intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Chi bộ trường tiểu học Hợp Thịnh, Đảng bộ xã Hợp Thịnh trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:24

46
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là giải quyết được tất cả các vấn đề trong công tác xây dựng Đảng một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực, mà chỉ nghiên cứu một số nội dung về lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo của chi bộ Đảng nói chung và của chi bộ trường tiểu học Hợp Thịnh, Đảng bộ xã Hợp Thịnh trong thời gian qua. Từ đó tìm ra những ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân của những tồn tại, đồng thời đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Chi bộ trường tiểu học Hợp Thịnh, Đảng bộ xã Hợp Thịnh trong giai đoạn hiện nay

  1. PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG TRƯỜNG TIỂU HỌC HỢP THỊNH BÁO CÁO KẾT QUẢ  NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN  Tên sáng kiến:  Nâng cao năng lực lanh đao va s ̃ ̣ ̀ ưc chiên đâu cua Chi bô ́ ́ ́ ̉ ̣  trường tiểu học Hợp Thịnh, Đảng bộ xã Hợp Thịnh trong giai đoan hiên nay ̣ ̣ Tác giả sáng kiến: Trần Thị Nga Lan
  2. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu  Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ  tịch Hồ  Chí Minh sáng lập và rèn  luyện, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân  tộc Việt Nam. Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành,   Đảng đã lãnh đạo, tổ  chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn  dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng.  Đảng ta là một khối thống nhất về ý chí và hành động, được tổ  chức   chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở, trong đó, tổ chức cơ sở Đảng là cấp cuối  cùng trong hệ  thống tổ  chức của Đảng và là nền tảng của Đảng. Cơ  sở  lý  luận và thực tiễn chứng minh rằng  ở bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, năng  lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cũng được thể  hiện cơ bản ở năng   lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Mọi đường lối, chủ  trương, chính sách của Đảng chỉ  trở  thành hiện thực sinh động trong cuộc  sống khi các tổ chức cơ sở Đảng phát huy được vai trò, vị trí của mình là nền  tảng, là tế bào cơ bản của Đảng, gắn với chức năng là hạt nhân chính trị  để  tổ  chức lãnh đạo nhân dân, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng  ở  cơ sở. Hiện nay trong điều kiện Đảng cầm quyền, nền kinh tế  nước ta đang  vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh  tế  quốc tế, đã và đang có nhiều vấn đề  rất mới mẻ  tác động lớn đến nhận  thức, tư tưởng, quan điểm, phong cách làm việc, lối sống của đội ngũ cán bộ,  đảng viên. Làm cho một bộ  phận không nhỏ  cán bộ  đảng viên phai nhạt lý 
  3. tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, tình trạng suy thoái về  tư  tưởng chính trị,   đạo đức lối sống, tình trạng quan liêu, vi phạm nguyên tắc tổ chức đảng, một  số  nơi mất đoàn kết nghiêm trọng làm giảm lòng tin của nhân dân đối với  Đảng. Xuât phat t ́ ̀ ́ ́ ̣ ựa chọn đề tài "Nâng cao năng   ́ ư ly do nêu trên, tôi quyêt đinh l lực lanh đao va s ̃ ̣ ̀ ưc chiên đâu cua Chi bô tr ́ ́ ́ ̉ ̣ ường tiểu học Hợp Thịnh, Đảng   bộ xã Hợp Thịnh trong giai đoan hiên nay"  ̣ ̣ để nghiên cứu với mong muốn góp  phần xây dựng chi bộ ngày càng trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu thực  tiễn hiện nay. Tôi không tham vọng giải quyết được tất cả các vấn đề trong công tác  xây dựng Đảng một cách toàn diện trên mọi lĩnh vực, mà chỉ nghiên cứu một  số  nội dung về  lý luận và thực tiễn trong hoạt động lãnh đạo của chi bộ  Đảng nói chung và của chi bộ  trường tiểu học Hợp Thịnh, Đang bô xã H ̉ ̣ ợ p  Thịnh trong thời gian qua. Từ đó tìm ra những  ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân  của những tồn tại, đồng thời đề  xuất một số  giải pháp chủ  yếu nhằm nâng  cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ trong thời gian tới. 2. Tên sáng kiến "Nâng cao năng lực lanh đao va s ̃ ̣ ̀ ưc chiên đâu cua Chi bô tr ́ ́ ́ ̉ ̣ ường tiểu   học Hợp Thịnh, Đảng bộ xã Hợp Thịnh trong giai đoan hiên nay" ̣ ̣ 3. Tác giả sáng kiến ­ Họ và tên: Trần Thị Nga Lan ­ Địa chỉ tác giả sáng kiên: Trường Tiểu học Hợp Thịnh – Tam Dương  – Vĩnh Phúc. ­ Số điện thoại: 0971485111. E_mail: tranngalan@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến  Trần Thị Nga Lan ­ Bí thư chi bộ ­ Hiệu trưởng trường Tiểu học Hợp  Thịnh ­ Tam Dương ­ vĩnh Phúc.
  4. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Chi bộ Đảng các trường học. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử Ngày 01 tháng 01 năm 2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Cơ sở lý luận Sáng kiến được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ nghĩa  Mác ­Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về Đảng về công tác xây   dựng Đảng. 7.2. Vị trí, vai trò của chi bộ đảng  7.2.1. Vị trí, vai trò của chi bộ Chi bộ là tổ chức tế bào cơ bản của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo chính trị,  là đơn vị chiến đấu ở cơ sở, là cầu nối trực tiếp giữa Đảng với quần chúng, là  trường học giáo dục, rèn luyện, kết nạp đảng viên, là nơi quản lý, phân công,  kiểm tra công tác và sàng lọc đảng viên. Chi bộ  là đội tiên phong cách mạng,  thực hiện chức năng lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động và trong các   khu dân cư. Mọi hoạt động của chi bộ  nhằm đảm bảo cho đường lối, chính  sách của Đảng được quán triệt và thực hiện một cách có hiệu quả   ở  cơ  sở;   đồng thời góp phần vào việc bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính  sách của Đảng thông qua việc tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn từ phong   trào cách mạng của quần chúng từ cơ sở, nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc   đổi mới vì chủ nghĩa xã hội. Nói về vị trí, vai trò của chi bộ  với tính cách là tổ  chức nền móng của   Đảng, C.Mác và Ph.Ăngghen ­ những người sáng lập chủ  nghĩa cộng sản và  chính đảng độc lập của giai cấp vô sản, cho rằng: Các chi bộ  của Liên đoàn  những người cộng sản được thành lập dưới hình thức bí mật của các hiệp  hội công nhân, nếu các chi bộ này bị buông lỏng về mặt tổ chức sẽ dẫn đến 
  5. cắt đứt liên lạc với Ban Chấp hành Trung ương, làm cho Đảng mất chỗ dựa  vững mạnh và duy nhất. Vì thế  các ông nhấn mạnh: phải ra sức củng cố tổ  chức chi bộ, biến mỗi chi bộ thành một trung tâm hạt nhân của các hiệp hội  công nhân trong đó lập trường và lợi ích của của giai cấp công nhân được đưa  ra thảo luận phải độc lập với những ảnh hưởng của giai cấp tư sản. Trong điều kiện Liên đoàn chuyển từ  bí mật sang công khai, C.Mác và  Ph.Ăngghen cũng khẳng định, phải tổ  chức lại Liên đoàn mà khâu đặc biệt  quan trọng là củng cố chi bộ, biến mỗi chi bộ thành trung tâm và hạt nhân của  các hiệp hội công nhân, là mắt xích quan trọng, là chỗ  dựa vững chắc của   Đảng. Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về xây  dựng Đảng Cộng sản, V.I.Lênin đặc biệt quan tâm xây dựng tổ chức cơ sở của   Đảng. Người chỉ  ra rằng, việc thành lập các tổ  chức cách mạng trong các xí   nghiệp, nhà máy là nhiệm vụ đầu tiên, cấp bách của Đảng Công nhân dân chủ  ­xã hội Nga, mỗi xí nghiệp, nhà máy phải là thành trì của Đảng; là nơi rèn luyện,  phân công công tác, quản lý, sàng lọc đảng viên để họ luôn luôn là chiến sĩ tiên  phong của giai cấp. Chi bộ còn là nền tảng, là hạt nhân chính trị của các tập thể  lao động. Khi Đảng cầm quyền, tiến hành xây dựng CNXH, các tổ  chức đảng  tăng về số lượng, phong phú về nhiệm vụ, nội dung, phương thức hoạt động,  V.I. Lênin chỉ  ra rằng: “Những chi bộ   ấy liên hệ  chặt chẽ  với nhau và với   Trung ương Đảng, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, công tác tổ chức,   phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả  quần chúng  lao động... Những chi bộ  ấy phải thông qua công tác muôn hình để rèn luyện  đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”.  Vận dụng sáng tạo chủ  nghĩa Mác ­ Lênin vào thực tiễn cách mạng   Việt Nam, xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ  Chí Minh cũng hết sức   coi trọng vị  trí, vai trò của chi bộ. Người viết: “Chi bộ  là nền móng của  Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”. Chi bộ là gốc rễ của Đảng. Ngay từ khi 
  6. thành lập Đảng, Điều lệ Đảng đã qui định: “Ở mỗi xưởng máy, hầm mỏ, xí  nghiệp, cơ quan, trường học, đường phố, đại đội ­ có 3 đảng viên trở  lên thì   lập một chi bộ. Chi bộ  là đồn lũy của Đảng chiến đấu trong quần chúng”.  “Mỗi cơ  sở  là hạt nhân lãnh đạo của quần chúng của cơ  sở, đoàn kết chặt   chẽ, liên hệ  mật thiết với quần chúng, phát huy trí tuệ  và lực lượng vĩ đại  của quần chúng”. “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng dưới sự lãnh đạo  của Đảng, tác dụng của chi bộ là cực kỳ  quan trọng vì nó là sợi dây chuyền  để liên hệ Đảng với quần chúng”. Như vậy, cả trong quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và tư  tưởng Hồ  Chí Minh đều khẳng định vị  trí, vai trò cực kỳ  quan trọng của chi  bộ, là nền tảng của Đảng, hạt nhân chiến đấu của Đảng, nơi tuyên truyền,  cổ  động quần chúng, giáo dục thức tỉnh quần chúng và tổ  chức cho quần   chúng đấu tranh cách mạng; chi bộ  là tế  bào của Đảng; là cầu nối, sợi dây  chuyền liên hệ  giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Chi bộ  mạnh thì Đảng  mạnh, chi bộ yếu thì Đảng yếu. Vì vậy, chăm lo xây dựng chi bộ đảng trong   sạch, vững mạnh là nhiệm vụ  cực kỳ  quan trọng của công tác xây dựng  Đảng. Ngay từ  khi mới thành lập, Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc xây  dựng chi bộ, coi các chi bộ  là cấp tổ  chức nền tảng, là những đơn vị  chiến   đấu cơ bản, những tế bào của Đảng; chất lượng của các chi bộ là nhân tố cơ  bản tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng.  Thực tiễn cách  mạng Việt  Nam cho thấy, những thành tựu  đã  đạt  được,  những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn   từ nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở, mà hạt nhân là tổ chức Đảng.  Với tính cách là nền tảng của Đảng, Chi bộ  có vị  trí, vai trò rất quan   trọng đối với sự  vững mạnh của Đảng. Đây là cấp tổ  chức cuối cùng trong  hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là cấp tổ chức sâu rộng nhất, gắn với  các đơn vị cơ sở trên toàn lãnh thổ và các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã  
  7. hội, bảo đảm sự  lãnh đạo của Đảng tới từng cơ  sở, từng đảng viên và từng  người dân.  Đây là nơi trực tiếp thực hiện chủ  trương, đường lối, nghị  quyết của   Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp phần quan trọng vào việc  hình thành, phát triển chủ trương, đường lối của Đảng thông qua những kinh   nghiệm thực tiễn phong phú của đội ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân.  Đây cũng là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động quan trọng trong công tác   xây dựng Đảng, như  kết nạp, quản lý, phân công nhiệm vụ, kiểm tra, đánh   giá đảng viên; nơi đảng viên thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức  và sinh hoạt; nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Chi bộ còn là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân, là mắt khâu  trọng yếu để  duy trì mối liên hệ của Đảng với nhân dân; là tổ  chức gần dân  nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần   chúng nhân dân để phản ánh với Đảng. Dân tin Đảng, theo Đảng hay không là   nhờ   ở  vai trò rất quan trọng, trực tiếp của Chi bộ, của cán bộ  đảng viên tại  cơ sở. Do Chi bộ có vai trò quan trọng như vậy, nên ở mọi thời kỳ cách mạng,   Chủ  tịch Hồ  Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi các Chi bộ  là   những đơn vị chiến đấu cơ bản, những tế bào tạo nên sức sống, sự lớn mạnh  của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chi bộ là nền móng của Đảng, chi  bộ  tốt thì mọi việc sẽ tốt và Đảng mạnh là do chi bộ  mạnh, chi bộ  mạnh là   do từng đảng viên mạnh. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng của chi bộ  là   nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. 7.2.2. Vị trí, vai trò của chi bộ trong các đơn vị sự nghiệp Tổ chức Đảng trong cac đ ́ ơn vi s ̣ ự nghiêp là h ̣ ạt nhân chính trị, lãnh đạo   thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;  lãnh đạo thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác của đơn vị;  hoàn thành nghĩa vụ  đối với Nhà nước; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần 
  8. của cán bộ, đảng viên và quần chúng; xây dựng đảng bộ, chi bộ và đơn vị vững   mạnh. Vai trò của tổ chức Đảng trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị  của đơn vị được thể hiện cụ thể các nội dung sau: Thứ  nhất, lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả  các chủ  trương,  nhiệm vụ, công tác chuyên môn của đơn vị theo đúng đường lối, chính sách của   Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành nghĩa vụ  của đơn vị  đối với Nhà  nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và quần  chúng. Thứ  hai, lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng giám sát mọi hoạt  động của đơn vị  theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của  Nhà nước; đề  cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ  động sáng tạo,  không ngừng cải tiến lề lối, phương pháp làm việc, nâng cao hiệu quả  công   tác, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Thứ ba, lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở đơn  vị, phát huy quyền làm chủ  của cán bộ, đảng viên và quần chúng, đấu tranh  chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, trù dập,  ức hiếp quần chúng và các  hiện tượng tiêu cực khác, nhất là những tiêu cực trong tuyển sinh, cấp văn  bằng, chứng chỉ, nghiên cứu khoa học và trong các hoạt động văn hoá, thể  thao... Thứ  tư, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân, giữ  vững an   ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong đơn vị. Đoàn kết nội bộ, đề cao tinh  thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống âm mưu "diễn biến hoà bình" của các   thế lực thù địch; giữ gìn bí mật quốc gia, bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ tài sản   của Nhà nước và của đơn vị. 7.3 Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng 7.3.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức   Đảng
  9. Năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng là khả năng quán triệt đường lối,  chủ  trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; khả  năng vận  dụng một cách sáng tạo và linh hoạt các chủ trương, đường lối, chính sách đó  vào hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của đơn vị, cơ quan mình, để  đề  ra các chủ  trương, phương hướng và giải pháp thực hiện đúng, hiệu quả; có biện pháp  tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ ở đơn vị; là khả năng tập hợp, động viên,   kiểm tra người lao động, quần chúng nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính  trị, kinh tế ­ xã hội ở cơ sở đạt hiệu quả cao; khả năng chấn chỉnh và cải tiến  sinh hoạt đảng, thực hiện có nền nếp việc quản lý đảng viên và công tác phát   triển đảng tại cơ sở. Năng lực lãnh đạo của tổ  chức đảng phụ  thuộc vào khả  năng tuyên  truyền, vận động, thuyết phục, tập hợp quần chúng của từng cán bộ, đảng  viên trong tổ  chức đảng, trong đó, tiêu biểu nhất là thể  hiện  ở  năng lực lãnh  đạo của cấp  ủy. Năng lực lãnh đạo của cấp  ủy càng cao thì việc đề  ra chủ  trương, kế  hoạch và chương trình hành động của đơn vị  càng bảo đảm kịp  thời, đúng đắn, sáng tạo, có hiệu quả. Bí thư cấp ủy phải là người có đủ phẩm  chất, năng lực, nhất là năng lực trong chỉ  đạo, điều hành thực tiễn; có kinh   nghiệm về  quản lý, tổ  chức sản xuất; là người cán bộ  gương mẫu về  mọi   mặt, có khả năng tập hợp, quy tụ quần chúng, biết khơi dậy trí tuệ của cán bộ,  đảng viên, phối hợp chặt chẽ  các hoạt động của cơ  quan, các đoàn thể  nhân  dân; triển khai tổ chức sản xuất kinh doanh, chương trình công tác của đơn vị  đi đúng hướng và đạt hiệu quả cao. Như  vậy, năng lực lãnh đạo của tổ  chức Đảng là năng lực hoạch định   đường lối, chính sách; năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện; năng lực nghiên cứu   lý luận, tổng kết thực tiễn, tạo sự  thống nhất nhận thức và hành động trong   Đảng; năng lực lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tăng cường mối   quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Để  lãnh đạo công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi, đồng thời với việc   nâng cao năng lực lãnh đạo Đảng ta phải không ngừng nâng cao sức chiến 
  10. đấu để ngang tầm với nhiệm vụ chính trị. Đó là yêu cầu cần thiết và nghiêm  ngặt, nhất trong điều kiện tình hình thế  giới và trong nước có những biến  động phức tạp. Thế giới ngày nay có những diễn biến phức tạp và chứa đựng những yếu  tố bất lợi, khó lường. Các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu "Diễn biến   hoà bình" âm mưu chuyển hoá chế độ chính trị, xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa  ở nước ta. Sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô (cũ) và Đông Âu trước đây đã giúp   cho chúng ta rút ra được những bài học sâu sắc: Sự thành công hay thất bại của   cách mạng không chỉ do năng lực lãnh đạo của Đảng quyết định mà sức chiến  đấu của Đảng cũng là vấn đề hết sức quan trọng. Sức chiến đấu của tổ  chức đảng là khả  năng vượt mọi khó khăn, gian  khổ  để  giành thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cơ  quan, đơn vị  hoạt động  đúng định hướng, đạt hiệu quả  cao. Sức chiến đấu của tổ  chức cơ  sở  đảng  được thể hiện tập trung ở chất lượng chính trị của tổ chức: biểu hiện cụ thể  ở phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và tính tiên phong, gương mẫu của  đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị; ở sự lãnh đạo của tổ chức đảng   đối với   việc thực hiện các nhiệm vụ  chính trị, kinh tế  ­ xã hội đúng chủ  trương, định hướng của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua các luận điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lênin, của Bác Hồ và Đảng ta,  qua kinh nghiệm về sự thành công và chưa thành công của cách mạng thế giới  và Nước ta, chúng ta có thể nhận thức rõ hơn về sức chiến đấu của Đảng. Đó  là sự đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động dựa trên  cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự gắn bó  mật thiết với nhân dân lao động. Để đảm bảo cho khối đoàn kết thống nhất ý  trí ấy, Đảng ta phải lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc chỉ đạo, xây dựng, tổ  chức và hoạt động của mình phải lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát   triển của Đảng. Đảng phải là người lãnh đạo, người đầy tớ  trung thành của  nhân dân lao động. Sức chiến đấu của Đảng là một trong những yếu tố hết sức 
  11. quan trọng không thể thiếu để đảm bảo cho Đảng lãnh đạo cách mạng đi đến   thắng lợi. Khái quát lại, có thể  hiểu sức chiến đấu của Đảng là  từng cán bộ,   đảng viên, từng tổ chức và cấp ủy đảng, nói chung là toàn Đảng phải có ý chí   phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên   rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”; kiên   quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay   trong bản thân mỗi đảng viên,  ở  trong tổ  chức Đảng, cơ  quan nơi mình sinh   hoạt, công tác, ở trong Đảng và trong xã hội, dũng cảm đấu tranh chống các   tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái. Như vậy, sức chiến đấu của tổ chức Đảng là một trong những yếu tố  hết sức quan trọng không thể thiếu trong bản thân tổ  chức Đảng. Sức chiến   đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng là những thành tố quan trọng để đảm bảo   cho Đảng lãnh đạo cách mạng đi đến thắng lợi. 7.3.2. Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức  Đảng Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai trong nhiều yếu tố  tạo nên  sự  thành công trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Nếu thiếu một trong hai   yếu tố  đó Đảng không giữ  được vai trò lãnh đạo cách mạng và Đảng cũng   không thể tồn tại được. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu có mối liên kết hữu cơ chặt chẽ, thâm  nhập vào nhau, tác động thúc đẩy qua lại lẫn nhau làm tiền đề để tồn tại và phát  triển cho nhau. Năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên bao nhiêu thì sức   chiến đấu của Đảng càng được củng cố tăng cường bấy nhiêu. Và ngược lại sức  chiến đấu càng được củng cố nâng cao bao nhiêu thì năng lực lãnh đạo của Đảng  càng được củng cố nâng lên bấy nhiêu. Khi năng lực lãnh đạo của Đảng được nâng lên, có nghĩa là Đảng có  nhận thức lý luận sâu rộng, có tư  duy khoa học, nắm được quy luật vận  
  12. động, đủ điều kiện vận dụng tri thức và tổ chức thực tiễn đưa ra chủ trương   chính sách đúng đắn phù hợp với nguyện vọng, lợi ích chính đáng của quần  chúng nhân dân, cổ vũ được phong trào cách mạng. Và khi đó, khối đoàn kết  thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết dân tộc được tăng cường, sức chiến đấu   của Đảng được củng cố nhân lên. Đồng thời khi khối đoàn kết được mở rộng  và thống nhất thì lại tạo điều kiện cho phát triển năng lực lãnh đạo, thu hút  và khai thác được tiềm năng của mỗi người tự  giác tham gia vào việc hoàn   thiện đường lối của Đảng. Bởi vậy, khi nói đến nâng cao năng lực lãnh đạo thì không thể tách rời   việc nâng cao sức chiến đấu. Ngược lại khi nói đến nâng cao sức chiến đấu  thì không thể  không nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Đó là hai mặt   thống nhất của một vấn đề, làm tiền đề cho nhau phát triển.  7.4. Tính tất yếu và nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức   chiến đấu của tổ chức Đảng trong giai đoạn hiện nay 7.4.1. Tính tất yếu phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến  đấu của tổ chức Đảng trong giai đoạn hiện nay Thứ  nhất, bối cảnh lịch sử  mới đặt ra yêu cầu nâng cao năng lực lãnh  đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng Xuất phát từ tình hình chính trị phức tạp của thế giới và sự  chống phá  của các thế lực thù địch đối với Đảng ta, đòi hỏi Đảng ta nói chung và các tổ  chức cơ sở đảng nói riêng phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt   để nhất. Vì vậy, đây là cả một sự  nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu   dài. Nước ta bước vào xây dựng chủ  nghĩa xã hội trong hoàn cảnh hết sức  đặc biệt như: điểm xuất phát thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng và   khủng hoảng kéo dài nhiều năm. Đến nay, tuy đã có nhiều đổi mới so với  trước đây, nhưng Việt Nam vẫn là một nước nghèo và chậm phát triển. Hiện   nay, đất nước ta chuyển sang thời kỳ đổi mới với hai nhiệm vụ xây dựng và 
  13. bảo vệ  Tổ  quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa,  hiện đại hóa đất nước, trong bối cảnh quốc tế và tình hình đất nước hết sức   đặc biệt, trước mắt chúng ta có cả thời cơ thuận lợi lẫn những khó khăn thử  thách.  Trước tình hình chính trị  phức tạp trên thế  giới và âm mưu chống phá   kẻ thù, đòi hỏi Đảng ta phải kiên định mục tiêu lý tưởng, có đường lối chính  trị  đúng đắn, phù hợp lòng dân, gắn bó với nhân dân, luôn nêu cao tinh thần   cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc  chống phá Đảng và cách mạng nước ta. Do vậy, Đảng ta phải đủ  mạnh để  nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh, vững chắc, tạo ra thế  và lực mới;   đồng thời luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục nguy cơ, kể  cả  những nguy cơ mới nảy sinh, đảm bảo đất nước phát triển đúng định hướng   xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, để đáp ứng nhiệm vụ ngày càng cao của công  cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi  phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng. Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn công tác xây dựng đảng hiện nay. Thực hiện các chủ  trương, giải pháp và sự  chỉ  đạo của Trung  ương,  trong thời gian qua các cấp  ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ  đạo quyết liệt xây  dựng củng cố tổ chức đảng, gắn với xây dựng tổ chức cơ sở. Đại hội XI của   Đảng đã đánh giá công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt  được một số kết quả tích cực, đó là: ­ Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tăng cường, đạt được một số  kết quả tích cực về công tác lý luận, công tác tuyên truyền giáo dục lý luận chính   trị tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ,... Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo,  sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được  một số kết quả; chú trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở  những   vùng, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn.
  14. ­ Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm   sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các   tổ chức trong hệ thống chính trị.  Bên cạnh những  ưu điểm và kết quả  đạt được nêu trên, Đại hội XI   Đảng Cộng sản Việt Nam cũng chỉ  ra những khuyết điểm, yếu kém, chậm   được khắc phục trong công tác xây dựng Đảng, cụ thể: ­ Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư  tưởng còn  hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa  bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống trong một bộ  phân không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,  những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục   diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản  lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân với   Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. ­ Tổ chức của một số cơ quan Đảng, Nhà nước và tổ  chức chính trị  xã  hội chưa thực sự tinh gọn hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa   rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế chính sách cụ  thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử  dụng   người  tài; chậm  đổi  mới  cơ  chế, phương pháp và quy trình  đánh giá, bổ  nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. ­ Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ  chức đảng còn   thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền  nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự  phê bình và phê bình yếu. Nhiều cấp   ủy, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật   đảng. Nhiều khuyết  điểm, sai lầm của  đảng viên và tổ  chức đảng chậm  được phát hiện.  Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng  là một quy luật tất yếu khách quan trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
  15. 7.4.2. Nội dung nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của   tổ chức Đảng trong giai đoạn hiện nay Có thể  thấy rằng, việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu  của tổ  chức Đảng không những là yêu cầu thường xuyên, mà còn là vấn đề  cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Nhằm củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ  chức Đảng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong giai đoạn  hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đất nước. Cần tập trung vào một số  nội dung cơ bản sau đây: ­ Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng,  nâng cao trình độ kiến thức cho cấp uỷ, cán bộ đảng viên theo yêu cầu của sự  nghiệp đổi mới. ­ Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách  các nghị  quyết của các cấp uỷ Đảng, mà trọng tâm là phát triển kinh tế, giữ  vững  ổn định chính trị  ­ xã hội. Cụ  thể  là phát triển kinh tế, xoá đói giảm  nghèo, cải thiện đời sống cho người lao động, chống tham nhũng, hối lộ, cửa  quyền,  ức hiếp quần chúng, lãnh đạo giải quyết có hiệu quả  nguyện vọng   chính đáng và những bức xúc của nhân dân. ­ Tất cả các tổ chức Đảng đều phải nắm vững và thực hiện đúng chức   năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức  kinh tế, sự nghiệp, các mặt công tác và các tầng lớp nhân dân ở cơ sở. ­ Nâng cao tính chiến đấu, khắc phục tình trạng thụ động, ỷ  lại buông  lỏng vai trò lãnh đạo. Các cấp uỷ cần tập trung chỉ đạo củng cố tổ chức đảng  yếu kém, kịp thời kiện toàn cấp uỷ  và tăng cường cán bộ   ở  những nơi có   nhiều khó khăn và nội bộ mất đoàn kết. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, củng   cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng. ­ Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ và chi bộ. Phân công, hướng dẫn,  kiểm tra đảng viên về việc chấp hành, thực hiện nhiệm vụ, phát huy vai trò tiền  
  16. phong gương mẫu của người đảng viên trong công tác, trong tác phong, đạo đức,  lối sống và việc giữ mối liên hệ với quần chúng nơi công tác, với địa phương và   nhân dân nơi cư trú… ­   Phát   triển  đảng   viên  theo   đúng  tiêu   chuẩn  quy   định,  chú   ý   những  người  ưu tú trong phong trào lao động sản xuất thuộc các tổ  chức đoàn thể  quần chúng. Đổi mới phân tích, đánh giá chất lượng các tổ  chức Đảng và  đảng viên. ­ Tổ chức quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của   Trung ương nhằm cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  XI của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung   ương (khoá XI). Các tổ chức cơ sở Đảng cần quán triệt và lãnh đạo thực hiện  tốt bốn nội dung sau: phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại  hoá nông nghiệp và nông thôn; nâng cao năng lực và hiệu quả  hoạt động của   hệ  thống chính trị  cơ  sở; công tác tư  tưởng, lý luận trong tình hình mới, phát  huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về  đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 7.5. Đặc điểm của Chi bô tr ̣ ường tiểu học Hợp Thinh, Đảng bộ xã  Hợp Thịnh 7.5.1. Đặc điểm tình hình chung  ­ Chi bộ trường tiểu học Hợp Thịnh hiện nay có 22 đảng viên, trong đó:  21 đảng viên chính thức và 01 đảng viên dự  bị; Về  trình độ  chuyên môn   nghiệp vụ: cao đẳng 03/22 = 13,6%, đại học 19/22 = 86,3%. ­ Là một chi bộ có số lượng đảng viên chiếm 55% (22/40) quân số của   đơn vị. Đảng viên trong chi bộ  đã trải qua kinh nghiệm thực tiễn giảng dạy   và giáo dục học sinh nhiều năm và với nhiều lĩnh vực khác nữa. 7.5.2. Nhưng thuân l ̃ ̣ ợi, kho khăn trong qua trinh th ́ ́ ̀ ực hiên nhiêm vu ̣ ̣ ̣  chinh tri cua  ́ ̣ ̉ Chi bô tr ̣ ường Tiểu học hợp Thịnh, Đang bô xã H ̉ ̣ ợp Thịnh 7.5.2.1. Thuận lợi
  17. ­ 100% đảng viên trong chi bộ  có phẩm chất chính trị, trình độ  chuyên  môn và tinh thần trách nhiệm cao, đồng thời luôn tiên phong về  tư  tưởng và   hành động. ­ Chi bộ luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, UBND xã  Hợp Thịnh và sự  phối hợp giúp đỡ  của chi bộ  phòng GD&ĐT Tam Dương và   các ban ngành đoàn thể trong huyện. 7.5.2.2. Khó khăn  Nhiệm vụ chính trị mà Chi bộ lãnh đạo công tác giáo dục hết sức nặng  nề. Trong nhiều năm qua, đặc biệt là những năm gần đây lĩnh vực tổ  chức  thực hiện công tác giáo dục, nâng cao chất lượng dạy học luôn đặt ra nhiều   khó khăn và thách thức. Trong  quá  trình  triển  khai  thực  hiện  Luật  giáo  dục  và  các   văn  bản  hướng dẫn, sửa đổi bổ  sung chính sách về  giáo dục, cách đánh giá học sinh,   chương trình, sách giáo khoa có nhiều thay đổi, vì vậy trong triển khai công  việc có lúc còn chưa kịp thời, hiệu quả chưa đạt được như  mong muốn theo   yêu cầu của nhiệm vụ ... ­ Chi bộ có thay đổi về nhân sự đó là bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ là  đảng viên từ chi bộ trường tiểu học Hợp Thịnh đến các trường bạn trong  huyện và từ các trường bạn trong huyện về trường tiểu học Hợp Thịnh, vì  vậy, ảnh hưởng đến đảng số và nhiệm vụ của Chi bộ. ­ Đảng viên, giáo viên là nam quá ít (02/22), Đảng viên, giáo viên là nữ  nhiều lại đang nuôi con nhỏ dẫn đến việc tổ chức các hoạt động bề nổi còn   gặp nhiều khó khăn. 7.6. Một số giải pháp mới 7.6.1. Thứ nhất, làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng ­ Tiếp tục triển khai, quán triệt và tổ  chức thực hiện đầy đủ  các Nghị  quyết của Trung  ương, chính sách, pháp luật của nhà nước, các Nghị  quyết,  chỉ thị của Tỉnh ủy ­ HĐND ­ UBND, với 100% cán bộ, đảng viên, giáo viên, 
  18. công nhân viên nhà trường tham gia học tập.  Thực hiện tốt chỉ thị  03­CT/TW  của Bộ Chính trị  về tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương  đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 11­CT/TU ngày 18/10/2012 của Tỉnh ủy Vĩnh  Phúc về việc tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc   cưới, việc tang. Tổ chức các ngày lễ kỷ  niệm, không uống rượu bia trong giờ  làm việc và không hút thuốc lá nơi công sở.  ­ Làm tốt công tác tuyên truyền các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh;   Tuyên truyền về Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ  XII của Đảng; Bầu cử  đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp. ­ Tiếp tục quán triệt cán bộ  đảng viên, GV, công nhân viên nhà trường  thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ  để  hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ  năm  học. ­ Chủ  động nắm bắt tình hình tư  tưởng của cán bộ, đảng viên, công  chức, viên chức trong chi bộ để có định hướng kịp thời. ­ Chi bộ trường tiểu học Hợp Thịnh phấn đấu và xây dựng khối đoàn   kết, thống nhất trong chi bộ  cũng như  trong Đảng bộ, giữ  vững lập trường,  tư tưởng trong mọi lúc, mọi nơi chống lại những biểu hiện tiêu cực. 7.6.2. Thứ  hai, tự  phê bình và phê bình, nêu cao tính tiên phong,   gương mẫu của đảng viên Chi bộ  phải đánh giá và làm rõ được những hạn chế, khuyết  điểm  chậm được khắc phục. Kiểm điểm, đánh giá, liên hệ  bản thân về  kết quả  thực hiện nhiệm vụ được giao. Làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực   hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê  bình và phê bình, nói đi đôi với làm; trong quá trình kiểm điểm cần liên hệ,  gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định, việc giải quyết những   vấn đề về cán bộ, giải quyết những vấn đề bức xúc của cơ quan. 7.6.3. Thứ ba, làm tốt công tác phát triển Đảng viên
  19.  Chi bộ coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng; kết nạp đảng  viên phải luôn đi đôi với củng cố  Đảng, làm trong sạch đội ngũ đảng viên.  Mạnh dạn đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng. 7.6.4. Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên   Chi   bộ   tạo   điều   kiện   để   đảng   viên   tham   gia   các   lớp   bồi   dưỡng   chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng trình độ lý luận chính trị để thật sự xứng  đáng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. 7.6.5. Thứ năm, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ Đây là một giải pháp quan trọng nhằm giúp cho chi bộ ngày càng trong   sạch, vững mạnh.  Muốn vậy, bí thư  chi bộ  cần nắm vững các nguyên tắc, quy định về  quy trình, phương pháp tổ chức một buổi sinh hoạt chi bộ; cách thức xác định,  lựa chọn nội dung sinh hoạt đảm bảo phù hợp, đúng, đủ  các giải pháp nâng  cao chất lượng sinh hoạt. Đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ là  nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi sự cố gắng, trách nhiệm của chi bộ và từng   đảng viên trong toàn chi bộ. Khắc phục hạn chế, yếu kém trong thực hiện chế độ  sinh hoạt đảng,  đảm bảo tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tinh thần tự phê bình và  phê bình, giữ  vững nguyên tắc tổ  chức sinh hoạt đảng, nâng cao ý thức tổ  chức, kỷ  luật của đảng viên. Xây dựng chi bộ  thật sự  là hạt nhân lãnh đạo,  thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ đảng  viên, góp phần khắc phục những hạn chế, khuyết điểm sau kiểm điểm tự phê  bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung  ương 4 (khóa XI) “Một số  vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Chi bộ  và từng đảng viên thực hiện nghiêm túc nền nếp, chế  độ  sinh  hoạt chi bộ  hằng theo quy định của Điều lệ  Đảng; bí thư  chi bộ  phải gương  mẫu chấp hành quy định, chế độ sinh hoạt chi bộ để mọi người noi theo. Trong   sinh họat phải thực hiện đúng nguyên tắc tổ  chức sinh hoạt đảng, nguyên tắc  
  20. tập trung dân chủ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu, tăng  cường đoàn kết, thống nhất và tình thương yêu gắn bó, tinh thần đồng chí trong   Đảng; thật sự mở rộng và phát huy dân chủ, nhất là trong thảo luận, quyết định  những vấn đề  thuộc  chức năng, nhiệm vụ  của chi bộ, trách nhiệm, nghĩa vụ,  quyền lợi của đảng viên. Nội dung sinh hoạt phải thiết thực, phong phú, phù hợp với đặc điểm,  tình hình thực tế  của đơn vị. Đồng chí bí thư  chi bộ  có trách nhiệm nghiên  cứu, đưa vào sinh hoạt thường xuyên những nội dung theo hướng dẫn 09­ HD/BTCTW, ngày 02­3­2012 của Ban Tổ chức Trung ương gắn chặt với việc   học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt là việc khắc  phục những hạn chế, khuyết điểm của chi  ủy và từng đảng viên sau đợt  kiểm điểm tự  phê bình và phê bình theo Nghị  quyết Trung  ương 4 (khóa XI)  “Một số  vấn đề  cấp bách về  xây dựng Đảng hiện nay”. Mở  rộng hình thức   sinh hoạt chi bộ theo chuyên đề (ít nhất mỗi quý 1 lần) để nội dung sinh hoạt   phong phú, hấp dẫn, góp phần nâng cao nhận thức cho đảng viên. Xác định một số  nội dung cụ thể, một số vấn đề  tư  tưởng, đạo đức   gây bức xúc trong ngành, cơ  quan để  tập trung chỉ  đạo để  khắc phục, mang  lại kết quả cụ thể, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Lấy kết quả  học t ập và làm theo tư  tưở ng, tấm gươ ng đạ o đứ c,  phong cách Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét,   phân loại đảng viên hàng năm. Nội dung làm theo cụ thể: Các nội dung làm việc của tập thể, cá nhân  gắn với tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh, nhất là các nội dung mà đơn vị  và  từng cá nhân đã đăng ký.  Kịp thời phát hiện, nêu gương những đảng viên tiên phong gương mẫu,   có thành tích xuất sắc; giáo dục, giúp đỡ  những đảng viên vi phạm Điều lệ  Đảng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2