kg gạo nếp. Số gạo tẻ mua về nhiều h ơn số  gạo nếp là 6 kg. Hỏi mẹ đã mua bao nhiêu kg gạo tẻ?     + Bài toán 4. Mẹ mua về 16 kg gạo tẻ. Số gạo nếp mẹ mua ít hơn số gạo   tẻ là 6kg. Hỏi mẹ đã mua về bao nhiêu kg gạo nếp?  Như  vậy từ  một bài toán đã cho trong sách giáo khoa ta có thể  khai thác,  phát triển thành nhiều bài toán khác. Những bài toán mới này đều nằm trong  phạm vi của chương trình toán 2.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2