intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp dạy học diện tích các hình cho học sinh lớp 5 nhằm phát triển năng lực và phát huy tính tự học chủ động của học sinh

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:30

27
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm giúp học sinh phân loại, nhận dạng các bài toán về tính diện tích các hình để đưa ra phương pháp giải phù hợp và trình bày bài giả một cách khoa học, hợp lý và đầy đủ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số kinh nghiệm và giải pháp dạy học diện tích các hình cho học sinh lớp 5 nhằm phát triển năng lực và phát huy tính tự học chủ động của học sinh

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP DẠY HỌC DIỆN TÍCH CÁC  HÌNH CHO HỌC SINH LỚP 5 NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC VÀ  PHÁT  HUY TÍNH TỰ HỌC CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH”    1. PHẦN MỞ ĐẦU: 1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI     Nhận thức được vai trò của giáo dục trong việc phát triển và xây dựng đất  nước, Đảng và Nhà nước ta đã xác định. Để đạt được mục tiêu này, giáo dục Việt   Nam phải thực hiện thông qua nhiều cấp học, bậc học khác nhau trong hệ  thống   giáo dục quốc dân, trong đó giáo dục tiểu học giữ một vai trò quan trọng. Chính vì  vậy trong những năm gần đây, giáo dục tiểu học đã trở  thành một bậc học quan   trọng và được tiến hành phổ cập trên toàn đất nước. Giáo dục tiểu học nhằm giúp  học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về  đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học lên trung  học cơ sở. Toán học có vị trí rất quan trọng phù hợp với cuộc sống thực tiễn, đó cũng là  công cụ  cần thiết cho các môn học khác và để  giúp cho học sinh nhận thức thế  giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực. Khả năng giáo dục   nhiều mặt của nó tốn rất to lớn: Những phát triển tư  duy, trí tuệ, có vai trị  quan  trọng trong việc rèn luyện tính suy luận, tính khoa học tồn diện, chính xác, tư duy   độc lập sáng tạo, linh hoạt, góp phần giáo dục tính nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn. Từ  vị  trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán, vấn đề  đặt ra cho   người thầy là làm thế  nào để  giờ  dạy – học toán có hiệu quả  cao, học sinh phát  triển tính tích cực, chủ  động sáng tạo, phát huy được năng lực trong việc chiếm   lĩnh kiến thức toán học. Theo tôi, các phương pháp dạy học bao giờ  cũng phải   xuất phát từ vị trí, mục đích và nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của bài học môn toán.   Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức, cách giải toán đơn thuần mà là  phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục  phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả. Hiện nay, giáo dục tiểu học  đang thực hiện yêu cầu mô hình trường học mới, đổi mới phương pháp dạy học  theo hướng phát huy phẩm chất, năng lực, tính tích cực của học sinh, làm cho hoạt   động dạy học trên lớp “nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả, học sinh tự học, tự chiếm  lĩnh tri thức”. Để  đạt được yêu cầu đó, giáo viên phải có phương pháp và hình  thức dạy học để vừa nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm 
  2. tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học và trình độ  nhận thức của học sinh, để  đáp ứng   với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói  riêng.        Dạy học Toán ở Tiểu học nhằm giúp cho học sinh có những kiến thức cơ bản   ban đầu về số học: số tự nhiên, phân số, số thập phân; các đại lượng thông dụng;   dạy các yếu tố hình học; một số  yếu tố thống kê và đặc biệt là kĩ năng tính diện  tích một số hình. Các mạch kiến thức toán học từ lớp 1 đến lớp 5 được thống nhất  chặt chẽ  với nhau theo cấu trúc đồng tâm nên nó giúp cho học sinh không những  được học mà còn được củng cố lại kiến thức  ở các lớp trên. Học tốt môn Toán là   điều kiện để  học tốt các môn học khác. Hình học trong chương trình lớp 5 giúp   phần chủ yếu vào việc hình thành và phát triển kĩ năng tính toán, một trong những   kĩ năng cơ bản của người lao động trong giai đoạn xã hội hiện nay.       Từ đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học là chưa xác định rõ ràng mục đích  việc học tập là gì. Trong thực tế hiện nay, một số  em còn học là do bị  ép buộc  hoặc học chỉ để thầy cô, cha mẹ vui lòng… Điều đó cho thấy nhận thức và nhu  cầu học tập của HS còn chưa cao, các em sẽ dễ dàng nhàm chán, không hứng thú  đến trường nếu như trong quá trình dạy học, giáo viên không nắm rõ đặc điểm   tâm lí của HS và không thay đổi cách thức dạy học của mình  ở  từng bài, từng   tiết học. Thực trạng đó cho thấy: giáo viên chúng ta cần phải đổi mới cách thức  dạy học làm sao để tạo cho HS sự hứng thú, có nhu cầu nhận thức và chủ động  tích cực trong việc học tập của mình. Vì vậy giáo viên phải làm thế nào để khắc  sâu kiến thức cho học sinh và tạo ra không khí sẵn sàng học tập, chủ  động tích   cực trong việc tiếp thu kiến thức. Để  đáp ứng các yêu cầu trên trong giảng dạy   nói   chung,   trong   dạy   học   Toán   nói   riêng   cần   phải   vận   dụng   linh   hoạt   các  phương pháp dạy học để  nâng cao hiệu quả  dạy ­ học.   Trong quan niệm dạy  học mới (tổ chức) một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự  giác, chủ động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức,   bồi dưỡng năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng  phương pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú   học tập cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như:  bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với  đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh ; giờ học đổi mới PPDH còn có những yêu   cầu mới như: được thực hiện thông qua việc GV tổ chức các hoạt động học tập  cho HS theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư  duy, khả  năng tự  học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc tương   tác nhiều chiều: giữa GV với HS, giữa HS với nhau (chú trọng cả hoạt động dạy  của người dạy và hoạt động học của người học. Người giáo viên dạy học luôn  đảm bảo được nguyên tắc “Học sinh tự mình hoàn thành nhiệm vụ học tập với   sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên”.
  3.    Từ thực tế đó, tôi thấy việc tìm hiểu một số phương pháp dạy học tích cực trong  môn Toán giúp học sinh phát huy tính tự học là hết sức cần thiết. Do đó  tôi quyết  định chọn đề  tài:  “ MỘT SỐ KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP DẠY HỌC  DIỆN TÍCH CÁC HÌNH CHO HỌC SINH LỚP 5 NHẰM PHÁT TRIỂN  NĂNG LỰC VÀ PHÁT HUY TÍNH TỰ HỌC CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH ”.  1.2. Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm   Trong những năm gần đây với nhu cầu của một xã hội hóa giáo dục đòi hỏi ngành   giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để  tạo ra những thế  hệ  con người   nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Tuy nhiên, nhìn  lại việc áp dụng đổi mới phương pháp vào trường tiểu học còn gặp nhiều khó   khăn. Nhận thức của các em học sinh còn nhiều hạn chế, ý thức tự  học, tự  rèn  luyện ít, điều kiện học tập còn nhiều thiếu thốn. Chưa xác định động cơ  học tập  đúng đắn. Đối với môn Toán, nhiều khi các em vận dụng còn máy móc, có lối tư  duy thụ  động, ít quan tâm đến bản chất, nên khi đọc bài tập HS rất khó định   hướng cách giải mà trông chờ vào GV. Mặt khác, nhiều học sinh ngại lao động trí   óc, không chịu suy nghĩ làm bài tập chỉ  chờ  chép bài của bạn hoặc sách giải bài  tập. Một số em khác có hoàn cành gia đình khó khắn, ít giao lưu, rụt rè, nhút nhát  nên chất lượng cũng như học tập kém.  ­ Thực hiện dạy học phù hợp với tiến trình nhận thức của học sinh (đi từ  cụ  thể  đến trừu tượng, từ  dễ  đến khó); Quán triệt tinh thần “lấy người học làm trung   tâm”, chú ý nhu cầu, năng lực nhận thức, cách thức học tập khác nhau của từng cá   nhân học sinh; Tổ chức quá trình dạy học theo hướng kiến tạo, trong đó học sinh   được tham gia tìm tòi, phát hiện, suy luận giải quyết vấn đề; Linh hoạt trong việc   vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực, kết hợp nhuần nhuyễn, sáng  tạo với việc vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học truyền thống; Kết hợp  các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động thực hành trải nghiệm, vận   dụng kiến thức toán học vào thực tiễn. ­ Từ  các bài toán  giúp học sinh có được sự  tự  tin về  bản thân, sự  hứng thú, chủ  động trong học tập; giúp các em từng bước hoàn thiện để phát triển những kĩ năng   cần thiết mà xã hội yêu cầu. Ý thức được giá trị  của bản thân học sinh trong mối  quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình;  có hành vi, thói quen  ứng xử  có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật…Giúp  học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập,  tự tin trong cuộc sống khi giải quyết công việc và chủ động đối phó với hoàn cảnh   khó khăn trong cuộc sống, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để  trang bị  cho  các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời.     Trước tình hình đó giáo viên cần trau dồi nâng cao kiến thức và năng lực tổ chức 
  4. hoạt động dạy học; cải tiến phương pháp dạy học cho phù hợp với đối tượng HS  và thực tế của vùng miền.    Là GV dạy ở trường Tiểu học, tôi mong muốn tìm ra một số giải pháp nhằm  giúp học sinh phát triển năng lực,  huy tính tự học khắc phục những khó khăn và  hạn chế trong việc dạy học Toán, góc phần từng bước nâng cao chất lượng dạy  và học cho HS, HS tích cực tự học nhằm hoàn thiện về kiến thức, năng lực và  phẩm chất của mỗi em. Đây là một vấn đề nóng bỏng cần phải thực hiện nhanh  và đúng cách để những thế hệ do chúng ta đào tạo ra là những người làm chủ  tương lai, đất nước, biết xây dụng quê hương và đưa trình độ hiểu biết của toàn  dân đi lên sánh được với các nước phát triển trên thế giới. Qua vận dụng đổi mới  PPDH các em HS mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết tự đánh giá kết quả  học tập của mình cũng như đánh giá kết quả học tập của bạn khác. Từ đó các em  có tính chủ động hơn trong học tập và biết phấn đấu thi đua nhau để kết quả học  tập đạt kết quả cao hơn. 1.3. Phạm vi áp dụng       Sáng kiến này được áp dụng từ đầu năm học đến nay cho học sinh khối 5 toàn   trường nhằm giúp học sinh phân loại, nhận dạng các bài toán về tính diện tích các  hình để đưa ra phương pháp giải phù hợp và trình bày bài giả một cách khoa học,  hợp lý và đầy đủ. 2. PHẦN NỘI DUNG                                         2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu.     Trong chương trình  tiểu học, môn Toán  giữ một vai trò quan trọng . Thông qua   việc học toán, học sinh tiểu học thấy được nhiều khái niệm trong toán học như  các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố  hình học . . . đều có nguồn gốc  trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được  mối quan hệ  biện chứng giữa các sự  kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua   việc học toán sẽ  rèn luyện cho học sinh năng lực tư  duy và những đức tính của   con người mới, có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận, làm việc có kế hoạch,  thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm và  độc lập suy nghĩ, óc sáng tạo giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ   năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc học toán của học sinh mà  giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về  kiến   thức, kĩ năng, tư  duy để  giúp học sinh phát huy những mặt được và khắc phục   những mặt thiếu sót. Với nhu cầu của  xã hội hoá giáo dục đòi hỏi ngành giáo dục  phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức   sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc.      Mục đích của giải toán về diện tích các hình là làm thế nào để học sinh phải  thực sự tích cực, chủ động tự giác, luôn trăn trở, tìm tòi, sáng tạo trong quá trình 
  5. lĩnh hội tri thức và lĩnh hội cả cách thức để có tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn  thiện nhân cách của mình.     Dạy học về diện tích các hình trong chương trình Toán 5 cũng cần đạt được  mục đích trên. Khi đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, những phương pháp đã  và đang sử dụng sẽ không đáp ứng với yêu cầu đào tạo nếu không có sự đổi mới  về cách thức tiến hành phương pháp. Đổi mới phương pháp không phải là thay thế  các phương pháp dạy học cũ bằng một loạt phương pháp dạy học mới. Đổi mới  phương pháp là cách thức tiến hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và  hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm các phương  pháp cũ và vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính  tích cực chủ động sáng tạo của người học.   Toán học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ  năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc  sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn  Toán ở trường Tiểu học góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu,  năng lực chung và năng lực toán học cho học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng  then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, vận dụng toán học vào thực  tiễn; tạo lập sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn,  giữa Toán học với các môn học và hoạt động giáo dục khác, đặc biệt với các môn  Khoa học, Khoa học tự nhiên. Nội dung môn Toán thường mang tính logic, trừu  tượng, khái quát. Do đó, để hiểu và học được Toán, chương trình Toán ở trường  Tiểu học cần bảo đảm sự cân đối giữa “học” kiến thức và “vận dụng” kiến thức  vào giải quyết vấn đề cụ thể. Trong quá trình học và áp dụng toán học, học sinh  luôn có cơ hội sử dụng các phương tiện công nghệ, thiết bị dạy học hiện đại, đặc  biệt là máy tính điện tử và máy tính cầm tay hỗ trợ quá trình biểu diễn, tìm tòi,  khám phá kiến thức, giải quyết vấn đề toán học.    Dạy học về diện tích các hình trong chương trình Toán 5 hình thành, phát triển ở  học sinh năng lực toán học với các thành tố: tư duy và lập luận toán học; mô hình   hoá toán học; giải quyết vấn đề  toán học; giao tiếp toán học; sử  dụng công cụ,   phương tiện học Toán. Đồng thời, môn Toán góp phần hình thành, phat triên  ́ ̉ ở học  sinh các phẩm chất chủ  yếu và năng lực chung đã quy định trong Chương trình  tổng thể; giúp học sinh bước đầu xác định được năng lực, sở trường của bản thân   nhằm đinh h ̣ ương va l ́ ̀ ựa chon nghê nghiêp, rèn luy ̣ ̀ ̣ ện nhân cách để trở thành người  lao động và người công dân có trách nhiệm. a. Thực trạng chung của nhà trường. * Thuận lợi:  ­Nhà trường  được sự quan tâm của chính quyền của địa phương, của phụ huynh  học sinh.
  6. ­Ban giám hiệu nhà trường năng nổ nhiệt tình, sáng tạo luôn chỉ đạo sát sao việc  dạy học của giáo viên và việc học của học sinh. ­ Giáo viên trong nhà trường luôn nhiệt tình giảng dạy, yêu nghề mến trẻ  ­ Về học sinh : Nhìn chung các em chăm ngoan, có ý thức vươn lên trong học tập. ­  Bên cạnh những thuận lợi trên nhà trường còn có những khó khăn sau: * Khó khăn:  ­ Là một xã dân cư chủ yếu sống bằng nghề nông, kinh tế còn nhiều khó khăn,  nhiều gia đình thuộc diện hộ nghèo, học sinh có bố mẹ đi làm ăn xa ở với ông bà.  Chính điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập cũng như chất lượng  học của học sinh. ­ Do tâm lý chung của học sinh tiểu học còn ham chơi nêu việc học tập của các  em cần có sự giám sát chặt chẽ của gia đình thì hiệu quả học của các em mới đạt  cao.   ­ Đa số học sinh xem môn toán là môn học khó khăn, dễ chán.      Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều : một số  học sinh còn chậm,  nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu  bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính còn sai,  chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính.      Một số  em tiếp thu bài một cách thụ  động, ghi nhớ  bài còn máy móc nên còn  chóng quên các dạng bài toán. ­ Về đội ngủ giáo viên: Nhà trường có đội ngũ giáo viên nhiệt tình giảng dạy  song còn nhiều khó khăn do có một số giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiện  trong giảng dạy. b. Thực trạng của lớp 5B: Năm học 2019­ 2020 tôi được phân công giảng dạy trường Tiểu học  Lớp 5A do tôi chủ nhiệm và giảng dạy có 34 học sinh. Trong đó: ­ Con cán bộ công chức: 8 em ­ Con gia đình nông nghiệp 26 em. ­ Nam 16 em; nữ: 18 em. ­ Các em ở rải rác khắp các thôn trong xã, có nhiều em xa trường nên việc đi lại  của các em gặp rất nhiều khó khăn điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất  lượng học tập của các em Một số em thuộc diện hộ ngheo gia đình có hoàn cảnh  khó khăn  Giáo viên và học sinh trong quá trình rèn luyện kĩ năng giải toán có lời văn. ­ Qua thực tế giảng dạy và thảo luận cùng đồng nhiệp. c. Thực trạng về việc học nội dung về diện tích các hình trong chương trình  Toán  của lớp 5 1. Thực trạng:
  7. ­ Thực trạng dạy học nội dung về diện tích các hình trong chương trình Toán 5  năm học qua và năm học 2019 ­ 2020 ở trường Tiểu học: + Giáo viên đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo các PPDH khác nhau,  nhưng khi dạy học phần này vẫn chưa kết hợp được hoặc kết hợp chưa nhuần  nhuyễn dẫn đến hiệu quả chưa cao.  + Phần nào đã biến yêu cầu của dạy học thành nhu cầu nhận thức của người  học, song các tình huống nhận thức mà giáo viên đưa ra đôi lúc chưa thật hợp lí và  thiếu tính sáng tạo.  + Về phát triển khả năng tự học của học sinh, khi dạy nội dung trên, giáo viên đã  chú ý song vẫn chưa đưa ra được biện pháp hợp lí để giúp học sinh xây dựng  biện pháp tự học, tăng cường các hoạt động tự tìm kiếm tri thức hay ứng dụng tri  thức vào cuộc sống.  + Dạy học về diện tích các hình trong chương trình Toán lớp 5 hầu hết giáo viên  đã chú ý kết hợp hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm và phát huy khả năng  của cá nhân, tuy vậy vẫn còn mang tính hình thức, hiệu quả các hoạt động chưa  cao.  + Các tiết dạy đã chú trọng kĩ năng thực hành, song biện pháp tổ chức thực hành  thiếu linh hoạt, nhiều khi lúng túng hoặc rập khuôn máy móc.  + Sử dụng thiết bị dạy học trong thiết kế bài dạy và lập kế hoạch bài học còn  nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh và định hướng cụ thể hơn vì giáo viên sử dụng  thiết bị dạy học, học sinh sử dụng dụng cụ học toán còn lúng túng.  + Trong kiểm tra và đánh giá kết quả học tập của học sinh đã được chú trọng  nhưng việc tổ chức  tự đánh giá  lẫn nhau vẫn còn lúng túng. c.1. Thực trạng về việc học  nội dung về diện tích các hình trong chương  trình Toán  của lớp 5 *. Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của học nội dung diện  tích các hình trong chương trình Toán  của lớp 5 Để tìm hiểu vấn đề này  tôi đã đặt câu hỏi: Việc rèn luyện kĩ năng tính diện  tích một số hình với em là với 4 mức độ:Rất quan trọng; Quan trọng; Bình  thường; Không quan trọng. Kết quả thu được như sau: ­Nhận thức của học sinh với việc rèn luyện kĩ năng giải toán: Rất quan trọng: 14 học sinh , chiếm 41,2% Quan trọng:         10 học sinh, chiếm 29,4% Bình thường:       6 học sinh, chiếm  17,6% Không quan trọng 4 học sinh, chiếm  11,8% Qua việc điều tra tôi thấy rằng đa số  học sinh (70,6%) cho rằng việc giải  rèn luyện kĩ năng tính diện tích của một hình có vai trò rất quan trọng trong quá   trình học toán  ở  nhà trường. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số  em (11,8%)  
  8. xem nhẹ công việc này.    Đối với học sinh chúng tôi tiến hành điều tra ngẫu nhiên (bằng phiều  trưng cầu ý kiến) đối với  tổng số  34 học sinh thuộc  lớp 5B  tập trung chủ yếu   vào các vấn đề sau: + Điều tra học sinh lớp 5 qua khảo sát chất lượng học nội dung về diện tích các  hình: Số học sinh dự khảo sát: 34 học sinh Đạt điểm 9­10:     7 em chiếm 20,6 % Đạt điểm 7­8:       15 em chiếm 44,1% Đạt điểm 5­6 :       9 em chiếm 26,5 % Đạt điểm dưới 5:   3  em chiếm 8,8% Các số liệu điều tra trên cho thấy cần có những giải pháp tích cực trong việc đổi  mới cách dạy và đổi mới cách học nhằm nâng cao chất lượng dạy học về diện  tích các hình trong chương trình Toán lớp 5 góp phần nâng cao chất lượng dạy học  môn Toán.  * Kĩ năng vẽ hình của học sinh trong quá trình làm toán. Để tìm hiều vấn đề này chúng tôi đặt câu hỏi :  Em đánh giá kĩ năng vẽ hình   bài toán của mình là? Với bốn lựa chọn cho học sinh:  Rất tốt; Tốt; Bình thường;  chưa vẽ được. Kết quả thu được như sau:  Kĩ năng vẽ hình  bài toán của học sinh Rất tốt:         7 em chiếm 20,6 %  Tốt:                     12 em chiếm 35,3% Bình thường:       10 em chiếm 29,4 % Chưa vẽ được:      5  em chiếm 14,7%    Qua điều tra ta nhận thấy rằng số học sinh có kĩ năng vẽ hình tốt và rất tốt đạt   55,9%. Còn học sinh có kĩ năng  ở  mức độ  trung bình và chưa vẽ  được chiếm   44,1%. Như vậy kĩ năng tóm tắt của nhiều  em học sinh  vẫn còn nhiều hạn chế.   Việc tóm tắt chưa đạt dẫn đến học sinh khó có thể biểu diễn được các mối quan   hệ  của các đại lượng   trong bài toán một chính xác, gây khó khăn cho việc tìm  hướng giải.    * Những lỗi các em thường mắc phải vẽ  hình  trong giải bài toán về  tính   diện tích.      Chúng tôi tiếp tục tìm hiểu kĩ năng vẽ  hình bài toán bằng các đoạn thẳng của   các em bằng câu hỏi: Khi vẽ  hình bằng  đoạn thẳng, lỗi nào sau đây em thường   mắc phải: Tỉ  lệ  đoạn thẳng không đều nhau; Không ghi đầy đủ  các dữ  kiện; Cả   hai ý trên. Kết quả thu được như sau:   Lỗi mắc phải trong khi tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng
  9. Lỗi SL % 1 Vẽ hình không chính xác 10 39,4 2 Không ghi đầy đủ các dữ kiện 7 20,6 3 Cả hai ý trên 7 20,6 Qua bảng số liệu ta có thể nhận thẫy lỗi phổ biến nhất khi các em sử dụng   đoạn thẳng để  vẽ  hình bài toán là vẽ  hình không chính xác và không ghi đầy đủ  các dữ kiện (20,6%). Điều này phản ánh các em chưa có kĩ năng thể hiện mỗi quan   hệ của các đại lượng của bài toán bằng hình vẽ; khi vẽ các em chưa chú y đến tỉ  lệ của các đoạn thẳng nhiều em vẽ theo kiểu áng chừng. Mặc khác các em hay bỏ  quên các dữ  kiện của bài toán nên không thể  hiện  ở  trên sơ  đồ  dẫn đến gây khó   khăn trong việc tìm hướng giải quyết bài toán.   * Kĩ năng viết câu lời giải  và biến đổi công thức của học sinh. Qua tìm hiểu vần đề  này bằng câu hỏi:  Em đánh giá kĩ năng viết câu lời   giải của mình là? Với 4 mức độ: Rất tốt; Tốt; Trung bình; chưa đạt. Chúng tôi thu  được kết quả như sau:  Kĩ năng viết câu lời giải của học sinh Mức độ Rất tốt Tốt Bình  Chưa đạt thường Số lượng 12 10        7 5 % 35,3 29,4 20,6 14,7 Ngoài ra để tìm hiểu thêm về vấn đề này  tôi tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên  20 cuốn vở  em tự  ôn luyện Toán 5 của 34 học sinh lớp 5B. Sau khi kiểm tra các  câu lời giải của các em chúng tôi nhận thấy có các lỗi phổ biến như sau:   ­Câu lời giải bị phê là dài dòng và còn thiếu (9 hs chiếm 26,5%.)   ­Quên ghi dấu ngoặc ở tên đơn vị  và quên ghi đáp số chiếm (7 hs chiếm 20,6%)    Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy kĩ năng viết câu lời giải của các em còn một số  hạn chế. Một số em chưa viết tốt câu lời giải (7 hs chiếm 20,6%) thậm chí một số  em còn ở mức độ chưa đạt (5hs chiếm 14,7%). Nhiều em khi viết câu lời giải cách   diễn đạt còn vụng về và chưa đạt yêu cầu của bài ra. Một lỗi nữa mà các em hay   mắc là quên ghi tên đơn vị   và quên ghi đáp số  (26,5%). Điều này chứng tỏ  nhiều   em chưa chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng trình bày và viết câu lời giải. ­ Một số em còn vụng về trong quá trình biến đổi công thức. Ví dụ: Tính diện tích hình tròn khi biết chu vi của chúng. c. Đánh giá thực trạng kĩ năng  giải toán về diện tích các hình trong  chương trình Toán  của lớp 5 Trường tiểu học      Qua quá trình điều tra chúng tôi rút ra được một số các kết luận sau:    Đa số  học sinh đều nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng 
  10. giải toán về diện tích các hình. Tuy nhiên việc rèn luyện này chưa được thực hiện  một cách nghiêm túc, liên tục và có hệ  thống. Nhiều em học sinh vẽ  hình chưa   chính xác, nhận dạng hình còn chậm.   Khi phân tích bài toán đa phần các em suy nghĩ theo hướng “suy luận xuôi”, tức là   đi từ cái đã cho đến đến cái phải tìm. Tuy nhiên việc phối hợp các hướng suy luận  khác nhau của các em vẫn còn hạn chế, vì trong thực tế có nhiếu bài toán phải suy  nghĩ theo hướng ngược lại hoặc kết hợp nhiều cách khác nhau thì mới tìm ra   hướng giải. Kĩ năng suy luận công thức của các em còn hạn chế. Nhiều em trong   lời giải vẫn dài dòng và còn thiếu. Điều này vừa  thể hiện khả năng ngôn ngữ của   các em trong cách diễn đạt, vừa cho thấy các em chưa nắm vững các yêu cầu của   bài toán. Một số em chưa xác định được tên đơn vị đo độ  dài và đo diện tích. Một   số  em vấn chưa có thói quen kiểm tra lại các phép tính hay bài giải sau khi thực   hiện. Nếu có cách thực hiện của các em nhiều khi chưa đảm bảo được nguyên tắc  việc thử lại. Khả năng khai thác và đặt đề  toán mới từ  các bài đã cho của các em   còn hạn chế . Điều này thể hiện các em chưa có thói quen, ý thức được việc  khái  thác các bài toán mới, tự  đặt ra những yêu cầu mới cho bản thân; Hơn nữa điều   này còn thể hiện  trong các tiết giảng dạy hệ thống bài tập của giáo viên chưa chú   ý đến kĩ năng đặt đề toán hay khai thác bài toán theo nhiều hướng khác nhau. Mặt   khác qua điểu tra  tôi cũng nhận thấy rằng tuy trong việc  hướng dẫn giải bài cho   học sinh nhiều phương pháp tóm tắt khác nhau cho một bài toán chưa được giáo   viên lưu ý giới thiệu; phần công việc của học sinh trong việc tóm tắt bài toán lại  được giáo viên làm thay các em, làm hạn chế vai trò chủ  động của học sinh. Hình  thức giải toán thông qua trò chơi toán học chưa được giáo viên quan tâm tổ  chức  khiến nhiều tiết học có không khí nặng nề, học sinh trong tìnhtrạng phải nhận  nhiệm vụ, thiếu tích cực trong luyện tập.    2.2. Dạy học toán có nội dung về tính diện tích các hình trong chương trình   Toán lớp 5.   a. Mục tiêu dạy học giải toán về diện tích các hình trong chương trình Toán  5   Dạy học  giải toán về diện tích các hình lớp 5 giúp học sinh củng cố, rèn luyện   kiến thức và kĩ năng về tính toán trong chương trình Toán 5, rèn kĩ năng trình bày,   kĩ năng, diễn đạt, kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề gần gũi với cuộc sống.    Yêu cầu cần đạt được của mỗi học sinh lớp 5 là:   ­Học sinh biết quy trình giải bài toán về diện tích các hình.    ­ Hiểu được phương pháp đặc thù đối với mỗi hình đó số  tình huống thực tiễn   đơn giản có liên quan.  *.Giải toán về tính diện tích các hình.    Trong Toán 5, các bài toán về tính diện tích các hình ( hình vuông, hình chữ nhật,  
  11. hình tam giác, hình thang, hình tròn; tính diện tích xung quanh, diện tích toàn phần,  thể  tích, hình hộp chữ  nhật, hình lập phương). Đặc biệt là các bài toán về  tính   diện tích ruộng đất thực tế  liên quan đến việc phân chia một hình thành các hình  khác để tính được diện tích. Với nội dung này, Toán 5 đã giúp học sinh hình thành  cách tính chủ yếu dựa vào trực quan, cắt ghép hình.    Chẳng hạn:  Dạy diện tích xung quanh của hình hộp chữ  nhật bằng cách triển   khai trên đồ  dùng trực quan để học sinh nhận thấy diện tích xung quanh của hình  hộp chữ  nhật chính là diện tích của một hình chữ  nhật lớn vừa triển khai được.  Khi áp dụng công thức để  tính diện tích thì phép tính giải trong mỗi bước tính  thường là phải tính “ giá trị  của biểu thức chữ”, do đó khi trình bày bài giải học  sinh không phải viết kết quả  của phép tính trung gian mà ghi ngay kết quả  của   biểu thức.   Chẳng hạn: Một hình hộp chữ nhật có chiều dài 20 cm, chiều rộng 12 cm, chiều   cao 10 cm. Tính diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật đó.                          Bài giải Diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật là: ( 20 + 12 ) x 2 x 10 = 640 (cm2) Đáp số: 640 cm2 Học sinh không phải viết kết quả phép tính: 20 + 12 = 32; 32 x 2 =64; 64 x 10 =640.   Khi viết bài giải các bài toán có nội dung hình học, thông thường HS không phải   vẽ hình đối với những bài mà khi tính,diện tích, chỉ áp dụng công thức để tính. Đối   với những bài toán mà yêu cầu theo đề  bài cần phải vẽ  hình thì HS cần phải vẽ  hình khi làm bài.    2.3. Các giải pháp nâng cao kĩ năng giải toán về  tính diện tích một số  hình   cho học sinh lớp 5 trường tiểu học      Toán học vốn rất trừu tượng và mang tính khái quát cao. Việc thực hiện các kĩ  năng tính toán  với 4 phép tính cộng từ nhận, chia là không khó đối với đa số học  sinh. Nhưng trong các bài toán về tính diện tích thì việc lựa chọn các phép tính phù  hợp lại không đơn giản tí nào bởi vì chúng ẩn náu đằng sau những câu chữ. Do đó  giải toán về tính diện tích đối với đa số học sinh nói chung và học sinh lớp 5 nói  riêng là không dễ.   Dạy học giải toán về tính diện tích là một trong những con đường hình thành và  phát triển tư  duy của học sinh ( phát hiện và tự  giải quyết vấn đề, tự  nhận xét).  Để đạt được mục đích trên người giáo viên phải thực hiện các yêu cầu sau:    GV cần phải tổ chức cho HS hoạt động học (theo cá nhân, cặp đôi, nhóm hay cả  lớp) cùng với hoạt động tự nhận xét và nhận xét sản phẩm của bạn hay nhóm bạn,   qua đó HS có thể  tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức, rèn kĩ năng cần thiết.Khi HS  thực hiện hoạt động học thì GV thực hiện các hoạt động đánh giá (quan sát, tư 
  12. vấn, hướng dẫn HS, nhận xét…). Để có thể tổ chức cho HS hoạt động học được  hiệu quả, GV cần phải xác định rõ mục tiêu hay yêu cầu cần đạt và nội dung bài   học, từ  đó thiết kế  thành các hoạt động học và hoạt động đánh giá (nhận xét, tự  nhận xét…) để HS thực hiện. GV tổ chức hoạt động dạy học Toán cùng với hoạt   động đánh giá để  góp phần hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất cho HS.   Trong quá trình tổ chức hoạt động học và đánh giá học sinh trong giờ học Toán, để  thực hiện yêu cầu “vì sự  tiến bộ  của HS”, GV phải được chủ  động, linh hoạt,   sáng tạo trong toàn bộ  giờ  học nói riêng và quá trình giảng dạy nói chung. Với   trách nhiệm của mình, cùng với năng lực sẵn có và sự tâm huyết nghề nghiệp, yêu   thương HS, việc đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và đánh giá học sinh trong  dạy học môn Toán  ở  tiểu học sẽ  giúp HS tiến bộ  trong học tập môn Toán, góp  phần nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học.    Sau đây tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn trên:    Giải pháp 1. Khảo sát  phân loại chất lượng đầu năm    ­Khảo sát chất lượng đầu năm.    ­ Ghi kết quả khảo sát.     ­ Phân loại đối tượng học sinh.     ­ Lựa chọn biện pháp phụ đạo trong các tiết toán. Giải pháp 2. Hoạt động nắm vững các khái niệm toán học, cấu trúc phép  tính, các thuật ngữ: ­ Bài toán về tính diện tích nêu các vấn đề thường gặp trong đời sống , các vấn   đề  đó gắn liền với nội dung( khái niệm, cấu trúc, thuật ngữ) toán học. Do vậy  giáo viên cần cho học sinh nắm vững khái niệm thuật ngữ toán học.  Hướng dẫn học sinh giải toán và nêu thành các bài toán điển hình ( bài toán có   phương pháp giải thống nhất). Giải pháp 3. Hoạt động hình thành và rèn kĩ năng giải toán về diện tích các  hình.    Sau khi   đã giải được bài toán thì học sinh phải có khả  năng khái quát và rèn   luyện năng lực giải toán.    Giáo viên có thể tiến hành hoạt động này như sau: ­ Yêu cầu học sinh tìm cách giải khác cho bài toán. ­ Đưa một vài đề toán thiếu hoặc thừa dữ kiện hoặc điều kiện của bài toán ­ Tổ chức cho học sinh lập đề toán tương tự với bài toán đã giải hoặc lập bài toán  ngược với bài toán đã giải. ­ Rèn luyện cho học sinh có kĩ năng lập bài toán dựa vào tóm tắt hoặc dựa vào lời  
  13. giải. Đề xuất. a/­ Cần phân hoá trình độ, đối tượng học sinh có thể phân hoá như sau : + Đối với học sinh năng lực còn hạn chế : Tạo tình huống để các em tri giác   nhận dạng các bài tập,  giúp các em nhận diện các bài tập hình học  qua việc phân   tích đặc điểm dạng bài tập  bằng con đường trực giác , nhận dạng góc , cạnh. . .  + Đối với học sinh  năng lực bình thường :  Ở  trình độ  này đã có thể  thực  hiện được các bài tập có tính lôgích giữa các tính chất của các hình và bản thân các  hình . Một số  bài tập có tính chất định nghĩa hình. Còn những tính chất khác sẽ  được xây dựng  bằng suy diễn, Hình thành hệ thống câu hỏi từ định nghĩa đến các  tính chất của các hình : Hình bình hành , hình thoi . . . . .  + Đối với học sinh năng lực tốt :Các em nhận dạng bài tập một cách nhanh  nhẹn  thực hiện tư  duy trừu tượng . Tự đặt câu hỏi gợi mở  vấn đề  trong các bài   tập dần dần tiến tới xây dựng hệ thống tư duy suy diễn trừu tượng. Sau khi đã phân hoá đối tượng cần tổ chức đa dạng phong phú  giúp học sinh  lĩnh hội kiến thức và thành thạo kĩ năng . Điều này có nghĩa là phải tổ chức cho  học sinh hoạt động một cách tính cực. Học sinh là người tham gia vào các hoạt  động ấy, chúng tự tìm tòi , tự khám phá . . . tổ chức cho các em tự học , tự đọc sách  ,cách lấy thông tin, cách phân tích và hiểu thông tin. Những câu hỏi những tình  huống của giái viên có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với học sinh , làm cho học  sinh hứng thú, tó mò học sinh tìm hiểu câu trả lời đúng, tạo niềm tin chiến thắng  cho các em.     ­ Giáo viên quan tâm đồng đều tới các đối tượng học sinh trong lớp, chấm chữa  tay đôi với những học sinh còn hạn chế và luôn có những lời động viên, nhắc nhở  để các em tiến bộ hơn.       b/­Trong quá trình dạy học giải toán về  tính diện tích các hình giáo viên cần   hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh tri thức để  học sinh biết cách vẽ  hình chính xác,  nắm chắc các bước giải, vận dụng giải đúng bài. Giáo viên phải yêu cầu học sinh   tư duy vận dụng thành thạo các công thức tính diện tích của các hình. Điều này sẽ  giúp học sinh có khả năng giải quyết bài toán nhanh và chính xác.       c/­ Trong quá trình thực hiện bài giải, học sinh còn gặp khó khăn ở câu lời giải,   do vậy học sinh phải đọc kĩ đề  bài và xác định xem bài toán yêu cầu gì? Dựa vào  câu hỏi đó để ghi câu lời giải cho phù hợp.       e/ Về phía giáo viên: Giáo viên cần nắm bắt phương pháp giảng dạy mới phù  hợp với nội dung sách. Trước khi lên lớp, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung bài,   tìm ra cách giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức bằng con đường ngắn nhất và dự  kiến các sai lầm để  giúp học sinh tiếp nhận kiến thức nhẹ  nhàng, dễ  hiểu và  
  14. không có những sai lầm đáng tiếc.     Giải pháp 4. Tăng cường hoạt động thực hành luyện tập Muốn giỏi toán nói chung và giỏi toán về  diện tích các hình nói riêng thì  không có còn đường nào khác ngoài việc tăng cường thực hành luyện tập. Việc   giải các bài tập trong sách giáo khoa là cần thiết tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở đó thì  kĩ năng của các em khó lòng có thể nâng cao được. Bởi vì đa số  các bài toán trong   sách giáo khoa Toán  đều là những bài toán cơ bản mang tính chất vận dụng công   thức là có thể  giải được. Do đó các em nên tiếp cận với các bài toán khác  ở  các   sách tham khảo, vở em tự ôn luyện toán. Điều đó sẽ  nâng cao khả  năng giải toán   của em.     Đối với mỗi bài toán các em không phải lúc nào cũng phải tóm tắt đề toán. Tuy   nhiên các em nên tập thói quen tóm tắt bài toán trước khi bắt tay vào giải. Việc tóm  tắt sẽ  giúp cho chúng ta thấy được mối quan hệ  giữa các đại lượng từ  đó định  hướng cách giải. Đến khi thành thạo các em có thể không cần ghi ra giấy mà bước  này chỉ cần nhẩm trong đầu.       Trong quá trình luyện tập nếu các em còn mắc số lỗi về diễn đạt câu lời giải,   kĩ năng vẽ hình và biểu diễn các dữ kiện của bài toán thì cần nhớ các cách sau sẽ  giúp các em sớm khắc phục được điều đó.        Khi viết cầu lời giải các em cần nhớ rằng đó là câu  khẳng định không phải là  câu hỏi, các cách mà em có thể áp dụng: Cách 1: Quan sát các câu lời giải của các bạn và cô giáo để  đã trình bày và   xem câu nào gọn và đủ ý thì học theo. Cách 2: Khi giải trên lớp cần nêu một số  cách trả  lời khác nhau cho cùng   một phép tính để cô giáo và các bạn góp ý rồi tự mình sửa chữa.      Thời gian rèn kĩ năng thực hành trong tiết về diện tích trong khoảng thời gian từ  20 đến 25 phút trong một tiết dạy hình thành kiến thức mới, thời gian rèn kĩ năng  thực hành trong tiết luyện tập khoảng từ  30 đến 35 phút. Để  đảm bảo thời gian  trong lĩnh hội kiến thức và củng cố  kiến thức, cần chọn các hình thức tổ  chức   hoạt động trọng tâm, thao tác kĩ thuật chính xác, đưa ra các tình huống và xử lí tình  huống cụ thể , ít diễn giải, không làm thay học sinh.       * Giải pháp 5. Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng và phương tiện dạy  học trong dạy diện tích các hình:          Thật vậy, các phương tiện dạy học hỗ  trợ  không nhỏ  đến hiệu quả  khi sử  dụng phương pháp dạy học tiểu học. Điều này phụ  thuộc nhiều vào cơ  sở  vật  chất và các đồ dùng dạy học ở mỗi nhà trường. Giáo viên cần chú ý sử dụng tối đa  các phương tiện dạy học hiện có để giờ học đạt hiệu quả cao về chất lượng. Đồ 
  15. dùng trực quan luôn gắn liền với phương pháp dạy học  ở  tiểu học. Để  nâng cao  hiệu quả  sử  dụng đồ  dùng và phương tiện dạy học trong dạy diện tích các hình  trrong chương trình Toán 5, GV cần lưu ý những vấn đề sau:     ­ Giáo viên cần khai thác triệt để bộ đồ dùng dạy học dùng cho Toán 5. Nghiên   cứu và sử  dụng tối đa hiệu quả  bộ  đồ  dùng dành cho giáo viên và học sinh. Qua  các tiết thao giảng, sinh hoạt chuyên môn, giáo viên cùng nhau trao đổi, vận dụng   các hình thức tổ chức dạy học phù hợp với hoạt động sử dụng đồ dùng Toán 5.      ­ Vận dụng công nghệ thông tin vào soạn giảng một cách nhạy bén, linh động,  song không quá lạm dụng trong các tiết lên lớp; qua sử dụng đồ  dùng, hình thành  cho học sinh kĩ năng tự  học, phát huy tính sáng tạo, tìm tòi qua việc sử  dụng đồ  dùng.      * Giải pháp 6:  Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh: ­ Tham mưu với Ban giám hiệu mời phụ huynh họp ( sau khi khảo sát, phân  loại đối tượng ) thông qua yêu cầu của môn Toán. Thông báo cho từng phụ huynh  biết con mình chưa hoàn thành  ở  mặt nào chưa giải được diện tích của hình nào,   từ đó hướng dẫn phụ huynh biện pháp giúp đỡ các em học tập ở nhà. ­ Thăm gia đình hoặc thường xuyên trao đổi với phụ  huynh qua công nghệ  thông tin ( Zalo, zoom, facebook…), điện thoại.   ải pháp  7:   * Gi     Sử dụng các phương pháp dạy học hiệu quả. Hình thành  phương pháp tự học, tăng cường các hoạt động tự tìm kiếm tri thức và ứng  dụng tri thức vào cuộc sống:  a. Để giúp học sinh trong giải toán về tính diện tích các hình nhằm phát triển năng  lực và phát huy tính tích cực chủ động của học sinh,  tôi đã sử dụng nhiều phương  pháp khác nhau như:   1. Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của  học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt...  Từ đó phát huy  năng lực và tính tích cực, tự giác của học sinh.  2. Phương pháp thực nghiệm: Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống,  những hoàn cảnh, những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng  vào vấn đề, từ đó nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một  phương pháp hết sức quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học.   3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động: Qua phương pháp này làm cho  người giáo viên thấy được những thiếu sót và những chỗ hổng của học sinh để có  phương pháp làm cho hoạt động của mình đạt chất lượng cao.   4. Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm: Nhờ phương pháp này mà người nghiên  cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy 
  16. tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao  động, sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được  những biện pháp khắc phục và đề xuất.  5. Phương pháp đàm thoại: Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò  chuyện là một hình thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời  thăm hỏi trò chuyện với một số phụ huynh học sinh. Qua đó chúng ta có thể biết  tâm sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở  nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất.  6. Phương pháp thống kê, tính toán: Phương pháp thống kê tính toán, qua những  thông tin tài liệu thu thập được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại  tình hình và tính toán các số liệu cần thiết để biết được chất lượng học tập của  học sinh thời gian sau so với thời gian trước như thế nào?  Trong các dạng toán về tính diện tích các hình ở lớp 5, tôi chú ý vận dụng  phương  pháp dạy học tích cực: PPDHTC là một phương pháp dạy học toán mà ở đó người  GV sử dụng một nhóm PP giáo dục và dạy học theo hướng phát huy tính tích cực   chủ động sáng tạo của người học đồng thời chống lại thói quen học tập thụ động  của người học. b. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học Không có một phương pháp dạy học toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội  dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức dạy học có những ưu, nhựơc điểm  và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình  thức dạy học trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát  huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học. Dạy học toàn lớp, dạy học  nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội của dạy học cần kết  hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng độc tôn  của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trìnhcần được khắc  phục, đặc biệt thông qua làm việc nhóm.  c. Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề  Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải  quyết vấn đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng  nhận biết và giải quyết vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó  là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề,  giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và phương pháp nhận thức. Dạy học giải  quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực nhận thức của học  sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ tự lực khác  nhau của học sinh.
  17.  Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học chuyên môn, cũng có thể  là những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện nay, d ạy học   giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít chú   ý hơn đến các vấn đề  gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ  chú trọng việc giải   quyết các vấn đề  nhận thức trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa   được chuẩn bị tốt cho việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh  dạy học giải quyết vấn đề, lý luận dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo   tình huống.  Ví dụ: Dạy bài diện tích hình tam giác: Học sinh chuẩn bị  1 tờ  giấy a4 hình chữ  nhật, dùng thước và bút chì kẻ 1 đoạn thẳng nối 2 góc đối diện và cắt đôi thành 2   hình tam giác vuông. Cho học sinh tìm mối liên hệ  giữa chiều cao hình tam giác   vuông và chiều rộng hình chữ nhật, giữa 2 hình tam giác vuông khi ghép lại sẽ như  thế  nào so với hình chữ  nhật. Diện tích hình chữ  nhật là chiều dài nhân chiều   rộng. Vậy tại sao khi tính diện tích hình tam giác vuông ta lại lấy chiều dài cạnh   đáy nhân chiều cao chia 2. Đây là một số vấn đề giáo viên nêu ra cho học sinh giải  quyết. d. Vận dụng dạy học theo tình huống  Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được  tổ chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và  nghề nghiệp. Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo  điều kiện cho học sinh kiến tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội  của việc học tập.  Các chủ đề dạy học phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều  môn học hoặc lĩnh vực tri thức khác nhau, gắn với thực tiễn. Trong nhà trường, các  môn học được phân theo các môn khoa học chuyên môn, còn cuộc sống thì luôn  diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp. Vì vậy sử dụng các chủ đề dạy học  phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các môn khoa học  chuyên môn, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp, liên  môn.  Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của  dạy học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống điển  hình, gắn với thực tiễn thông qua làm việc nhóm.  Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn là con đường quan trọng  để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp phần khắc phục  tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ thông.  Tuy nhiên, nếu các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô 
  18. phỏng lại, thì chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong  phòng học lý thuyết thì học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa  có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. đ. Vận dụng dạy học định hướng hành động  Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí  óc và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học  sinh thực hiện các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự  kết hợp linh hoạt giữa hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan  điểm dạy học tích cực hoá và tiếp cận toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng  hành động có ý nghĩa quan trọng cho việc thực hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý  thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và xã hội. Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành  động, trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức  hợp, gắn với các vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các  sản phẩm có thể công bố. Trong dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý  thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như lý thuyết kiến tạo, dạy học định  hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học khám phá, sáng tạo,  dạy học theo tình huống và dạy học định hướng hành động. h. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ  dạy học: Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương  pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy  học. Việc sử dụng các phương tiện dạy học cần phù hợp với mối quan hệ giữa  phương tiện dạy học và phương pháp dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương  tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy  nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng,  cần được phát huy.  Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương  tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Đa phương tiện và công nghệ thông tin có  nhiều khả năng ứng dụng trong dạy học. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện  như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học  cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E­Learning). Phương  tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học  mới. Webquest là một ví dụ về phương pháp dạy học mới với phương tiện mới là  dạy học sử dụng mạng điện tử, trong đó học sinh khám phá tri thức trên mạng một  cách có định hướng.
  19. i. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo  Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh  trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy  học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học.  Có những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương  pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú  trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo  của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, XYZ, Bản đồ tư duy… k. Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh  Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực  hoá, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung  như phương pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm  việc, phương pháp làm việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của  từng bộ môn. Bằng nhiều hình thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các  phương pháp học tập chung và các phương pháp học tập trong bộ môn.   Trong phương pháp học, điều cốt lõi là phương pháp tự  học. Để  đạt được yêu   cầu này trong chỉ  đạo dạy học nội dung diện tích các hình, giáo viên phải tạo ra  hàng loạt các mâu thuẫn để  lôi kéo học sinh tự  ý thức tiếp nhận và tìm tòi cách  giải quyết. Để đạt được mục tiêu trên, giáo viên phải có kĩ năng sử  dụng tốt thiết   bị đồ dùng trực quan, có kĩ năng tạo tình huống cố vấn đề, dựa vào những điều các  em đã biết, đã học để gợi mở và dẫn dắt.  Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành bởi  những hoạt động thuần túy cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy­ trò, trò ­  trò, tạo mối quan hệ hợp tác giữa  các cá nhân trên con đường đi tới những tri thức   mới.   Hình thức hoạt động học tập này diễn ra trong tất cả  các tiết học nói chung và   học về diện tích các hình trong chương trình toán lớp 5 nói riêng.   Các dấu hiệu tích cực trong học toán gồm:     ­ HS hăng hái phát biểu ý kiến.     ­ Không bằng lòng lời giải của cô và của bạn     ­ Không  bằng lòng với một cách giải quyết duy nhất    ­ Thường hay thắc mắc, đặt ra câu hỏi và đòi hỏi được giải đáp, hay chia sẻ suy   nghĩ với bạn.    ­ Thường hay ngơ ngác trên lớp và suy nghĩ về vấn đề liên quan.    ­ Học sinh còn tự giác, chủ động làm bài, tự học, trao đổi nhận xét bài với bạn .
  20. Trong dạy học người giáo viên cần: * Tổ chức lớp học:  Bố trí vật dụng trong lớp học sao cho hài hoà theo số lượng học sinh trong lớp  Khoảng cách giữa các nhóm không quá chật.  Chú ý đảm bảo ánh sáng. * Không khí làm việc trong lớp học: ­ GV cần xây dựng không khí làm việc và mối quan hệ giữa các học sinh dựa trên  sự tôn trọng lẫn nhau và đối xử công bằng, bình đẳng giữa các HS trong lớp. ­ Tránh tuyệt đối luôn khen ngoại quá mức một vài HS nào đó hoặc để cho cá HS   có năng lực tốt trong lớp luôn làm thay công việc của cả  nhóm mà không tạo cơ  hội làm việc cho các học sinh khác. * Giúp học sinh bộc lộ quan niệm ban đầu ­ Vì là lần đầu tiên được hỏi đến nên học sinh ngại nói, sợ  sai và sợ  bị  chê cười.   Do đó, giáo viên cần khuyến khích học sinh trình bày ý kiến của mình. ­ Chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của học sinh khi trình bày biểu   tượng ban đầu. ­ Không nên vội vàng khen những ý kiến đúng vì sẽ làm ức chế các HS khác muốn   trình bày ý kiến của mình. * Tổ chức hoạt động thảo luận cho học sinh ­ Thảo luận được thực hiện ở  nhiều thời điểm trong dạy học bằng phương pháp  bàn tay nặn bột. ­ Có hai hình thức thảo luận: thảo luận nhóm nhỏ và thảo luận nhóm lớn. ­ Tuyệt đối không được nhận xét ngay là ý kiến của nhóm này đúng hay ý kiến của  nhóm khác sai. ­ Cho phép học sinh thảo luận tự do, tuy nhiên giáo viên cần hướng dẫn học sinh  tới các kết luận khoa học chính xác của bài học. ­ Hình thành một số  quy  ước “lệnh” cho lớp học để  học tập và chuyển các hoạt  động nhanh và khoa học. Đây cũng là rèn luyện năng lực cho học sinh và học sinh   luôn có thói quen làm việc theo lệnh. ­ Quan sát học sinh làm việc một cách cụ  thể  (nhìn được, nghe được các nhóm   thảo luận gì, câu trả  lời, các lời đánh giá của nhóm khác và phản biện của nhóm  về đánh giá của nhóm bạn). Tuyệt đối đảm bảo học sinh không chép kết quả của   bạn khác. * Thực hiện phương pháp này không thể  nóng vội, cần thực hiện từng bước để  tạo thói quen cho học sinh, lúc đó việc dạy học theo hướng phát triển năng lực của  người học sẽ dễ dàng và đem lại hiệu quả cao. ­ Cân nhắc từng chủ đề trước khi đưa ra. ­ Tùy vào từng đối tượng học sinh. ­ Đảm bảo khung chương trình, chuẩn kiến thức ­ kỹ năng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2