intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:25

39
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là việc học toán và giải toán có lời văn là rất quan trọng và rất cần thiết. Để thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu, tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu  Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ  thống giáo dục quốc dân, góp  phần xây dựng nên nguồn nhân lực và đào tạo nhân tài cho sự  nghiệp công  nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Cùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán có vai trò vô cùng  quan trọng, nó giúp học sinh nhận biết được số  lượng và hình dạng không   gian của thế  giới hiện thực, nhờ  đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ   năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Môn toán còn góp phần  rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề  và giải quyết vấn đề;   góp phần phát triển óc thông minh, suy nghĩ độc lập, linh động, sáng tạo cho  học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn toán ở tiểu học còn có nhiều   ứng dụng trong đời sống thực tế. Trong dạy ­ học toán  ở Tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một  vị trí quan trọng. Có thể coi việc dạy ­ học và giải toán là ''hòn đá thử  vàng''  của dạy ­ học toán. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và  linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả  năng đã có vào tình huống  khác nhau, trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ  kiện hay  điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó,  phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời văn  là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ  của học   sinh.             Dạy học giải toán có lời văn ở bậc Tiểu học nhằm mục đích chủ yếu   sau: ­ Giúp học sinh luyện tập, củng cố, vận dụng các kiến thức và thao tác  thực hành đã học, rèn luyện kỹ  năng tính toán biết tập dược vận dụng kiến   thức và rèn luyện kỹ năng thực hành vào thực tiễn. ­ Giúp học sinh từng bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương  pháp và kỹ  năng suy luận, khêu gợi và tập dượt khả  năng quan sát, phỏng   đoán, tìm tòi. ­ Rèn luyện cho học sinh những đặc tính và phong cách làm việc của   người lao động, như: cẩn thận, chu đáo, cụ thể...    Trong quá trình dạy học nhất là khi dạy về toán có lời văn cho học sinh  lớp 5 tôi nhận thấy một số thực trạng sau: 1
  2.             ­ Học sinh đọc đề  vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ  kiện  trọng tâm của đề toán, không chịu phân tích đề toán khi đọc đề.             ­ Đa số học sinh bỏ qua một bước cơ bản trong giải toán là tóm tắt đề  toán. Học sinh chưa xác định các kiểu tóm tắt đề  toán khác nhau phụ  thuộc  vào từng dạng bài cụ thể.             ­ Học sinh chưa có kĩ năng phân tích và tư duy khi gặp những bài toán   phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuân mẫu của những dạng bài cụ  thể  mà các em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư  duy,   suy luận một chút các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ.           ­ Trình bày bài giải chưa khoa học.           ­ Sai lời giải.           ­ Sai cách viết phép tính.            ­ Khi giải xong bài toán, đa số  học sinh bỏ  qua bước kiểm tra lại bài,  dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ quan. Với những lý do đó, trong học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp   Bốn, Năm nói riêng, việc học toán và giải toán có lời văn là rất quan trọng và   rất cần thiết. Để  thực hiện tốt mục tiêu đó, giáo viên cần phải nghiên cứu,  tìm biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững  vàng, hiểu sâu được bản chất của vấn đề  cần tìm, mặt khác giúp các em có   phương pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn  gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học   toán.  Để  đáp  ứng yêu cầu đó, tôi chọn đề  tài  “  Biện pháp nâng cao chất  lượng  giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5”. Tôi hi vọng qua việc nghiên  cứu đề tài này sẽ đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giúp học sinh  hình thành kĩ năng, nâng cao các kĩ năng giải toán nhanh gọn, chính xác đồng  thời góp phần vào phát triển năng lực tư duy cho học sinh. Trong quá trình nghiên cứu sẽ  không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong  được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp. 2. Tên sáng kiến  Một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5 3. Tác giả sáng kiến ­ Họ và tên: Phùng Thị Minh ­ Địa chỉ  tác giả  sáng kiến: Trường Tiểu học Hợp Thịnh huyện Tam   Dương  tỉnh Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0915239338. Email: vietnhat.tm@gmail.com 2
  3. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến  ̀ ́  Phùng Thị  Minh  – Giáo viên trương Tiêu hoc H Nha giao: ̀ ̉ ̣ ợp Thinh – ̣   Tam Dương – Vinh Phuc. ̃ ́ 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến ́ ơp  Môn toan l ́ ở trương Tiêu hoc. ̀ ̉ ̣    6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử    Ngay 06 thang ̀ ́  9 năm 2018.    7. Mô tả bản chất của sáng kiến    7.1. Tình trạng của giải pháp đã biết           7.1.1 Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học. Với học sinh Tiểu học, nhận thức của các em còn mang đậm màu sắc  cảm tính trực quan. Sự nhận thức này luôn gắn liền với các vật thật, các hình  ảnh cụ  thể  gần gũi với cuộc sống thường ngày của các em. Song, quá trình  nhận thức của học sinh tiểu học cũng thay đổi theo đặc điểm lứa tuổi và đặc  điểm cá nhân học sinh. Mỗi học sinh là một thực thể  riêng biệt có những   phẩm chất năng lực và hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau nhưng đều mang trong   mình một tâm hồn nhạy cảm. Ở cuối bậc tiểu học nhận thức lí tính và tư duy  trừu tượng bắt đầu xuất hiện và định hình. Các em có sự  ghi nhớ  lôgic, ghi  nhớ  khoa học…Vì vậy, hoạt động học tập của học sinh cũng khác nhiều so  với giai đoạn đầu bậc học.Việc học của học sinh cũng giống như  việc ăn  uống và hít thở  khí trời của mỗi con người, không ai có thể  làm thay. Trong   hoạt động học, mỗi học sinh làm việc theo sự  tổ  chức, hướng dẫn của thầy   giáo để  lĩnh hội tri thức và trên cơ  sở  đó hình thành kĩ năng, kĩ xảo nhờ  vậy  mà trí tuệ các em phát triển, tâm hồn các em phong phú.  Với những đặc điểm nhận thức đã nêu trên của học sinh Tiểu học,  người giáo viên cần nắm vững làm cơ  sở  để  lựa chọn các phương pháp dạy  học phù hợp trong quá trình giải các bài toán, để  biết cách thu hút sự  chú ý  của học sinh, giúp các em hiểu được bản chất của bài toán, nắm được cách   giải bài toán một cách lô ­ gic khoa học chứ  không máy móc đồng thời dần   dần hình thành  ở  các em các thao tác tư  duy, hình thành các kĩ năng, kĩ xảo   cần thiết của người lao động mới. 7.1.2. Đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học Tư  duy của học sinh là quá trình tâm lí, nhờ  đó mà các em hiểu được,  phản ánh được bản chất của đối tượng, bản chất của các sự vật, hiện tượng  được học sinh nghiên cứu, xem xét trong quá trình học tập. Tư  duy của học   sinh được các nhà nghiên cứu chia ra thành các loại hình, các kiểu khác nhau,  3
  4. đáng chú ý là kiểu phân biệt tư duy thành tư duy kinh nghiệm, tư duy tái tạo,  tư  duy khoa học, tư duy sáng tạo. Tư duy kinh nghiệm có ở  các em từ  trước   lúc các em tới trường. Đó là kiểu tư  duy hình thành và phát triển trên cơ  sở  vốn kinh nghiệm mà mỗi em tích luỹ  được nhờ  cuộc sống hàng ngày và quá  trình học tập mang lại. Kiểu tư  duy này chủ  yếu dựa vào việc so sánh, đối   chiếu đối tượng đang xem xét, nhiệm vụ cần giải quyết với những cái tương  tự. Nó được sử  dụng và phát triển trong quá trình học tập của học sinh. Bên   cạnh đó thì kiểu tư duy khoa học cũng được hình thành dần ở các em. Đây là  kiểu tư  duy chủ  yếu dựa vào việc phân tích các mối quan hệ  bên trong theo  những dấu hiệu chuẩn của đối tượng nhờ đó mà các em phát hiện được, hiểu  và nắm vững bản chất của đối tượng cần nghiên cứu, xem xét. Việc dạy học  ở Tiểu học cần phải hình thành kiểu tư duy này cho các em. Tư duy tái tạo là   kiểu suy nghĩ và giải quyết vấn đề  đặt ra theo khuôn mẫu có sẵn. Đối lập  với nó là tư duy sáng tạo. Tư duy sáng tạo là quá trình tìm tòi phát hiện ra cái  mới, phương pháp mới giải quyết vấn đề. Xuất phát từ đặc điểm các loại tư  duy nói trên nên việc tổ chức dạy học trong nhà trường tiểu học hiện nay là  phải hình thành  ở  các em kiểu tư  duy khoa học, tư  duy sáng tạo chứ  không  phải hình thành ở các em tư duy tái tạo, tư duy kinh nghiệm.  Ghi nhớ  của học sinh Tiểu học là quá trình các em ghi nhận, giữ  lại  thông tin và những tri thức cũng như cách thức tiến hành hoạt động học và khi  cần thiết có thể tái hiện những gì đã ghi nhận, lưu giữ được. Trong tâm lí học  thì trí nhớ  được phân chia thành những loại khác nhau.Tuỳ  theo mục đích và   hoạt động có ghi nhớ có chủ định và ghi nhớ không chủ định; tuỳ theo độ bền   vững của ghi nhớ có ghi nhớ ngắn hạn và ghi nhớ dài hạn; tuỳ theo tính tích   cực tâm lí trong hoạt động nào đó có thể  phân biệt trí nhớ  vận động, trí nhớ  cảm xúc, trí nhớ  hình  ảnh và trí nhớ  lôgic. Học sinh Tiểu học ghi nhớ  máy  móc rất tốt, đó là sự ghi nhớ chủ yếu dựa vào việc học thuộc tài liệu cần ghi  nhớ mà không có sự cải biến và thay đổi tài liệu đó, thậm chí nhiều khi không  cần hiểu nội dung và ý nghĩa tài liệu mình ghi nhớ. Trong quá trình học tập   của học sinh còn xuất hiện cách ghi nhớ dựa vào việc phát hiện lôgic của tài  liệu cần ghi nhớ, dựa vào cách cải biến tài liệu học tập sắp xếp nó theo lôgic   nhất định trên cơ sở nội dung của tài liệu dẫn đến việc ghi nhớ được dễ dàng  và lâu bền hơn. Trí nhớ của học sinh phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lí của   mỗi em. Có em dễ ghi nhớ và ghi nhớ tốt những gì mình nhìn thấy, có em lại  ghi nhớ  tốt những gì mình nghe thấy…Vì vậy, trong quá trình tổ  chức hoạt  động học tập cần tạo điều kiện để  các em tự  hoạt động để  chiếm lĩnh tri  thức.   Đối với học sinh Tiểu học tư duy của các em là tư duy cụ thể, đến lớp 4­5  thì tư duy trừu tượng đã phát triển song việc nhận biết các dữ kiện để giải quyết  4
  5. các bài toán cón gặp nhiều khó khăn. Vì thế, giáo viên cần kiên nhẫn giúp các em  nhận biết được các dạng bài toán để  tìm ra cách giải các dạng bài toán đó. Tuy  nhiên để học sinh nhận biết và giải được các bài toán đó thì cần phải thông qua các  hoạt động thực hành, các hoạt động trừu tượng hóa và khái quát đối tượng.        7.1.3 Đặc điểm nội dung giải toán có lời văn ở lớp 5          Môn  Toán  là  một  môn  học  thuộc  nhóm  khoa  học  tự  nhiên.  Đây  là  môn  học  có  vai  trò  rất  quan  trọng  trong  đời  sống  và  trong  sự  phát  triển  tư  duy  của con người. Mặt khác nó cũng là môn học thể hiện rõ mối quan hệ  với rất  nhiều các môn học khác. Học tốt môn Toán sẽ tác động tích cực tới  các  môn  học  khác  và  ngược  lại,  các môn học khác cũng góp phần học tốt  môn Toán. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết,  gắn học với  hành, gắn kiến thức với thực tiễn của cuộc sống. Môn Toán ở  trường tiểu học bên cạnh mục tiêu trang bị kiến thức toán học còn có nhiệm   vụ  hình thành cho học sinh các năng lực toán học. Trong đó, hoạt động giải   toán được xem là hình thức chủ  yếu để  hình thành phẩm chất và năng lực  toán học cho học sinh vì thông qua hoạt động giải toán, học sinh nắm vững  tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và phát triển tư duy sáng tạo.            Bản  thân  dạy  học  giải  toán  mang  trong  mình  các  chức  năng: chức  năng giáo dưỡng, chức năng giáo dục, chức năng phát triển và kiểm tra. Hoạt  động  giải  toán  có  lời  văn  góp  phần  quan  trọng  trong  việc  thực  hiện  các  mục  tiêu của dạy học toán. Thông qua giải toán có lời văn, HS biết cách vận  dụng  những  kiến  thức  toán  học  và  rèn  luyện  kĩ  năng  thực  hành  với  những  yêu  cầu  được  thể  hiện  một  cách  đa  dạng,  phong  phú.  Nhờ  việc  dạy  học  giải  toán  mà HS có điều kiện phát triển năng lực tư  duy, rèn luyện phương  pháp suy luận và hình thành những phẩm chất cần thiết của người lao động mới. Giải toán có lời văn lớp 5 gồm một số dạng toán cơ bản sau:          ­ Các bài toán liên quan đến tỉ số (ôn tập đầu năm).          ­ Các bài toán liên quan đến quan hệ tỉ lệ (bổ sung  ở phần ôn tập đầu   năm).         ­ Các bài toán về tỉ số phần trăm.         ­ Các bài toán về chuyển động đều.         ­ Các bài toán có nội dung hình học.            7.1.4. Các phương pháp dùng để dạy giải bài toán có lời văn  7.1.4.1. Phương pháp gợi mở ­ vấn đáp 5
  6. Đây là phương pháp rất cần thiết và thích hợp với học sinh Tiểu học,   rèn cho học sinh cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời, tạo niềm tin và khả  năng học tập của từng học sinh.          7.1.4.2. Phương pháp trực quan Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ  thể, gắn với các  hình  ảnh và hiện tượng cụ  thể, trong khi đó kiến thức của môn toán lại có   tính trừu tượng và khái quát cao. Sử  dụng phương pháp này giúp học sinh có   chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ xung vốn hiểu biết, phát triển tư duy trừu   tượng và vốn hiểu biết.           7.1.4.3. Phương pháp thực hành luyện tập Sử  dụng phương pháp này để  thực hành luyện tập kiến thức, kỹ năng  giải toán từ đơn giản đến phức tạp (chủ yếu ở các tiết luyện tập). Trong quá   trình học sinh luyện tập, giáo viên có thể phối hợp các phương pháp như: gợi  mở ­ vấn đáp và cả giảng giải ­ minh hoạ. 7.1.4.4. Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng Giáo viên sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để biểu diễn các đại lượng đã cho   ở  trong bài và mối liên hệ  phụ  thuộc giữa các đại lượng đó. Giáo viên phải   chọn độ  dài các đoạn thẳng một cách thích hợp để  học sinh dễ  dàng thấy   được mối liên hệ  phụ  thuộc giữa các đại lượng tạo ra hình  ảnh cụ  thể  để  giúp học sinh suy nghĩ tìm tòi giải toán.   7.1.4.5. Phương pháp giảng giải ­ minh họa Giáo viên hạn chế  dùng phương pháp này. Khi cần giảng giải ­ minh  hoạ thì giáo viên nói gọn, rõ và kết hợp với gợi mở ­ vấn đáp. Giáo viên nên   phối hợp giảng giải với hoạt động thực hành của học sinh (Ví dụ: Bằng hình  vẽ, mô hình, vật thật...) để học sinh phối hợp nghe, nhìn và làm. 7.1.4.6. Phương pháp ôn tập và hệ thống hoá kiến thức toán  học Sau mỗi một nội dung mới, để đạt hiểu quả cao trong giảng dạy, giáo   viên cần giúp học sinh ôn tập và hệ thống hóa kiến thức đã học. Nhờ  đó mà   học sinh sẽ nhận biết được mối liên hệ giữa các mạch kiến thức. Đồng thời   giúp khắc sâu kiến thức và phát triển từ duy cho học sinh.  7.1.6. Thực trạng việc dạy giải toán có lời văn ở lớp 5 7.1.6.1. Những tồn tại   Ở bậc tiểu học, học toán thực chất là học làm toán, trong đó giải toán có   lời  văn  có  vị trí hết  sức  quan  trọng.  Nó  thể hiện  rõ nhất  năng lực vận dụng  tri  thức toán  học  và  mức  độ phát  triển  ngôn ngữ của học  sinh.  Muốn  nâng  cao  chất lượng môn Toán mỗi cán bộ giáo viên cần nâng cao ý thức trách nhiệm  6
  7. tinh  thần  học  tập  nghiên  cứu  để  nâng  cao  trình  độ  chuyên  môn  tiếp  cận  với  phương pháp truyền thụ mới. Trong thực tế rất nhiều học sinh tiểu học  rất yêu  thích môn Toán. Tuy vậy khi gặp những bài toán có lời văn đặc biệt  là  những  bài  toán  hợp,  học  sinh  thường  gặp  nhiều  khó  khăn  và  sai  lầm.  Nhiều  em  loay  hoay  không  biết  bắt  đầu  từ  đâu.  Nhiều  em  đã  tìm  được  cách  giải  rồi  nhưng  trình bày bài lộn xộn, thiếu khoa học. Cá biệt nhiều em  còn giải sai bài toán vì  những  sai lầm trong suy nghĩ, trong tính  toán,..Nhiều  sai lầm xuất hiện có thể  chỉ do học sinh chưa cẩn  thận, nhưng đại đa số là  do  các  em  chưa  nắm  chắc  kiến  thức  cơ  bản,  kĩ  năng  vận  dụng  kiến  thức  cụ  thể  vào  giải  từng  bài  toán  riêng  lẽ  còn  hạn  chế.  Nếu  được  nhắc  nhở  kịp  thời  kết  hợp  với  việc  biết  cách  khắc  phục  những  sai  lầm  trong  giải  toán  học sinh sẽ giải toán chính  xác, sẽ  yêu thích và hăng say học toán. 7.1.6.1. Nguyên nhân  Qua tìm hiểu tôi nhận thấy thực trạng trên là do một số  nguyên nhân  sau:            ­ Học sinh chưa hiểu khái niệm và nắm vững kí hiệu toán học.            ­ Học sinh chưa nắm vững quy tắc, công thức, tính chất toán học.            ­ Suy luận của các em chưa lôgic.            ­ Học sinh chưa nắm vững phương pháp giải các bài toán điển hình.             ­ Học sinh chưa nhận thấy được mối quan hệ  giữa các yếu tố  toán   học.            ­ Khi tính toán các em còn hay nhầm lẫn, không cẩn thận trong làm bài.            ­ Diễn đạt, trình bày lời giải bài giải của các em còn hạn chế.                      7.2. Những nội dung cải tiến, sáng tạo để  khắc phục những   nhược điểm của của giải pháp đã biết             7.2.1. Một số sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn ở lớp 5             7.2.1.1. Toán về quan hệ tỉ lệ Sai  lầm phổ biến khi giải các dạng toán trên là học sinh hay nhầm lẫn  giữa hai dạng quan hệ tỉ lệ. * Dạng 1: Nếu đại lượng này tăng (giảm) bao nhiêu lần thì đại lượng   kia cũng tăng (giảm ) bấy nhiêu lần. * Dạng 2: Nếu đại lượng này tăng (giảm) bao nhiêu lần thì đại lượng   kia lại giảm (tăng) bấy nhiêu lần. 7
  8. Ví dụ.  12  người  làm  xong  công  việc  phải  hết  6  ngày.  Nay  muốn  làm  xong  công việc đó trong 3 ngày thì cần bao nhiêu người. Một số học sinh giải như sau: 6 ngày thì gấp 3 ngày số lần là: 6 : 3 = 2 ( lần) Muốn làm xong công việc đó trong 3 ngày thì cần số người là:  12 : 2 = 6 ( người) Đáp số: 6 người        ­  Ở cách giải trên học sinh đã nhầm lẫn dạng toán tỉ lệ ngh ị ch (dạng  2)  sang  dạng  toán  tỉ  lệ  thu ậ n (dạng 1).  HS  đã  sai  ở  bước  tính  thứ  hai.  HS  suy  nghĩ  sai  lầm:  Số  ngày  làm  giảm  đi  2  lần  thì  số  người cũng giảm đi 2  lần. ­  Biện pháp khắc phục sai lầm:  Giáo viên cần lưu ý HS ý nghĩa của  mối quan hệ giữa 2 đại lượng trên. Giáo viên có thể lấy một ví dụ tương tự  như  trên nhưng gần gũi với các em hơn để  các em nắm chắc rằng: Khi làm   cùng một công việc nào đó, nếu số  người làm tăng lên (hay giảm đi) bao  nhiêu thì số  ngày làm lại giảm đi (hay tăng lên) bấy nhiêu. Như  vậy với bài   toán trên ta cần sửa lại bước tính 2 như sau: 6 ngày thì gấp 3 ngày số lần là:  6 : 3 = 2 ( lần) Muốn làm xong công việc đó trong 3 ngày thì cần số người là:  12 x 2 = 24 ( người) Đáp số: 24 người 7.2.1.2. Toán về đại lượng tỉ số phần trăm a. Dạng toán 1: Tính tỉ số phần trăm giữa 2 số A và B * Các bước giải Bước 1: Tìm thường của A và B Bước 2: Nhân thương vừa tìm được với 100 rồi thêm kí hiệu % vào bên   phải số vừa tìm được. Khi học sinh giải dạng toán này thường còn những hạn chế sau:       + Lúng túng khi chọn đại lượng làm đơn vị quy ước (100%).            + Biểu thị sai các đại lượng  còn lại sau khi đã chọn đại lượng làm đơn quy   ước.    + Thực hiện các phép toán không cùng đơn vị đo. 8
  9.       Ví dụ: Một tổ sản xuất làm được 1200 sản phẩm, trong đó anh Ba làm  được  126  sản  phẩm. Hỏi anh  Ba làm  được bao  nhiêu phần  trăm  sản phẩm  của  tổ? (Toán 5/trang79)      Có HS giải như sau:      Tỉ số phần trăm của số sản phẩm anh Ba làm so với số sản phẩm của tổ là: 1200 : 126 = 9,523 9,523 = 952,3% ­ Khi thực hiện phép tính tìm tỉ  số  phần trăm của hai số, học sinh còn   lẫn lộn giữa đại lượng đem ra so sánh và đại lượng chọn làm đơn vị  so sánh  (đơn vị gốc, hay đơn vị chuẩn) dẫn đến kết quả tìm ra là sai. ­ Biện pháp khắc phục: + Khi muốn tính tỉ số phần trăm của A và B ta lấy giá trị của A chia cho   giá trị của B.  + Giáo viên cần lưu ý cho học sinh về ý nghĩa của mối quan hệ giữa 2 đại   lượng.              Xét ví dụ trên:  A: số sản phẩm anh Ba làm được ­ đại lượng đem ra so sánh            B: số sản phẩm của cả tổ ­ đại lượng chọn làm đơn vị so sánh           Từ đó học sinh có cách giải đúng như: Tỉ số phần trăm của số sản phẩm anh Ba làm so với số sản phẩm của tổ là: 126 : 1200 = 0,105 0,105 = 10,5% + Dạng toán tỉ  số  phần trăm là một dạng toán mới và trừu tượng với  học sinh tiểu học nên khi dạy dạng toán này giáo viên cần giúp học sinh hiểu   được: tỉ số phần trăm của hai số thực chất là tỉ số của hai số được viết dưới  dạng phân số có mẫu số là 100. Tỉ số của hai số a và b là a: b hay a /b            b. Dạng toán 2 và Dạng toán 3           b.1. Dạng toán 2: Tìm giá trị một số phần trăm của một số đã biết * Cách giải Tìm m% của một số A. 9
  10. ­ Để  giúp học sinh hiểu bản chất và ghi nhớ  công thức tính, giáo viên  có thể chuyển dạng toán trên dưới dạng phân số như sau: Tìm m/100 của một  số A. ­ Giáo viên cần nhấn mạnh dạng toán này chính là đem chia A thành  100 phần rồi tính giá trị của m phần( Dạng toán đã học ở lớp 4) ­ Từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh tìm m% của A theo 2 cách : Lấy A : 100 x m  hoặc Lấy A x m : 100 b.2. Dạng toán 3:Tìm một số khi biết giá trị m % của số đó. * Cách giải Tìm một số khi biết m% của nó là a ­ Khi dạy dạng toán này học sinh rất khó phân biệt nó với dạng toán 2  nên giáo viên cần giúp học sinh nhận dạng 2 dạng toán này. ­ Khi giải các bài toán về  tỉ  số  phần trăm dạng 2 và dạng 3 học sinh   chưa xác định được tỉ  số  phần trăm số  đã biết với số  chưa biết, chưa lựa   chọn đúng được số làm đơn vị so sánh để đưa các số khác về so với đơn vị so   sánh đã lựa chọn. ­ Để khắc phục những hạn chế trên, giáo viên có thể chuyển dạng toán  3 về dạng phân số như: Tìm một số khi biết m/100 của số đó bằng a. + Khi đó giáo viên giúp học sinh lập bài toán:              m phần :   a                   hay   m% :   a             100 phần: ?                          100%:  ? + Từ đó giáo viên đưa ra cách giải cho dạng toán:             Lấy a : m x 100   hoặc Lấy a x100 : m ­ Khi dạy giải toán về tỉ số  phần trăm, giáo viên càn giúp học sin hiểu   rõ các tỉ số phần trăm có trong bài toán. Cần xác định rõ đơn vị  so sánh ( hay   đơn vị gốc) để coi là 100 phần bằng nhau hay 100%. Ví dụ  1. Kiểm tra sản phẩm của một xưởng may người ta nhận thấy   rằng có 732 sản phẩm đạt chuẩn, chiếm 91,5% tổng số sản phẩm. Tính tổng  số sản phẩm.(Toán 5/trang 78) ­ Một số học sinh thường nhầm lẫn dạng toán tìm một số khi biết một  số phần trăm của số với tìm một số phần trăm của một số đó nên có cách giải  sau: Tổng số sản phẩm là: 732 : 100 x 91,5 = 669,78 (sản phẩm) 10
  11. ­ HS trên đã sai khi chọn đơn vị  quy  ước 100% là 732 sản phẩm hoặc   đã không nhớ cách tìm một số khi biết một số phần trăm của số đó. ­ Hướng dẫn HS: Đọc thật kĩ bài toán, loại bỏ những từ ngữ không thật  thiết yếu ( ta chú ý: có 732 sản phẩm đạt chuẩn, chiếm 91,5% tổng số  sản  phẩm), trong đó hướng HS tập trung vào những từ  ngữ  quan trọng của đề  toán(có 732 sản phẩm đạt chuẩn, chiếm 91,5% tổng số sản phẩm).   ­ Sau đó, hướng dẫn HS tóm tắt bài toán và suy luận để thấy rằng:    91,5% : 732 sản phẩm             100% :  ? sản phẩm               Giải              Tổng số sản phẩm là:   732 x 100 : 91,5 = 800 (sản phẩm)  (1) Hoặc: 732 : 91,5 x 100 = 800 (sản phẩm) (2)          Tôi luôn hướng HS thực hiện phép tính (2) vì nó thể  hiện rõ hơn bản   chất của bài toán. 732 : 91,5 x 100 =  800 (sản phẩm)                  1% tổng số sản phẩm         100% tổng số sản phẩm hay tổng số sản phẩm Ví dụ 2.   Năm   2000   số   dân   của   một   phường   là   15   625   người.   Cuối     năm 2001 số dân của phường đó là 15 875 người.       a. Hỏi từ năm 2000 đến năm 2001, số  dân của phường đó tăng thêm bao   nhiêu phần trăm?       b. Nếu từ năm 2001 đến năm 2002 số dân của phường đó cũng tăng thêm  bấynhiêu phần trăm  thì số dân phường đó năm 2002 là bao nhiêu người ?  Một số HS giải như sau:        a. Tỉ số phần trăm của dân số năm 2001 so với năm 2000 của phường đó  là: 15 875 : 15 625 = 1,016                            1,016 = 101,6%           Số phần trăm dân số tăng lên sau một năm là:  11
  12.           101,6% – 100% = 1,6%         b. Sau 2 năm, số phần trăm dân số tăng lên là: 1,6% x 2 = 3,2%            Dân số của phường năm 2002 là:            15 875 : 100 x 3,2 = 166908 (người) ­ Ở ví dụ trên, học sinh mắc sai lầm khi cho rằng mức tăng dân số qua   mỗi năm đều là 1,6% thì có thể cộng hoặc nhân các tỉ số này để tính toán.  Thực tế, 1,6% số dân của  năm 2002 khác 1,6% số dân của năm 2001 do  vậy phép nhân 1,6%  x 2  không có ý nghĩa. ­ Để học sinh làm tốt bài toán trên ta cần giúp học sinh hiểu: + Cứ sau một năm dân số tăng thêm 1,6% có nghĩa là số dân tăng của  năm sau sẽ bằng 1,6% số dân của năm trước nó. + Tính dân số của phường năm 2002 = Số dân năm 2001 + số dân tăng  sau 1 năm. Ví dụ trên được giải như sau:         a. Tỉ số phần trăm của dân số năm 2001 so với năm 2000 của phường đó   là: 15 875 : 15 625 = 1,016                            1,016 = 101,6%           Số phần trăm dân số tăng lên sau một năm là:            101,6% – 100% = 1,6%         b. Đến năm 2002 dân số phường đó tăng thêm số người là:            15 875 x 1,6 : 100 = 254 (người )            Dân số của phường năm 2002 là:            15 875 + 254 = 16129 (người)               Đáp số: a. 1,6%                            b. 16129 người 7.2.1.3. Giải toán có nội dung hình học Khi giải các bài toán có nội dung hình học, HS thường mắc phải các sai   lầm:           * Sai lầm khi áp dụng công thức tính chu vi, diện tích, thể tích các hình. 12
  13.                    * Sai lầm khi vận dụng công thức một cách máy móc vào các tình  huống biến đổi của thực tế đời sống.           * Không đưa số đo về cùng một đơn vị khi tính toán. Sau đây là một số ví dụ: Ví dụ 1.Tính diện tích hình tam giác có độ dài đáy là 5m và chiều cao là   24 dm. HS giải: Diện tích hình tam giác là:   5 x 24 : 2 = 60 (dm2) Ở cách giải trên học sinh đã sai khi không đưa số đo về  cùng một đơn  vị  trước khi tính toán. Để  khắc phục lỗi trên, giáo viên cần chú ý cho học  sinh: Trước khi bắt tay vào giải toán điều cần lưu ý là đổi các đại lượng về  cùng đơn vị đo. Bài giải đúng:  Đổi : 5 m = 50 dm Diện tích hình tam giác là:  50 x 24 : 2 = 600 (dm2)  Đáp số: 600 dm2 Hoặc:Đổi : 24 dm = 2,4 m Diện tích hình tam giác là:   5 x 2,4 : 2 = 6(m2)           Đáp số: 6 m2 Ví dụ  2. Cho hình thang có trung bình cộng hai đáy là 24m, chiều cao   của hình thang là 14 m. Một số vài học sinh giải như sau: Diện tích của hình thang là:            24 x 14 : 2 = 168(m2)    ­ Trong ví dụ  trên học sinh đã nhầm lẫn giữa tổng hai đáy hình thang  với trung bình cộng hai đáy. ­ Để khắc phục lỗi trên, giáo viên cần mở rộng thêm khi xây dựng công  thức tính diện tích hình thang:  S = (ĐL + ĐB) x Chiều cao : 2 13
  14.     = TBC 2 Đ x Chiều cao                        TBC 2 Đ: Trung bình cộng hai đáy. Cách giải đúng như sau: Diện tích của hình thang là:            24 x 14 = 672(m2)                      Đáp sô: 672m2 Ví dụ. Một cái thùng không có nắp có dạng hình hộp chữ nhật có chiều  dài 1,5 m; chiều rộng 0,6 m và chiều cao 8dm. Người ta sơn mặt ngoài của   thùng. Hỏi diện tích quét sơn là bao nhiêu mét vuông?( Toán 5/110) Học sinh giải:  Đổi: 8 dm = 0,8 m  Chu vi mặt đáy của thùng là:  ( 1,5 + 0,6) x 2 = 4,2 (m2) Diện tích tôn dùng để làm thùng là:  4,2 x 0,8 = 3,36 (m2) ­ Khi tính diện tích quét sơn một số  vật dạng hình hộp chữ  nhật hay   hình lập phương học sinh thường sai lầm khi áp dụng ngay các công thức tính  diện tích xung quanh hay diện tích toàn phần để  tính mà không phân biệt   được một số trường hợp cá biệt khác. Ở bài toán trên học sinh đã sai khi vận   dụng công thức tính diện tích xung quanh hình hộp chữ nhật để tính diện tích  quét sơn của một thùng dạng hình hộp chữ nhật không nắp. ­ Hướng dẫn học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát mẫu hình  hộp chữ nhật. Cần giúp học sinh nhận ra: + Nếu quét sơn toàn bộ  hình hộp chữ  nhật thì diện tích quét sơn chính  bằng diện tích toàn phần của hình hộp. + Nếu quét sơn toàn bộ thùng không nắp có dạng hình hộp chữ nhật thì   diện tích quét sơn chính bằng diện tích xung quanh của hình hộp cộng với  diện tích một mặt đáy. Mở rộng ra: Nếu quét sơn mặt trong một phòng học dạng hình hộp chữ  nhật ( không quét trần) thì diện tích quét sơn chính bằng diện tích xung quanh   căn phòng hình hộp chữ nhật đó. 7.2.1.4. Giải toán về chuyển động đều Khi giải dạng toán này, HS thường mắc phải các sai lầm: 14
  15. * Lúng túng khi tìm cách giải. * Thực hiện các phép toán không cùng đơn vị đo. * Không phân biệt được thời điểm và thời gian. Ví dụ1. Một người đi xe đạp trong 15 phút với vận tốc 12,6 km/giờ.   Tính quãng đường đi được của người đó. Có em giải như sau:  Quãng đường đi được của người đó là: 12,6 x 15 = 189 (km/giờ) Trong bài giải trên học sinh đã sai khi chưa đổi: 15 phút = 0,25 giờ. ­ Khi dạy giải toán về  chuyển động, giáo viên cần chú ý cho học sinh   đổi đơn vị thời gian theo đơn vị của vận tốc. Lời giải đúng: Đổi: 15 phút = 0,25 giờ Quãng đường đi được của người đó là: 12,6 x 0,25 = 3,15 (km) Đáp số: 3,15 km Ví dụ 2. Một xe máy đi từ  A lúc 8 giờ  37 phút với vận tốc 36 km/giờ.  Đến 11 giờ  7 phút một ô tô cũng đi từ  A đuổi theo xe máy với vân tốc 54  km/giờ. Hỏi ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ?          Giải  Thời gian xe máy đi trước ô tô là:     11 giờ 7 phút – 8 giờ 37 phút = 2 giờ 30 phút     2 giờ 30 phút = 2,5 giờ Khi ô tô khởi hành xe máy đã đi được quãng đường là:      36 x 2,5 = 90 (km) Thời gian ô tô đuổi kịp xe máy là:      90 : 18 = 5 (giờ) Thời gian để ô tô đuổi kịp xe máy là:                 (*)    11 giờ 7 phút + 5 giờ = 16 giờ 7 phút. 15
  16. ­ Câu trả lời (*) chưa chính xác do học sinh không phân biệt được thời  điểm và thời gian.  ­ Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh: Thời gian để ô tô đuổi kịp xe  máy chính là khoảng thời gian dùng để đuổi kịp ô tô. Ô tô đuổi kịp xe máy lúc   mấy giờ? là tính thời điểm ô tô đuổi kịp xe máy. Câu trả lời giải đúng là: Ô tô đuổi kịp xe máy lúc:       11 giờ 7 phút + 5 giờ = 16 giờ 7 phút   Đáp số: 16 giờ 7 phút           7.2.6. Một số biện pháp khắc phục những sai lầm thường gặp khi   dạy giải toán có lời văn ở lớp 5 7.2.6.1.Giúp HS lớp 5 nắm được các nguyên nhân dẫn tới sai lầm   khi giải toán có lời văn. * Nguyên nhân 1: Hiểu không đầy đủ và chính xác các khái niệm toán học. Xuất phát từ  đặc điểm nhận thức của HS tiểu học là nhận thức cảm   tính còn chiếm  ưu thế  nên phần lớn các khái niệm toán học được đưa vào  chương trình tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng chủ  yếu hình thành biểu  tượng toán học thông qua trực quan hoặc từ các ví dụ cụ thể, sinh động. Điều   này   có   ưu   điểm   là   phù   hợp   với   đặc   điểm   nhận   thức   của   học   sinh   tiểu   học.Tuy nhiên mặt hạn chế là thiếu tính chặt chẽ, chính xác và tổng quát. Do  đó dễ  xuất hiện các sai lầm về  khái niệm toán học. Từ  đó dẫn tới suy luận  sai và kết quả sai khi giải toán có lời văn. Các sai lầm mục 2.1. cho thấy HS   chưa nắm vững các khái niệm về  tỉ  số, tỉ  số  phần trăm. Thực tế  cũng cho   thấy biểu tượng hình học của HS tiểu học còn khá hạn chế, do vậy HS   thường gặp khó khăn khi xác định các yếu tố  đáy, đường cao của hình tam  giác, hình thang, đặc biệt là khi các hình này có sự thay đổi về hình dạng, góc   độ quan sát. * Nguyên  nhân  2: Không  nắm vững  các quy tắc, công thức, tính chất   toán học . Ở bậc tiểu học, việc phát triển tư duy toán học cho HS được gắn liền   với việc vận dụng các quy tắc, công thức, tính chất toán học thông qua giải  các bài toán có lời văn. Do đặc điểm nhận thức của HS tiểu học là nhận thức  cảm tính còn chiếm  ưu thế  trong khi các quy tắc, công thức, tính chất toán   học lại mang tính khái quát và trừu tượng cao nên HS gặp rất nhiều khó khăn  khi vận dụng vào giải toán, nhất là với HS có lực học trung bình yếu. Biểu  hiện là dễ lẫn lộn các bước tính, nhầm lẫn khi vận dụng công thức tính diện   16
  17. tích, chu vi, thể tích,…của các hình đã học. Kĩ năng vận dụng các công thức  toán học còn hạn chế. Đó là các bài toán ngược lại với những gì đã học(tìm  được diện tích tam giác khi biết đáy, chiều cao tương  ứng nhưng lại không  tính được đáy khi biết diện tích và chiều cao tương ứng). * Nguyên nhân 3: Thiếu các kiến thức cần thiết về logic. Khi giải toán có lời văn, đòi hỏi HS phải suy luận. Quá trình suy luận rất cần đến những kiến thức về lôgíc, đặc biệt là các quy tắc suy luận lôgíc.  Khi đứng trước một bài toán có lời văn học sinh thường vận dụng một cách   máy móc những gì đã được học mà không suy nghĩ được vì sao ta vận dụng   công thức, quy tắc này  mà không vận dụng công thức, quy tắc  kia, vì sao ta  giải toán  theo cách này mà không giải theo cách kia. Sự  thiếu hụt kiến thức   logic còn là nguyên nhân của những sai lầm khi HS diễn đạt, trình bày lời   giải. * Nguyên nhân 4: Không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ  bản Phương pháp giải các bài toán cơ  bản giữ  vị  trí quan trọng trong giải   toán có lời văn vì phần lớn các bài toán trong SGK tiểu học đều được xây  dựng  từ các bài  toán  cơ bản  (toán  điển hình). Không nắm vững  phươn g   pháp giải các bài toán cơ  bản thì khó có thể  giải quyết trọn vẹn các bài tập  trong SGK và không thể  giải quyết các bài toán có nội dung nâng cao khi mà  các tình huống đã có sự biến đổi. Thực tế  là không ít HS đã không nắm vững phương pháp giải các bài  toán cơ  bản (mặc dù nắm vững quy tắc, công thức toán học). Biểu hiện là  không nhớ hoặc lẫn lộn  các dạng toán; khi  học dạng  toán  mới  thì  lại quên  dạng toán cũ. Do không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ bản nên  học sinh thường mắc sai lầm ngay từ những bước giải đầu tiên. * Nguyên nhân 5:  Yếu kĩ  năng   chuyển một bài  toán về dạng toán cơ  bản Trong chương trình toán  5, các bài toán được xây dựng từ các bài toán  cơ  bản  nhưng  có  sự  thay  đổi  điều  kiện  để  tăng độ khó như tăng yếu tố,  đại  lượng.  Ví dụ trong  toán chuyển  động đó  là sự tham gia của 2 động tử  và xuất  phát và kết thúc chuyển động ở những thời điểm khác nhau. Do  không  nhận  ra  các dấu  hiệu  bản  chất  nên  HS không  nhận  ra  sự  tương  đồng của bài toán biến đổi với bài toán cơ bản, vì vậy HS không có  khả năng  chuyển bài toán về dạng cơ bản, đơn giản hơn. * Nguyên nhân 6: Hạn chế về vốn từ và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt 17
  18. Sự  hạn   chế  về  vốn từ  và kĩ năng sử  dụng   tiếng Việt còn gây nên   nhiều khó khăn cho HS khi đặt câu trả lời cho các phép tính. 7.2.6.2. Hướng dẫn HS nắm vững các kiến thức về môn Toán  Một  trong  những  nguyên  nhân  chủ  yếu  của  các  sai  lầm  là  do  trình  độ  còn  yếu.  Trong  đó  có  thể  là  học  sinh  không  nắm  vững  kiến  thức  cơ  bản về  môn Toán. Khi truyền thụ giáo viên cần lưu ý: ­ Nắm  vững  các  kiến  thức  về   môn  Toán  ở  tiểu  học  góp  phần  hạn  chế những sai lầm mà học sinh gặp phải trong giải toán. Để  tránh  các  sai  lầm,  GV  cần  tổ  chức  các  hoạt  động  nhằm  tích  cực  hóa  hoạt  động  học  tập  của  học  sinh.  Học  sinh  chủ  động  nắm  kiến  thức  bằng  chính "lao động" của mình. .Vì vậy phương pháp dạy học đóng vai trò  không  nhỏ  trong  việc  phòng  ngừa  các  sai  lầm  cho  học  sinh.  Nếu  học  sinh  được  làm  quen  với  các  hệ  thống  phương  pháp  dạy  học  mới,  khêu  gợi  trí  sáng  tạo,  biết phát  hiện  và  giải  quyết  vấn  đề  sẽ  tự  tin,  năng  động,  tạo  tâm thế vững vàng,  hạn chế việc mắc sai lầm trong dạy học giải Toán. Cụ thể:  + Dạy các khái  niệm  toán học để HS tránh được sai lầm khi giải toán. Chương  trình  toán tiểu  học được xây dựng theo cấu trúc đồng  tâm,  lấy số  học  làm  hạt  nhân,  do  vậy  các  khái  niệm  toán  học cũng  có  sự  mở  rộng  theo  các lớp. Trong quá trình giảng dạy, cần đặc biệt lưu ý khắc sâu  mối quan hệ  giữa các kiến thức có liên quan. Không ít mối quan hệ giữa các  kiến    thức    không  được  trình  bày  trong  SGK  mà  phải  do  GV  cung  cấp.  Chẳng hạn khi học về hình học thì cần lưu ý HS: Hình vuông cũng là hình  chữ nhật(hình vuông là trường hợp đặc biệt của hình chữ nhật, hình thoi,...). Một dạng toán khác mà nhiều HS gặp khó khăn và dễ  mắc sai lầm là   toán về tỉ số phần trăm. Để giúp HS vượt qua những khó khăn trên, khi dạy gi  ải toán về tỉ số phần trăm, GV cần ôn lại tỉ số, nhấn mạnh mối quan hệ giữa   tỉ  số  với tỉ  số  phần trăm, tỉ  số  phần trăm với phân số.Các bài toán về  tỉ  số  phần trăm thực chất là các bài toán liên quan đến tỉ  số. Với các bài toán liên   quan đến kinh doanh cần cung cấp cho HS các khái niệm: Vốn: tương ứng với giá mua hay chi phí ban đầu. Lãi (hay lời): bằng giá bán trừ giá mua. Giá bán: Bao gồm cả vốn và lãi. Với một số bài toán có nội dung thực tế, học sinh phải hiểu rõ ý nghĩa  của một số từ: ngày công, kế hoạch, chỉ tiêu,.. 18
  19. + Dạy các quy tắc, công thức, tính chất toán học             Ở bậc Tiểu học, các quy tắc, công thức nhìn chung chỉ  yêu  cầu  HS  nhớ  và biết vận  dụng,  không yêu cầu chứng minh  quy  tắc,  công thức.  GV  cần  giúp HS hệ thống lại các quy tắc, công thức, tính chất,.. bằng các bảng  biểu,  sơ  đồ.  Thường  xuyên  kiểm tra các  quy tắc,  công  thức, tính  chất  trong  các  tiết  học.  Chỉ  có  ôn  tập,  củng  cố  thường  xuyên  học  sinh  mới  nhớ  lâu,  nhớ chính  xác những gì mình đã được học.        + Ôn luyện, củng cố cho HS phương pháp giải các bài toán điển hình         Việc thường xuyên ôn tập và củng cố lại các bước giải các bài toán điển   hình sẽ giúp học sinh tránh được sai lầm là lẫn lộn giữa các dạng toán. Từ lời   giải một bài toán cụ thể, GV cần gợi ý cho HS phương pháp giải cho một số bài toán tương tự  việc tổng kết và hệ  thống lại các phương pháp giải  toán là việc nên làm trong quá trình dạy học toán. Công việc trên nếu được  tiến hành có kết quả sẽ giúp HS hạn chế được các sai lầm khi giải toán.           7.2.6.3.Trang bị cho học sinh phương pháp tìm tòi bài giải cho một   bài toán có lời văn  Ở  lớp  5,  các  bài  toán  có  lời  văn  đều  có  dạng  điển  hình  và  đã  có  các  cách  giải được trình bày tương đối kĩ trong SGK ( phần hình thành kiến thức  mới).  Tuy  nhiên, để  giải được từng  bài toán cụ thể  một cách chính xác và  khoa học  đòi hỏi phải có suy luận và vận dụng kiến thức một cách sang  tạo  chứ  không  đơn  thuần  chỉ  áp  dụng  công  thức  một  cách  máy  móc.  Vấn  đề  đặt  ra  là  cần  có  một  đường  lối   chung  khi giải  quyết các  bài  toán có lời  văn. Đây   là   vấn   đề  cốt lõi, quan trọng trong giải toán. Muốn giải bài toán  tốt và tránh được những  sai  lầm  vừa  nêu,  Gv  cần  giúp  HS  nắm  các  bước  chung khi giải một bài toán  có lời văn:    Bước 1: Đọc thật kĩ đề toán, xác định được đâu là cái đã cho, đâu là cái   cần tìm. ­ HS phải xác định chính xác cái đã cho, cái cần tìm. ­ Hướng sự  tập trung suy nghĩ của HS vào những từ  quan trọng trong  đề toán, phải hiểu ý nghĩa một số từ cần thiết trong đề. Bước 2: Tóm tắt đề toán.      ­ Có thể tóm tắt đề toán bằng nhiều cách khác nhau tùy từng bài toán  cụ thể như sơ đồ, hình vẽ, kí hiệu,... Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải. ­ Để  phân tích bài toán chúng ta tập trung suy nghĩ vào câu hỏi của bài   toán. Muốn trả  lời được câu hỏi đó thì phải biết những gì hoặc làm những   19
  20. phép tính gì. Trong những cái cần phải biết đó, cái nào đã có sẵn trong đề  toán, cái nào phải tìm. Muốn tìm được cái này thì phải biết những gì,…Cứ  như vậy ta suy nghĩ ngược lên cho tới vấn đề đã cho trong bài toán. Bước 4: Giải bài toán và thử lại kết quả:         Dựa vào kết quả phân tích ở bước 3, xuất phát từ những điều đã cho  trong đề  toán,  ta  lần  lượt  thực  hiện  các  phép  tính  để  tìm  ra  đáp  số.  Cần  chú ý thử lại  sau khi làm xong từng phép tính và kiểm tra lại đáp số. Bước 5: Khai thác bài toán(bước này dành cho HS khá, giỏi: HS tìm các  cách giải khác nhau và tự đặt các bài toán tương tự với bài toán vừa làm). 7.2.6.4. Rèn cho HS có thói quen tự kiểm tra phát hiện sai lầm trong   giải toán ­ Đa số  học sinh thường bằng lòng với việc tìm ra đáp số  của bài toán  có lời  văn mà không chú ý đến khâu kiểm tra lại lời giải.          ­ Bên cạnh việc hình thành thói quen tự kiểm tra lời giải, GV cũng cần   trang bị cho HS các phương pháp nhận biết một lời giải sai lầm. Các sai lầm   thường bộc lộ bởi các dấu hiệu. GV cần trang bị  cho HS kỹ năng nhận biết   các dấu hiệu quan trọng sau đây:   + Dấu hiệu thứ nhất: Kết quả tìm được mâu thuẫn với thực tế. Các bài  toán có lời lời văn thường đề cập đến những tình huống gần gũi với thực tế.   Ở  đây, giả  sử  rằng bài toán đã phù hợp với thực tế  mà nếu kết quả  mâu   thuẫn thực tế thì lời giải mắc sai lầm. Các mâu thuẫn thường gặp: bộ  phận   tìm được lại lớn hơn tổng thể hoặc ngược lại (VD: số HS nữ tìm được lại   lớn hơn số  HS toàn trường, số  sản phẩm đạt chuẩn lớn hơn tổng số  sản  phẩm) + Dấu hiệu thứ  hai: Kết quả tìm được mâu thuẫn với một yếu tố  nào   đó trong đề bài. + Dấu hiệu thứ ba: Sai đơn vị  (danh số). Chẳng hạn, bài toán yêu cầu  tìm thời gian của một chuyển động mà đáp số  lại là đơn vị  đo độ  dài (quãng  đường). Ngoài ra, khi giải toán mà không sử dụng hết dữ kiện đề bài thì cũng có   thể đã mắc sai lầm. 7.2.6.5. Theo dõi một sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn   qua các giai đoạn Ví dụ: Giải toán liên quan đến các đơn vị đo 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2