intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh Tiểu học bằng trò chơi

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:29

28
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là rút ra kinh nghiệm để có thể áp dụng ở trường chúng tôi và một số trường trong huyện với mục đích cuối cùng là giúp học sinh hiểu bài và đưa ra một số phương pháp làm thế nào để gây hứng thú học tập cho các em học sinh tiểu học. Từ đó nhằm góp phần hoàn thiện, bổ sung và nâng cao kiến thức cho học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến phương pháp mới trong quá trình dạy Tiếng Anh cấp Tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh Tiểu học bằng trò chơi

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu. Trong xu thế hội nhập quốc tế của đất nước, Tiếng Anh là một môn học quan trọng  đang được mọi ngành, mọi nghề, mọi lĩnh vực và mọi người quan tâm. Trong số  khoảng 780 thứ  tiếng trên thế  giới hiện nay thì Tiếng Anh chính là ngôn ngữ  chính  thức của hơn 53 quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ chính thức của khối E.U và là   ngôn ngữ thứ 3 được nhiều người sử dụng nhất chỉ sau tiếng Trung Quốc và Tây Ban   Nha (do sự chênh lệch về dân số các quốc gia sử dụng), Tiếng Anh được sử dụng như  là ngôn ngữ  thứ  hai  ở  rất nhiều quốc gia trên thế  giới trong đó có Việt Nam. Ngoài  ra, có tới hơn 1 tỷ trang Web sử dụng Tiếng Anh, thật kinh ngạc khi ch ỉ c ần h ọc m ột   ngôn ngữ  là có thể  khai thác hầu hết kho tri thức  ấy. Những phần mềm thông dụng  nhất trên thế giới, những mạng xã hội nổi tiếng nhất, những cổng thông tin phong phú   nhất, ... tất cả  đều được viết bằng Tiếng Anh. Vì thế, học Tiếng Anh cũng là điều  kiện quan trọng để  chúng ta có thể  tiếp cận, cập nhật những nguồn tri thức từ khắp   thế giới. Trong xu thế mở cửa hội nhập của đất nước, bên cạnh sự du nhập mạnh mẽ của các  nền khoa học công nghệ  cao còn có sự  du nhập vừa phong phú vừa đa dạng của các  nền văn hóa của các nước trên thế giới. Như vậy làm thế nào để có thể tiếp cận được  với những tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như việc tiếp thu một cách có  chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới, đồng thời giữ gìn được  bản sắc văn hóa dân tộc, không có con đường nào khác là phải đào tạo cho thế hệ trẻ  Việt Nam vốn kiến thức về ngoại ngữ nói chung và Tiếng Anh nói riêng là điều hết  sức cần thiết. Nhưng ai cũng biết rằng các ngoại ngữ  nói chung và Tiếng Anh nói  riêng là một môn học khó. Vì thế, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất  lượng đào tạo bên cạnh việc thúc đẩy hứng thú, khơi gợi niềm say mê học tập Tiếng  Anh nơi học sinh đang và sẽ không ngừng thu hút sự quan tâm của nhiều giáo viên có   tâm huyết trong nghề. Vấn đề  này cũng đã được đề  cập đến trong một số công trình  nghiên cứu của một số nhà giáo, các bài viết trên Tạp chí giáo dục, trang web của một   số các thầy cô giáo, cũng như không ít những quyển sách tham khảo của nhiều tác giả  nổi tiếng. Các công trình đó đã tạo cơ sở, nền móng cả về mặt lí luận và thực tiễn để  tôi mạnh dạn đưa ra “Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng   trò chơi”.Ở đây, tôi không cho rằng đó là sáng kiến kinh nghiệm mà chỉ đơn thuần là  kiến thức của bản thân tôi trong những năm daỵ học vừa qua, mong rằng các bạn tham  khảo và cùng đóng góp, bổ  sung cho tôi ngày một hoàn thiện hơn trong công tác giáo   dục của mình. 2. Tên sáng kiến: “Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh Tiểu học bằng   trò chơi”.
  2. 3. Tác giả sáng kiến. ­ Họ và tên: Trần Thị Mai Lan ­ Địa chỉ: Trường Tiểu học Hội Hợp A ­ Thành phố Vĩnh Yên ­ Điện thoại: 0969271488                   Email: tranmailanvp@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị  Mai Lan – Giáo viên trường Tiểu học Hội Hợp A­ Thành phố  Vĩnh Yên –  Tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:  Sáng kiến được áp dụng trong ngành giáo dục; môn Tiếng Anh ở bậc Tiểu học.           Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích rút ra kinh nghiệm để có thể áp dụng   ở trường chúng tôi và một số trường trong huyện với mục đích  cuối cùng là giúp học  sinh hiểu bài và đưa ra một số phương pháp làm thế nào để gây hứng thú học tập cho   các em học sinh tiểu học. Từ đó nhằm góp phần hoàn thiện, bổ sung và nâng cao kiến   thức cho học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến phương pháp mới trong  quá trình dạy Tiếng Anh cấp Tiểu học. Bên cạnh đó với một mong muốn giúp giáo   viên có một số phương pháp trong việc huy động học sinh tham gia các hoạt động giao   tiếp trên lớp nhằm đáp được yêu cầu về  đổi mới phương pháp, hướng học sinh vào   đúng trọng tâm yêu cầu của từng tiết học và thu hút học sinh trong quá học tập, đem   lại hiệu quả cao. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 15 tháng 9 năm 2017 7. Mô tả bản chất của sáng kiến. 7.1. Cơ sở lý luận. * Tầm quan trọng phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi. Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình   thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các trường tiểu học hiện nay,Tiếng Anh   được đưa vào giảng dạy như  là một ngoại ngữ  cơ  bản, là môn học độc lập. Trong   những năm gần đây đã có rất nhiều những cuộc thi tiếng Anh dành cho học sinh tiểu   học như: cuộc thi IOE, Olympic Tiếng Anh, Violympic Toán – Tiếng Anh ... . Cũng   như  những môn học khác, môn Tiếng Anh được xây dựng nhằm cung cấp những tri  thức ban đầu về  ngôn ngữ  nước ngoài, giúp học sinh có một công cụ  giao tiếp mới   ngoài tiếng mẹ đẻ, bước đầu phát triển khả năng nhận biết, tư duy có phê phán và các  kĩ năng tiền ngôn ngữ  trong quá trình thực hành giao tiếp Tiếng Anh dưới bốn hình   thức nghe, nói, đọc, viết. Ngoài ra, việc học Tiếng Anh còn giúp học sinh hình thành   năng lực diễn đạt ý tưởng cá nhân một cách tự tin, độc lập và sáng tạo.
  3.         Muốn học sinh tiểu học tốt môn Tiếng Anh thì người giáo viên không chỉ truyền   đạt kiến thức một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ  động, mà cần phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham  gia vào các hoạt động học tập. Xuất phát từ  những vấn đề  này, tôi cho rằng tổ  chức   các hoạt động tương tác trong mỗi bài học đặc biệt là ở phần khởi động (Kiểm tra bài  cũ) sẽ góp phần quan trọng trong việc tạo sự tập trung của học sinh vào chủ đề chính   của bài học hoặc phần  ứng dụng để  giúp học sinh củng cố  lại và ghi nhớ  kiến thức  sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, chúng ta có thể  lồng ghép sử  dụng các hoạt động vào các  khâu giới thiệu và thực hành ngữ liệu mới để tránh việc gây nhàm chán cho học sinh   khi phải lặp đi lặp lại những mẫu câu cho thuần thục. Việc nghiên cứu và vận dụng   hợp lý các hoạt động tương tác vào mỗi bài dạy sẽ góp phần tích cực đến thành công  của tiết học.  7.2. Cơ sở thực tiễn Do việc thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa mới và sự  chỉ  đạo của Bộ  GD&ĐT về việc dạy học theo phương pháp cải tiến đổi mới chỉ diễn ra trong một vài  năm gần đây. Thực tế còn nhiều giáo viên bị ảnh hưởng những phương pháp dạy học   cũ; chưa thúc đẩy được khả năng chủ động, tích cực của học sinh; chưa khai thác tối  đa các kênh hình trong sách giáo khoa, cũng như việc sử dụng kết hợp nhiều thủ thuật  dạy học khác nhau. Dẫn đến hiệu quả  học thấp, không tạo được hứng thú học tập   cho học sinh.         Hơn nữa, chương trình Tiếng Anh tiểu học được xây dựng dựa vào nhu cầu của  xã hội Việt Nam và đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nên về  mặt nội dung   rất thú vị, hấp dẫn và gần gũi với đời sống hàng ngày của các em. Tuy nhiên trên thực   tế  thì Tiếng Anh tiểu học vẫn là một môn học tự  chọn cho nên ngoài những cá nhân   thực sự yêu thích môn học này thì vẫn còn một số bộ phận học sinh vẫn chưa thực sự  chú trọng và chưa có ý thức tự  giác, ham muốn học tập cho nên dẫn đến tình trạng   chất lượng học sinh học môn Tiếng Anh chưa cao. Các em không có môi trường để  giao tiếp hàng ngày nên chóng quên từ đó dẫn đến tiếp thu chậm, lực học của các em  không đồng đều. Chỉ có một số học sinh phát triển các kĩ năng tương đối, còn đa phần  các em chưa có khả  năng tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Hơn nữa,  ở  lứa tuổi tiểu học các em thường rất hiếu động, ham hiểu biết cái mới song các em lại   chóng chán, nhanh quên.          Từ  thực tế  trên, tôi nhận thấy để  nâng cao chất lượng học tập của các em thì   điều đầu tiên người giáo viên phải làm là tạo cho học sinh sự  hứng thú, ham muốn   học tập, tạo sự tò mò và muốn biết được những điều mình sắp được học. Học sinh   cần được tham gia tích cực và chủ  động vào môi trường giao tiếp đa dạng với các  hoạt động tương tác như  trò chơi, bài hát, bài đọc nhịp, kể  chuyện… dưới sự hướng   dẫn của giáo viên để  hình thành các kĩ năng ngôn ngữ, tạo không gian học tập nhẹ  nhàng, thú vị và hấp dẫn cho người học.
  4. 7.3. Thực trạng của vấn đề. 7.3.1. Đặc điểm tình hình.     a. Thuận lợi:            ­ Học sinh Tiểu học với bản chất hồn nhiên sẵn sàng tham gia vào các hoạt   động của giờ học khi đã bị cuốn hút vào các hoạt động.           ­ Học sinh luôn được phụ  huynh học sinh và giáo viên quan tâm, giúp đỡ  trong  quá trình học tập.           ­ Giáo viên được học tập, trao đổi kinh nghiệm từ đồng nghiệp qua các buổi hội  giảng, trao đổi kinh nghiệm, chuyên đề.           ­ Được sự  quan tâm, hỗ  trợ  của Ban giám hiệu nhà trường, tổ  chuyên môn và  đồng nghiệp.            ­ Học sinh được làm quen với công nghệ  thông tin, các em sớm được tiếp xúc   với máy tính, với mạng Internet và thu nhận được nhiều thông tin từ đây. b. Khó khăn :           ­ Tiếng Anh là một môn học mới và rất khó đối với học sinh Tiểu học. Hơn nữa   đối với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi thực tế xung quanh còn   hạn chế. Ở lứa tuổi này, còn một số học sinh phát âm Tiếng Việt chưa được chuẩn.           ­ Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị  bài một cách sơ sài. Trong các giờ  học, đa số  các em  thường thụ động, thiếu sự linh  hoạt, ngại việc đọc ­ nói Tiếng anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học.           ­ Hoạt động luyện nói thường được thực hiện theo cặp, nhóm nên lớp  học dễ  ồn ào mất trật tự. Giáo viên không bao quát hết được tất cả học sinh nên một số em cá  biệt lợi dụng cơ hội nói chuyện bằng Tiếng Việt hay làm việc riêng. Giáo viên không   thể phát hiện và sửa hết lỗi của các em học sinh.           ­ Nhà trường chưa có phòng chức năng riêng phục vụ cho việc học ngoại ngữ.   Vì vậy việc tổ chức các hoạt động học tập trong tiết học gặp nhiều khó khăn.           ­ Các trang thiết bị, đồ dùng dạy học chưa phong phú và chưa hiện đại.            ­ Đa số  phụ  huynh học sinh chưa nhận ra được tầm quan trọng của việc học   Tiếng Anh đối với con em họ.           Do vậy đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp sư phạm tốt, chủ động sáng tạo,  luôn cải tiến phương pháp luyện tập bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều dạng bài  tập khác nhau phù hợp cho từng nội dung bài học để gây hứng thú và động viên tất cả  học sinh nhiệt tình luyện tập thực hành hoạt động giao tiếp.
  5. 7.3.2. Quy mô trường lớp năm học 2017 – 2018.           ­ Năm học 2017­ 2018 nhà trường có 541 học sinh chia làm 20 lớp.           ­ Tổng số  CBQL, giáo viên và nhân viên là 26 người trong đó có 02 giáo viên  Tiếng Anh.           ­ 100%  các lớp học Tiếng Anh. Trong đó 4 lớp 3; 4 lớp 4 và 4 lớp 5 học chương  trình   mới   của   BGD   4tiết/   tuần;   4   lớp   1   và   4   lớp   2   học   bộ   sách   I   learn   my   Phonics( khuyến khích các em làm quen với Tiếng Anh). 7.3.3. Thực trạng việc dạy và học môn Tiếng Anh tại nhà trường.           ­   Hiện   tại   nhà   trường   đã   và   đang   thực   hiện   giảng   dạy   môn   Tiếng   Anh   4   tiết/tuần đối với học sinh khối 3,4,5 và 2 tiết /tuần đối với học sinh khối 1,2.           ­ Bước đầu hình thành dần cho học sinh các kĩ năng chủ yếu: Nghe ­ Nói­ Đọc ­   Viết. Trong đó chú trọng đặc biệt là kĩ năng nghe và nói nhằm nâng cao năng lực thực   hành giao Tiếp tiếng Anh mọi lúc, mọi nơi một cách tự  tin nhất, Tạo tiền đề, tạo  hứng thú, lòng say mê và khả năng khám phá ngôn ngữ mới để lên bậc học trên các em  sẽ học tốt hơn.           ­ Qua những năm giảng dạy ở trường tiểu học, tôi nhận thấy có một số học sinh   rất yêu thích môn học, năng động, chủ động và tích cực trong các hoạt động học tập   nhưng chủ yếu là học sinh khá và giỏi. Đối tượng học sinh yếu còn rất nhiều, các em  chậm tiếp thu các kiến thức mà giáo viên truyền đạt, thụ động học tập, các em rụt rè,  xấu hổ, ngại thực hành nói trên lớp. Bên cạnh đó còn có những đối tượng học sinh cá  biệt thiếu ý thức học tập, các em thường mất trật tự  trong lớp, không chú ý nghe  giảng, thậm chí không ghi chép bài ở trên lớp và không làm bài tập ở nhà. Đây là một   khó khăn lớn đối với giáo viên giảng dạy bộ môn.           ­ Khi nói đến việc áp dụng một số biện pháp như  tổ chức trò chơi, dạy các bài   hát ... vào các giờ  học Tiếng Anh thì có rất nhiều những ý kiến từ  những người trực  tiếp giảng dạy. Có giáo viên cho rằng những hoạt động này rất tốn thời gian mà bài   học thì dài, không đủ thời gian để tổ chức. Có những giáo viên cũng tổ chức nhưng lại  chưa biết cách sắp xếp và quản lí các hoạt động dẫn đến mất thời gian mà không hiệu  quả. Có những giáo viên thì ngại tổ chức vì đôi khi phải chuẩn bị nhiều đồ dùng hoặc   lớp học sẽ ồn ào, làm ảnh hưởng đến các lớp học khác. ­ Việc thay đổi quan niệm và thói quen dạy học, khắc phục tâm lý ngại đổi mới là   việc không đơn giản.Vì vậy, chất lượng dạy học môn Tiếng Anh trong thời gian qua  chưa được như mong muốn. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh  và tạo ra sự say mê, hứng thú trong học tập của học sinh là một câu hỏi cho mỗi giáo   viên chúng ta. Chính vì vậy mà tôi đã thử  áp dụng sáng kiến “Một số  phương pháp  
  6. dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi”  để tạo ra động lực thúc đẩy niềm  đam mê học ngoại ngữ của học sinh. Dưới đây là kết quả tôi làm khảo sát trước khi thực hiện áp dụng sáng kiến trong khối  lớp 3, 4 tại trường tiểu học Hội Hợp A. Bảng 1: Thống kê mức độ yêu thích môn Tiếng Anh.   Mức độ yêu thích môn Tiếng Anh Khối Rất   Bình   Thích Ghét/ Sợ lớp thích thường Sĩ số SL % SL % SL % SL % 3 99 10 10.1 15 15,2 54 54,5 20 20,2 4 68 6 8.8 8 11,8 40 58,8 14 20,6 Tổng 167 16 9,6 23 13,8 94 56,3 34 20,3 Nhìn vào bảng thống kê cho ta thấy số lượng học sinh sợ học bộ môn Tiếng Anh còn  chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó chứng tỏ rằng học sinh chưa cảm thấy hứng thú với việc   học và thực hành Tiếng Anh Bảng 2: Tổng hợp kết quả đánh giá học sinh. (Tổng hợp theo 4 kỹ năng)   Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Khối lớp SL % SL % SL % SL % 3 99 12 12.1 20 20,2 47 47,5 20 20,2
  7. 4 68 8 11,8 14 20,6 36 52,9 10 14,7 Tổng 167 20 12,0 34 20,4 83 49,6 30 18,0 Qua   bảng thống kê cho ta thấy chất lượng học sinh yếu còn rất cao, tỉ  lệ  học sinh   trung bình còn nhiều, tỉ lệ khá giỏi vẫn chưa cao. * Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên Học sinh lười học, ngại học, nhút nhát, thiếu tự  tin, chưa có động cơ  học tập đúng  đắn và phương pháp học tập phù hợp, phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phù  hợp, giáo viên chưa quan tâm hết các đối tượng học sinh, do gia đình chưa động viên  kịp thời và quan tâm đúng mức.... Giáo viên ngại đổi mới, năng khiếu hạn chế, ngại sáng tạo, thiếu linh hoạt, thiếu kinh  nghiệm thậm chí là lòng yêu nghề, yêu trẻ...           Từ thực tế đó, là người trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh, tôi đã cố gắng suy   nghĩ tìm tòi, học hỏi các biện pháp hay để  nâng cao chất lượng học tập của bộ môn.  Qua quan sát và kinh nghiệm đứng lớp, tôi thấy các em học sinh tiểu học chưa có ý  thức tự giác học tập cao, ham chơi hơn ham học, tò mò, thích cái mới lạ. Vì thế mà tôi  đã mạnh dạn thay đổi phương pháp học cho các em, vừa chơi vừa học, tạo cho các em   không khí học tập nhẹ nhàng thoải mái, và tiếp thu kiến thức một cách chủ động, vận  dụng kiến thức vào luyện tập và củng cố  một cách tự  nhiên nhất. Vì thế, các em sẽ  phát huy hết được trí lực của mình, tạo ra không khí vui vẻ, hào hứng và các em sẽ bị  lôi cuốn vào hoạt động học tập một cách tự nhiên. Từ đó, hiệu quả dạy học sẽ được   cải thiện.            Từ  những thực trạng trên, tôi đã quyết định nghiên cứu về  các biện pháp gây  hứng thú học tập cho học sinh trong các tiết học ngoại ngữ để từ đó có động cơ đi tìm  tòi nghiên cứu những phương pháp dạy học mới, hay phù hợp với việc dạy và học   ngoại ngữ trong trường học của mình. 7.4. Giải quyết vấn đề 7.4.1.Tại sao phải sử dụng trò chơi cho học sinh trong giờ học tiếng Anh? 7.4.1.1. Khái niệm
  8. * Trò chơi Theo từ  điển Bách khoa tiếng Việt: "Trò chơi là hoạt động vận động làm biểu hiện  tình cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một cách hào hứng về nục   đích hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy đủ  hơn đối tượng trong đời  sống hiện thực" và " trò chơi tạo nên hứng thú ở chủ thể khát vọng tiếp cận và đi sâu   vào đối tượng, làm nảy sinh cảm xúc tích cực (hài lòng, phấn khởi, yêu thích ...), nâng   cao mức tập trung, chú ý và khả năng làm việc. Khi được làm việc phù hợp với hứng   thú, dù phải vượt qua khó khăn, con người vẫn cảm thấy thoải mái và đạt kết quả  cao". * Học tập Học tập là quá trình học và luyện tập những kiến thức tiếp thu được của người học  một cách tự giác, tích cực. * Trò chơi học tập Trò chơi học tập là một cách thể hiện thái độ yêu thích đặc biệt của học sinh đối với   việc học tập, được thể hiện qua nhiều mức độ như: sự chú ý tập trung, sự ham thích   và cao nhất là niềm đam mê đối với một đối tượng trong quá trình học. Đối với mức  độ  của trò chơi, học sinh  ở những lứa tuổi khác nhau có những biểu hiện khác nhau,   nhưng ở cấp tiểu học đa số các em đều chỉ thể hiện ở mức chú ý, tập trung tham gia   trò chơi, rất ít học sinh đạt tới mức độ đam mê do các em chưa ý thức được những lợi  ích của việc học tập. Do đó, thiết nghĩ mỗi người giáo viên tiểu học phải là một  người đưa đường bền bỉ, là người bạn đồng hành của tất cả các em trên con đường đi   tìm niềm đam mê đối với tri thức. Hơn ai hết, giáo viên tiểu học phải coi trọng việc   bồi dưỡng hứng thú học tập cho các em ngay từ  những buổi học đầu tiên, những bài   học đầu tiên. Đây là một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự khéo léo trong nghệ  thuật sư  phạm. *Trò chơi học tập môn tiếng Anh. Trò chơi học tập môn Tiếng Anh là xu hướng vận động nhằm tạo ra hứng thú của học   sinh có nhu cầu đúng đắn về học tập môn này. Học sinh có hứng thú học tập thường  chú ý cao độ  trong học tập trên lớp và ngoài giờ; thường xuyên say mê rèn luyện các  kỹ  năng nghe, nói, đọc, viết; tích cực vận dụng vào giao tiếp và cuộc sống; đam mê  tìm hiểu nghiên cứu; không ngừng nâng cao trình độ học Tiếng Anh. Chính vì vậy, khi học sinh có được hứng thú trong học tập thì việc học tập tốt môn  học này sẽ  không phải là trở  ngại lớn đối với các em. Do đó, khơi dậy sự  hứng thú  học tập cho học sinh là việc làm cần thiết và rất quan trọng của người giáo viên. 7.4.1.2. Vai trò của trò chơi đối với việc học tập môn tiếng Anh
  9.         Hàng loạt các công trình nghiên cứu sinh lý học cho thấy rằng khả năng tiềm tàng  của bộ óc trong hoạt động trí tuệ của con người còn lâu mới được sử dụng hết. Thực   tế, chỉ khoảng 10 – 15% khả năng đó được sử  dụng và do vậy dẫn đến sự  khác biệt  về  khả  năng trí tuệ  mà ta có thể  nhận thấy giữa người này và người khác. Điều này  không hẳn phụ thuộc vào bản tính sinh lý của họ mà chủ yếu là vào những ảnh hưởng  khác nhau của môi trường và sự  giáo dục. Thực tế, trong trường học cũng vậy, khi   tiếp nhận những tác động bên ngoài (sự  giảng dạy, môi trường học tập,...) một cách   tích cực, các em dễ bộc lộ tính tích cực nhận thức và cố gắng lĩnh hội bài. Ngược lại,  nếu tác động bên ngoài là tiêu cực thì tính tiêu cực nhận thức của các em sẽ được bộc  lộ.         Chính vì thế, vấn đề  đặt ra cho mỗi giáo viên là phải hình thành ở  học sinh tâm   trạng tích cực đối với học tập và khêu gợi những kích thích bên trong của sự tích cực  nhận thức. Hay nói cách khác, khi vận dụng những phương pháp và thủ  thuật giảng   dạy nào đó, giáo viên phải quan tâm, đầu tư  sao cho chúng có tác dụng xúc cảm cần  thiết và làm cho chúng vừa trở nên những tài liệu dễ hiểu, sinh động hơn vừa để kích   thích tâm trạng bên trong của học sinh đối với học tập.         Không phải ngẫu nhiên mà nhà tâm lý học L. I. Boogiôvich đã viết rằng: "tuyệt  đại đa số học sinh kém thường có thái độ tiêu cực đối với học tập". Điều này có nghĩa   là nếu chúng ta muốn học sinh chăm chú nghe giảng thì việc chỉ  nêu tên chủ  đề  của   tiết học và thông báo những vấn đề  cơ  bản của bài giảng là chưa đủ. Cần phải gây   cho học sinh một tâm tư xúc động tích cực có liên quan trực tiếp với lòng mong muốn   hoạt động nhận thức. Do đó, không thể  thiếu được yếu tố  gây hứng thú cho hoạt  động nhận thức của học sinh.         Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở nên hào   hứng, thoải mái và dễ  dàng. Khi đó, học sinh không cần đến sự  động viên bên ngoài  đối với học tập mà làm việc với sức mạnh của sự  say mê bên trong nhằm đáp  ứng   nguyện vọng của bản thân. Việc gây hứng thú ở học sinh sẽ giúp các em có cảm giác  niềm vui sướng của thành công, tin tưởng vào sức mình, vào khả năng vượt qua những  khó khăn thử thách.         Dẫu biết rằng sự hứng thú có  ảnh hưởng mạnh mẽ  tới sự  thành công của hoạt  động dạy và học nhưng trong thực tế dạy học có những yếu tố gây mất hứng thú hay  chưa khơi dậy được sự hứng thú học tập ở học sinh. Nguyên nhân nào dẫn đến thực  trạng này? Do không hiểu bài: Không hiểu bài, các em sẽ thấy khó khăn, và khi thấy khó khăn thì  học sinh sẽ  không thể  nắm bắt được, vì không thể  nắm bắt được nên các em cảm   thấy mọi thứ đều tù mù, không rõ ràng và vô hướng. Do đó, các em đương nhiên không   thể  có hứng thú học và kết quả  học tập luôn đi xuống là điều dễ  hiểu. Đây là một   hiện tượng không hiếm gặp trong bối cảnh giáo dục hiện nay, khi mà việc học đơn  
  10. thuần  ở  lớp không thể  đáp  ứng đủ  được nhu cầu tương đương với trình độ  của mỗi   học sinh do sĩ số lớp quá đông. Không những thế, tác động từ môi trường cũng có ảnh  hưởng nhất định tới kết quả  học tập của mỗi học sinh. Để  giải quyết được vấn đề  này, đối với từng học sinh, ta phải có những phương án cụ thể thích hợp. Do phương pháp giảng dạy: Đôi khi không có hứng thú học tập cũng bắt nguồn từ  phương pháp giảng dạy. Chúng ta cần phải ý thức lại vấn đề  này. Giáo viên phải là  người gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự  hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức   của học sinh. Với một giáo viên lúc nào cũng nghiêm khắc, khô khan thì đương nhiên   khó có thể tạo hứng thú học tập cho các em, mà thay vào đó chỉ là tâm lý sợ sai mà các   em luôn phải duy trì trong suốt giờ học.         Không những thế, ngày nay các giáo viên còn mắc một lỗi phổ biến khiến các em  không hứng thú học đó là: thiếu tính sáng tạo trong giảng dạy. Khi phải học bởi kiểu   giảng dạy chỉ có đọc và chép thì chắc hứng thú của các em đều chìm vào giấc ngủ từ  khi nào rồi. Vấn đề này đòi hỏi sự cải thiện rất nhiều từ đội ngũ giáo viên.         Vậy làm thế nào để  khắc phục tình trạng trên? Từ  việc đọc, tìm hiểu và nghiên   cứu các thông tin trên các trang web, sách tham khảo, kinh nghiệm của đồng nghiệp và  bài học từ  chính quá trình giảng dạy của mình,  tôi đã  mạnh dạn chia sẻ  một số  phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi” nhằm tạo hứng thú cho  các em như sau: 7.4.2. Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi: 7.4.2.1. Các hoạt động dạy học phải phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối   tượng học sinh và cụ thể là phải phù hợp với từng học sinh         Trong mỗi lớp học đều có đầy đủ  trình độ  học sinh. Những học sinh khá, giỏi  đương nhiên sẽ tiếp thu bài nhanh hơn những học sinh yếu kém. Vì vậy, nếu các trò  chơi vận động dạy học chỉ  hướng đến học sinh khá, giỏi thì các em còn lại sẽ  ngơ  ngác, không theo kịp; ngược lại nếu chỉ hướng đến học sinh yếu kém thì các học sinh  khá, giỏi sẽ cảm thấy nhàm chán. Do đó, khi đưa ra các hoạt động trên lớp, giáo viên  cần nói rõ nội dung, đưa ra các yêu cầu không quá khó đến mức làm nản lòng học sinh  nhưng vẫn có thách thức  ở  mức độ  nào đó để  học sinh cố  gắng giải quyết và cảm   thấy hứng thú hơn khi hoàn thành tốt các yêu cầu đặt ra. Qua từng tiết học như thế sẽ  giúp học sinh có lòng tự  tin học tập rồi dần dần sẽ phát huy được tính tích cực học  tập đồng đều ở tất cả học sinh. 7.4.2.2. Sử dụng có hiệu quả dụng cụ trực quan         Để kích thích tinh thần chú ý của học sinh không thể thiếu các dụng cụ trực quan   vì các phương tiện trực quan giúp học sinh hiểu sâu hơn về từ vựng, mẫu câu, cách sử  dụng từ, ... . thông qua các vật thật, tranh  ảnh, biểu đồ, ... sẽ  giúp các em nhận thức   tốt và ghi nhớ nhanh hơn, lâu bền hơn.
  11. 7.4.2.3. Sử dụng trò chơi ngôn ngữ         Nhiều tài liệu nghiên cứu về phương pháp giảng dạy Tiếng Anh tiểu học đã cho   rằng trò chơi không chỉ là hoạt động để  lấp khoảng trống về  thời gian trong các tiết  học mà nó còn có một giá trị giáo dục rất lớn. Trong thực tế, trẻ em thường hiếu động  nên các em thường có khuynh hướng dễ nhàm chán nếu nội dung bài học được trình   bày đơn điệu, tẻ  nhạt. Được vui chơi khi học là nguyện vọng rất chính đáng và tha  thiết của đa số học sinh. vì vậy việc sử dụng trò chơi trong các tiết học Tiếng Anh có   thể giúp ích cho việc học ngôn ngữ của học sinh. * Trò chơi giúp luyện tập kĩ năng giao tiếp         Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với kiến  thức kĩ năng có được trong quá trình học tập, gần với nội dung bài học và giúp học   sinh thực hành luyện tập ngôn ngữ trong các tình huống của trò chơi. Tham gia các trò  chơi sẽ khuyến khích hoạt động nhóm tạo cơ hội cho học sinh hợp tác và giao tiếp với   nhau bằng những mẫu câu được lặp lại giúp phát triển kĩ năng giao tiếp một cách lưu   loát. * Trò chơi giúp mở rộng và củng cố từ vựng, ngữ pháp         Nhằm tránh việc cung cấp từ  mới cho học sinh một cách dập khuôn máy móc,  không sinh động, thông qua các trò chơi chúng ta có thể  lồng ghép từ  mới vào các trò   chơi. Từ đó giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn các từ mà học sinh đã học.         Trong giảng dạy tiếng Anh cho trẻ em, sử dụng game là một biện pháp hiệu quả  và hữu ích nhằm tạo không khí học tập vui nhộn cũng như  lôi cuốn học sinh vào bài   học, góp phần cải thiện khả năng tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng ngoại ngữ  cho trẻ. Sau đây là 16 trò chơi đơn giản và phổ biến thường được áp dụng để dạy các   kỹ năng tiếng Anh khác nhau cho trẻ em. Dạy kĩ năng đọc 1.Mặt nạ (Word masking) Giáo viên sẽ  che một từ  trong bài đọc lại. Khi học sinh đọc mỗi câu trong bài, giáo   viên cần cố  gắng giúp các em tìm ra từ  bị  thiếu trong câu là gì. Giáo viên có thể  khuyến khích các em sử dụng các gợi ý như nghĩa, âm từ vựng tương ứng ngữ pháp. 2. (Bingo) Học sinh sẽ lựa chọn một danh sách cho các từ vựng có trong truyện hoặc bài đọc và   viết chúng vào một khung lưới gọi là bảng bingo. Giáo viên sẽ  đọc tên các từ  ngẫu  nhiên và học sinh nối các từ vừa được đọc trong bảng Bingo của mình. Ai hoàn thành  một đường thằng nối các từ trước sẽ hô Bingo. Em nào có nhiều đường thẳng Bingo  nhất sẽ là người chiến thắng.
  12. 3.Những con số may mắn( Lucky numbers)           E.g. Unit 13. What do you do in your free time? (tiếng Anh 5 tập 2)           ­ Phân chia lớp thành 2 đội (thi ghi điểm).           ­ Giáo viên kẻ lên bảng khoảng 12 ô vuông có đánh số.           ­ Giải thích trò chơi: Trong 12 con số viết lên bảng có 5 con số  may mắn (giáo  viên tự chọn). Các con số còn lại mỗi số tương ứng với 1 câu hỏi. Mỗi đội sẽ lần lượt  chọn những con số bất kỳ. Nếu chọn được số may mắn thì không phải trả lời câu hỏi   mà vẫn ghi được điểm (2 điểm cho ô). Nếu không phải là số may mắn thì các đội phải  trả  lời đúng câu hỏi thì mới ghi được điểm. Nếu đội chọn số  không trả  lời được thì   cơ hội ghi điểm dành cho đội đối phương.           Nếu cả 2 đội đều không có câu trả lời đúng, đáp án sẽ để lại và được tìm hiểu   trong bài học.           Các số thứ tự của ô chữ sẽ tương ứng với câu hỏi giáo viên đã chuẩn bị theo nội   dung bài học. E.g. 1) Lucky number. 2) What do you do in your free time? 3) Do you often go fishing in your free time? 4) Lucky number. 5) Who do you often go camping with? 6) Lucky number. 7) Where do you go in your free time? 8) What did you do in Nha Trang? 9) Lucky number. 10) Lucky number. 11) Do you often surf the Internet? 12) Do you like going skating? Sau khi trò chơi kết thúc, giáo viên tổng kết điểm. Đội nào ghi được nhiều điểm hơn  sẽ chiến thắng. (Nếu 2 đội bằng điểm nhau, đội thắng sẽ là đội chọn được nhiều số  may mắn hơn).
  13.  Lucky numbers là một trò chơi có rất nhều cách sử dụng , nó có thể thích hợp với hầu   hết các kiểu bài, các chủ  điểm, các trình độ  của học sinh. Giáo viên cũng chỉ  mất  khoảng 7 – 10 phút là có thể chuẩn bị tốt trò chơi này. 4. Hang man ­ Gạch những đường gạch ngắn lên bảng. mỗi gạch tượng trưng cho một mẫu tự  trong từ. Ví dụ: Nếu muốn cho học sinh đoán từ “ water” thì gạch 5 gạch lên bảng (_ _  _ _ _). Học sinh lần lượt đoán các mẫu tự có trong từ. Nếu mỗi lần học sinh đoán sai  giáo viên gạch một gạch (theo thứ tự trong hình vẽ). Nếu học sinh đoán sai 8 lần thì bị  thua. Giáo viên giải đáp từ gợi ý. Dạy từ vựng 5.Nhớ tranh (Remembering pictures) Chia học sinh thành 3 hoặc 4 nhóm. Giáo viên cầm một số bức tranh liên quan đến từ  vựng đã dạy ở bài trước trước và giơ lần lượt từng bức tranh lên. Các em có cơ hội để  nhìn vào mỗi bức tranh khoảng 4 hoặc 5 giây. Khi giáo viên giơ tranh xong, mỗi thành   viên của các nhóm sẽ  lần lượt chạy lên bục giảng và chỉ  viết tên của một bức tranh.   Nhóm nào có nhiều câu trả lời nhất và hoàn thành nhanh nhất sẽ là người chiến thắng 6.Chiếc ghế nóng (Hot Seat) Giáo viên chia học sinh của mình thành 3 hoặc 4 đội và chọn mỗi nhóm 1 thành viên   ngồi lên Ghế Nóng và quay mặt về phía lớp. Giáo viên viết một từ  lên bảng, và một  thành viên trong đội của học sinh đang ngồi trên Ghế Nóng phải diễn tả giúp đồng đội  của mình đoán được ra từ vựng trên mà không được nói, đánh vần hay viết tên từ  đó   ra. Trò chơi sẽ tiếp diễn cho đến khi thành viên trong các đội đều đã diễn tả từ vựng   cho đồng đội ngồi trên Ghế Nóng của mình. Trò chơi này cũng có thể áp dụng để dạy kĩ năng nói. 7. Network Giáo viên chia lớp học thành 3 hoặc 4 nhóm, cung cấp cho học sinh từ  chủ  đề  lên   bảng, cho học sinh 2 – 3 phút để thảo luận về các từ có liên quan trong nhóm, sau đó 1  đại diện của các nhóm lên viết bảng cùng một lúc trong khoảng thời gian 2 phút, nhóm  nào viết được nhiều từ đúng hơn sẽ giành chiến thắng.           E.g. Unit 12. What does your father do?. ( Tiếng Anh 4 tập 2) Khi kiểm tra phần từ vựng về nghề nghiệp, tôi sẽ cho học sinh chơi trò chơi Network.       Trò chơi này rất dễ chơi và có thể tổ chức ở rất nhiều bài học trong chương trình  tiếng Anh tiểu học như: Unit 8. School Things, Unit 11. My Family, Unit 18. Colours,  
  14. …   trong   chương   trình   Tiếng   Anh   lớp   3;Unit   3:   Days;   Unit   4:   Months;   Unit   8;   subjects ;Unit 11. Daily Activities, Unit 12. Jobs, Unit 13. Favourite Food and Drink, Unit  17: Clothes; Unit 19. Zoo Animals, ….. trong chương trình Tiếng Anh lớp 4. …. 8. Jumple words         Giáo viên cần chuẩn bị  các tấm bìa giấy hoặc các tấm thẻ  đã viết mỗi chữ  cái  của các từ (tùy theo trình độ học sinh và số lượng từ của bài để giáo viên có thể chọn   từ dễ hay khó, nhiều hay ít từ). Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm A và B, tùy theo số chữ cái của mỗi từ để  giáo viên   gọi số  học sinh của mỗi nhóm lên trước lớp ( ví dụ  từ  có 5 chữ  cái thì gọi 5 em học  sinh), giáo viên xáo trộn các chữ cái trong từ trước khi phát cho số học sinh được gọi  lên bảng, mỗi em một chữ  cái. Và trong khoảng thời gian nhất định (ví dụ: 30 giây)  những học sinh này phải đưa chữ  cái của mình ra phía trước và tự  sắp xếp trong đội  để  có được một từ  đúng hoàn chỉnh, đội nào sắp xếp đúng và nhanh nhất được giáo   viên cho một số điểm nhất định ( tùy sở thích của giáo viên, có thể là 20, 30, … điểm).   Sau khi chơi hết các từ  mà giáo viên đã chuẩn bị, giáo viên tổng kết điểm, đội nào   nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc.           E.g. Unit 18. What will the weather be like tomorrow?     ( Tiếng Anh 5­ tập 2) ­ Mục đích là ôn lại cho học sinh các từ mới về mùa: summer, winter, spring, autumn. ­ Giáo viên chuẩn bị sẵn 4 từ và viết mỗi chữ cái của 4 từ này lên một tấm thẻ. ­ Giáo viên xáo trộn các chữ cái trước khi phát cho số học sinh được gọi lên bảng, mỗi   em một chữ cái. + R E S M U M + N T W E R I + S N G I P R + N A U M U T ­ Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm. ­ Giáo viên gọi 4 lượt học sinh lên bảng, mỗi lượt có số học sinh của mỗi nhóm tương   ứng với số chữ cái của mỗi từ. ­ Trong khoảng thời gian 30 giây, những học sinh này phải đưa chữ  cái của mình ra   phía trước và tự  sắp xếp trong đội để  có được một từ  đúng hoàn chỉnh, đội nào sắp   xếp đúng và nhanh nhất được giáo viên cho 20 điểm. Sau khi chơi hết các từ mà giáo  viên đã chuẩn bị, giáo viên tổng kết điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc.
  15.           Trò chơi này có thể được thay thế với Jumple sentences để ôn lại cho học sinh  các cấu trúc câu mà các em đã được học. Trò chơi này có thể  được áp dụng trong các   bài học nhất là các bài ôn tập. Dạy ngữ pháp 9.Từ xáo trộn (Word Jumble Race) Giáo viên viết ra một số  câu, sau đó cắt chúng thành từng từ. Đặt mỗi câu đã bị  cắt  vào mũ, ly hoặc bất kỳ  vật gì có thể  chứa được và tách chúng riêng biệt. Chia lớp   thành các nhóm gồm 2, 3, hoặc 4 học sinh. Các đội bây sẽ  phải sắp xếp các từ  trong  câu của mình theo đúng thứ tự. Đội chiến thắng là đội đầu tiên hoàn thành các câu của   mình một cách chính xác. 10.Nhảy cóc (Jumping games) Trò chơi này cần một khoảng không gian rộng chặng hạn như sân trường. Học sinh sẽ  đứng thành một hàng. Giáo viên sẽ đọc một danh sách các câu hay từ liên quan đến  một cấu trúc ngữ pháp đã dạy trước đó. Học sinh quyết định câu hay từ giáo viên vừa  đọc đúng hay sai để nhảy lên phia trước hoặc nhảy ngược về phia sau. Em nào nhảy  sai sẽ bị loại ra khỏi hàng.  11. Chain game ­ chia lớp thành nhóm từ 8­10 em. Học sinh ngồi quay mặt với nhau. ­ Em đầu tiên trong các nhóm lặp lại câu của giáo viên. ­ Học sinh thứ 2 lặp lại câu của học sinh thứ 1 và thêm vào một ý khác ­ Học sinh thứ 3 lặp lại câu của học sinh thứ 1,2 và thêm vào một ý khác và cứ thế  tiếp tục cho đến học sinh cuối cùng trong nhóm.           E.g. Unit 2. I’m from Japan. (Tiếng Anh 4 tập 1).           GV: Hello. I'm from Vietnam.           HS1: Hello. I'm from Malaysia.           HS2: Hello. I'm from Indonesia.           ...................................................  12. Noughts and Crosses ­ Giải thích với học sinh rằng trò chơi này cũng giống như trò chơi “ cờ ca rô” ở Việt  Nam nhưng chỉ cần 3 “0” hoặc 3 “x” trên một hàng ngang, dọc, đường chéo là thắng.           ­ Kẻ 9 ô vuông trên bảng, mỗi ô có chứa một từ (hoặc một tranh vẽ).
  16.                 E.g. Unit 1. What’s your address? (Tiếng Anh 5 tập 1). 52 Ba trieu Street South Road the second floor of Hanoi  Tower Green Avenue Hoa Binh Lane 42 Hai Ba Trung Street Lieu Giai Street High Street Thanh Cong block of flat ­ Làm mẫu một câu với học sinh sử  dụng một từ bất kỳ trong các ô: I live in 52 Ba  trieu Street .           ­ Chia học sinh làm hai nhóm: một nhóm là nought (0) và một nhóm là crosses  (X).           ­ Các nhóm lần lượt chọn từ  trong ô và đặt câu. Nhóm nào đặt đúng sẽ  được   một 0 hay một X. Dạy kĩ năng nghe 13.Simon nói (Simon says) Giáo viên đứng trước lớp và đóng vai Simon. Giáo viên nói “Simon says” cùng với tên  của bất kỳ một hành động nào đó và diễn tả bằng cử chỉ cho dù cử chỉ của giáo viên   có thể  không đúng với tên hành động vừa nêu. Học sinh có nhiệm vụ  lắng nghe và   diễn tả  lại hành động được nêu tên, không nên bắt chước hành động của giáo viên   hoàn toàn. Em nào diễn tả sai sẽ là người thua cuộc. Giáo viên cũng có thể tiến hành  trò chơi Simon says. Học sinh chỉ thực hiện hành động khi khẩu lệnh của bạn có cụm   “Simon says…”. E.g. Unit 4. Did you go to the party? (Tiếng Anh 5 tập 1). “Simon says show me  a  dictionary?” hay “Simon says show me a comic book” và học sinh sẽ  làm đúng theo  những gì được yêu cầu. Tuy nhiên, nếu giáo viên chỉ  nói “show me a birthday card”  học sinh sẽ không thực hiện hành động. Nếu em nào thực hiện hành động không phải  do Simon nói, em đó sẽ bị loại và trở thành người phát hiện các em bị loại trong những  lần tiếp theo.
  17. 14.Truyền miệng (Word of Mouth) Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm đứng thành hàng và nói thầm với học sinh đứng đầu   tiên tên một từ vựng nhất định, học sinh đó sẽ phải nói thầm từ  trên cho bạn kế tiếp   và tiếp tục cho đến khi em học sinh cuối cùng trong hàng đọc to từ  vừa được truyền.  Nếu em học sinh trên có thể phát âm từ được thì thầm chính xác, cả đội sẽ giành được  1 điểm. Một biến thể khác của trò chơi này thay vì thì thầm thì các thành viên trong đội sẽ viết  ra giấy và giơ cho bạn kế tiếp xem. Dạy kĩ năng nói 15.Đối mặt (Facing game) Trò chơi này dựa trên một gameshow trên truyền hình. Học sinh đứng theo hình vòng  tròn. Giáo viên sẽ chọn một chủ đề nhất định và mỗi học sinh sẽ có vài giây để đọc to   một từ  hay cụm từ liên quan đến chủ  đề  đã chọn. Nếu em nào không thể  đưa ra câu  trả lời của mình, em đó sẽ bị loại và trò chơi sẽ tiếp tục. Người thắng cuộc sẽ là em  học sinh duy nhất còn lại. Trò chơi này cũng phù hợp để sử dụng trong giảng dạy từ  vựng 16.Những từ bí ẩn (Secret Words) Trong trò chơi này, giáo viên sẽ  chuẩn bị  sẵn một số  tấm thẻ, mỗi tấm đều ghi tên   một từ vựng nhất định. Học sinh được chia thành 2 nhóm và mỗi nhóm sẽ lần lượt đặt  câu hỏi cho giáo viên để  có được gợi ý liên quan đến từ  vựng trong từng thẻ. Nhóm   nào tìm ra từ bí ẩn trước sẽ giành 1 điểm. Trò chơi sẽ tiếp diễn cho đến khi tấm thẻ  cuối cùng được hoàn thành và nhóm giành số điểm cao nhất sẽ chiến thắng. Ngoài ra còn có rất nhiều các trò chơi ngôn ngữ khác mà giáo viên có thể sử dụng linh   hoạt trong các tiết dạy của mình.         Tóm lại qua quá trình thực tế  giảng dạy  ở  các khối lớp, khi áp dụng các hoạt  động tương tác như trò chơi, bài hát, bài chant và kể chuyện vào các tiết học tôi thấy   có hiệu quả  rõ rệt, học sinh nắm được kiến thức bài học và chất lượng học tập của   học sinh dần được nâng cao. 7.4.2.4. Sử dụng phương pháp TPR TPR là dạng viết tắt của Total Physical Response (Phản  ứng cơ  học), m ột ph ương   pháp giảng dạy Tiếng Anh mới của tiến sỹ  James J. Asher. Ph ương pháp này được  phát triển dựa trên cách thức trẻ em học tiếng mẹ đẻ. Bố mẹ thường có những “cuộc trò chuyện bằng cử chỉ” với con cái. Họ hướng dẫn và   đứa trẻ  sẽ  làm theo. Ví dụ: bố/ mẹ  nói “Look at mummy” ( hãy nhìn vào mẹ) hoặc  “Give me the ball” (Đưa cho bố/ mẹ quả bóng) và đứa trẻ làm theo. Những cuộc “trò 
  18. chuyện” đặc biệt này sẽ  diễn ra trong nhiều tháng trước khi đứa trẻ  bắt đầu nói   những tiếng đầu tiên. Tuy chưa biết nói nhưng trong thời gian đó, đứa bé đã có thể ghi  nhớ cách bố mẹ sử dụng ngôn ngữ, âm thanh cũng như cấu trúc. Cuối cùng khi chúng  có thể giải mã được tất cả những tín hiệu ngôn ngữ xung quanh, chúng sẽ tự mình nói   ra những câu đó. Phương pháp dạy Tiếng Anh  TPR áp dụng nguyên lý tương tự trong  các lớp học Tiếng Anh. * Cách áp dụng            Trong lớp học, giáo viên đóng vai trò của bố  mẹ. Giáo viên sẽ  bắt đầu bằng   việc nói một từ  (E.g. jump) hoặc một cụm ( E.g. look at the board) và minh hoạ  lời  nói bằng hành động tương  ứng. Sau đó, giáo viên nhắc lại mệnh lệnh để  học sinh  thực hiện hành động tương ứng. Sau khi lặp đi lặp lại việc này để học sinh làm quen  và ghi nhớ, giáo viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại cụm đó khi thực hiện động tác.  Khi học sinh đã nắm vững từ  hoặc câu đã học, hãy bảo chúng tự  đưa ra yêu cầu để  các bạn khác thực hiện. Hoạt động này sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu học sinh đứng   thành vòng tròn xung quanh giáo viên và di chuyển khi thực hiện động tác mà mệnh   lệnh yêu cầu. Khi áp dụng phương pháp TPR, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện hành động  trước, sau đó cho học sinh luyện tập phát âm khẩu lệnh (đồng thanh và cá nhân) để  chúng có cơ  hội làm quen với âm thanh. Khi đã thành thục, giáo viên có thể  yêu cầu   học sinh tự ra lệnh để các bạn khác thực hiện hành động. Giáo viên cũng có thể  tổ  chức trò chơi theo phương pháp TPR. Học sinh đứng thành   vòng tròn xung quanh giáo viên, giáo viên nói khẩu lệnh và người thực hiện việc này   cuối cùng sẽ bị loại. Học sinh bị loại sẽ đứng sau lưng giáo viên và quan sát xem ai là  người thực hiện hành động cuối cùng khi khẩu lệnh tiếp theo được đưa ra. Học sinh   còn lại cuối cùng sẽ là người thắng cuộc. Giáo viên cũng có thể tiến hành trò chơi Simon says. Học sinh chỉ thực hiện hành động  khi khẩu lệnh của bạn có cụm “Simon says…”. E.g. Unit 4. Dd ? (Tiếng Anh 1). “Simon says: show me  a dog?” hay “Simon says: show  me a drum” và học sinh sẽ làm đúng theo những gì được yêu cầu. Tuy nhiên, nếu giáo  viên chỉ nói “show me: a cat” học sinh sẽ không thực hiện hành động. Nếu em nào thực  hiện hành động không phải do Simon nói, em đó sẽ  bị  loại và trở  thành người phát  hiện các em bị loại trong những lần tiếp theo. * Thời điểm áp dụng: Có thể dùng phương pháp TPR để dạy: ­ Từ vựng liên quan đến hành động (smile, chop, headache, wriggle …) ­ Thì quá khứ,hiện tại, tương lai, tiếp diễn của động từ  (Every morning I clean my  teeth, I make my bed, I eat breakfast …)
  19. ­ Ngôn ngữ dùng trong lớp học (Open your books …) ­ Câu mệnh lệnh/ Hướng dẫn (Stand up, Close your eyes …) ­ Kể chuyện Việc áp dụng vào thời điểm nào là thích hợp hoàn toàn phụ thuộc vào trí tưởng tượng  của giáo viên. * Ưu điểm ­ Làm cho giờ học trở nên thú vị và sôi nổi. Nó thật sự có tác dụng khuấy động không   khí lớp học theo chiều hướng tích cực. ­ Dễ nhớ đối với học sinh vì chúng có cơ hội thực hành những thứ vừa được học. ­ Phát huy thế mạnh của những học sinh ưa hoạt động trong lớp ­ Có thể áp dụng phương pháp này trong cả lớp lớn và lớp nhỏ. Việc lớp có bao nhiêu  học sinh không thành vấn đề vì khi bạn sẵn sàng thực hiện hành động thì học sinh sẽ  sẵn sàng làm theo. ­ Phương pháp này rất hiệu quả đối với các lớp mà trình độ học sinh không đồng đều.   Hoạt động cơ học giúp chuyển tải ý nghĩa của ngữ liệu mới hiệu quả hơn. Do đó, họ  sinh có thể hiểu và sử dụng những gì đã học trong thực tế. ­ Không mất nhiều thời gian để chuẩn bị miễn là giáo viên hiểu rõ mình muốn cho học   sinh luyện tập gì. ­ Phương pháp này đặc biệt hiệu quả đối với trẻ em và thiếu niên. ­ TPR liên quan tới quá trình học tập của cả bán cầu não trái và phải.   * Nhược điểm ­ Những học sinh chưa quen với phương pháp này có thể cảm thấy bối rối. Điều này  có thể  đúng với lần đầu tiên nhưng nếu giáo viên sẵn sàng thực hiện hành động thì   học sinh cũng sẽ không ngại ngần làm theo. ­ Không thể dạy mọi thứ bằng phương pháp này và nếu lạm dụng nó sẽ  trở  nên kém  hiệu quả. Hãy kết hợp TPR với những phương pháp để  đem lại hiệu quả  giảng dạy   cao.   7.5.Giải pháp khi thực hiện đề tài.           ­ Tiếng Anh là một ngôn ngữ quốc tế , ngôn ngữ  được dùng để  giao tiếp trong   sinh hoạt hàng ngày cũng như trong công việc. Tuy nhiên để tất cả các em nhận thức  
  20. được tầm quan trọng của nó trong cuộc sống không phải là dễ  .Qua quá trình giảng   dạy bộ môn ở toàn cấp .Tôi đúc rút được một số giải pháp. Không nên quá lạm dụng các phương pháp này, trong mỗi tiết học chỉ nên sử  dụng 1­2 hoạt động trong khoảng thời gian phù hợp. Tránh sự ôm đồm quá  nhiều hoạt động một lúc sẽ làm cho người học thấy mệt mỏi và giảm hứng thú  với môn học. Phải biết lựa chọn và áp dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung  từng bài học cụ thể, tránh hiện tượng dạy và học lệch chương trình. Thiết kế các hoạt động phải phù hợp với trình độ của học sinh, tránh tình trạng  các hoạt động quá khó hoặc quá dễ sẽ không kích thích được năng lực tư duy và  khả năng sáng tạo của học sinh.           ­ Sự  liên tục cần phải kiểm tra sự hiểu và nắm bắt kiến thức của các em trên   lớp thông qua các trò chơi, tạo sự  hứng thú học tập trước khi vào bài. Khảo sát chất  lượng học sinh nhiều lần để kết luận, rút kinh nghiệm khi xây dựng đề tài.           ­ Viết sáng kiến kinh nghiệm qua sự bổ sung, góp ý kiến của đồng nghiệp , qua   thực tế giảng dạy  nhằm thực hiện tốt đề tài này.           Khi thực hiện các giải pháp trên tôi chắc chắn rằng sau một thời gian vận dụng   sẽ giúp học sinh yêu thích bộ môn tiếng Anh hơn. Từ đó giúp các em tích cực tham gia   học tập, nghiên cứu, tự tin hơn trong thực hành và giao tiếp, góp phần nâng cao chất   lượng của học sinh và hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Như vậy, việc vận dụng các   phương pháp để tạo sự hứng thú học tập của học sinh ở trên lớp, không chỉ tạo không   khí vui vẻ, phấn khởi học tập của học sinh, mà là một thủ  thuật khoa học, sáng tạo  của người thầy. Tôi tin rằng nếu tiếp tục thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này một  cách nghiêm túc, xuyên suốt quá trình giảng dạy và có thể  áp dụng rộng rãi  ở  các   trường Tiểu học thì chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh trong trường Tiểu học sẽ  có được những kết quả khả quan hơn. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 9. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến. ­ Đội ngũ giáo viên Tiếng Anh cần phải đạt chuẩn và trên chuẩn để  tham gia dạy  chương trình 4 tiết theo chương trình sách giáo khoa mới.           ­ Học  sinh phải có tính chuyên cần, luôn tham gia học một cách tích cực và có  hứng thú tìm hiểu, khám phá, chịu khó học hỏi.           ­ Chương trình dạy học không quá nặng về  lý thuyết mà cần phải mang tính   thực tế trong chương trình giảng dạy. ­ Phòng học phải đạt chuẩn theo bộ môn Tiếng Anh có các phương tiện trang thiết bị  hỗ trợ dạy học đầy đủ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2