intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giờ thực hành của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Trù Hựu

Chia sẻ: Chubongungoc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

52
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của sáng kiến kinh nghiệm là qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, tôi thấy đề tài nghiên cứu khoa học này mang mục đích và ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy sự hứng thú và tạo thói quen chủ động khi các em sử dụng máy tính ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào. Khi hoàn thành đề tài này tôi nhận thấy lợi ích mà nó mang lại gồm: Thứ nhất, bản thân tôi nâng cao hơn nữa những nhận thức về tầm quan trọng của thói quen chủ động, sáng tạo trong việc học tập. Thứ hai, thông qua việc nghiên cứu tìm hiểu về hình thức tổ chức hoạt động nhóm, giúp bản thân đúc rút kinh nghiệm sử phương pháp một cách có hiệu quả trong quá trình dạy học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giờ thực hành của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Trù Hựu

  1. PHẦN I: MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. 1. Cơ sở lý luận. Từ năm học 2009-2010, Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa môn Tin học là môn học tự chọn vào bậc tiểu học với thời lượng 2 tiết/tuần với tất cả các lớp từ khối 3 trở lên. Trường tiểu học Trù Hựu, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang là một trong những trường có điều kiện được tiếp cận với môn tự chọn này. Là môn học mới đưa được vào trường tiểu học và có những đặc thù riêng liên quan chặt chẽ với việc sử dụng máy vi tính, cách tư duy và giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ. Trong quá trình giảng dạy bộ môn Tin học tại trường Tiểu học Trù Hựu, bản thân tôi nhận thấy việc học sinh tiểu học tiếp cận với công nghệ thông tin là rất khó. Tôi đã luôn chứng kiến cảnh học sinh chưa biết về máy tính, chưa hiểu về cách sử dụng máy tính, bên cạnh các em chăm ngoan học tốt, vẫn có khá nhiều em gặp khó khăn trong việc học môn tin học. Đặc biệt là học sinh lớp 4 Trường TH Trù Hựu các em chưa tự tin, còn thụ động trong việc học môn Tin học vì vậy tôi mạnh dạn chia sẽ một số ý kiến, suy nghĩ của mình qua sáng kiến; “Phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giờ thực hành của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Trù Hựu”. Từ đó, đề xuất những biện pháp để giờ thực hành đạt hiệu quả tốt nhất. Từ đó các em có thể tiếp cận với công nghệ thông tin một cách hiệu quả. (Chưa căn đều) 2. Cơ sở thực tiễn. Trong 7 năm công tác tại trường Tiểu học Trù Hựu, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Tôi nhận thấy rằng ở lứa tuổi tiểu học các em còn nhỏ, khả năng tiếp cận với CNTT gặp rất nhiều khó khăn, từ việc nhận thức lý thuyết đến khả năng tự thực hành trên máy tính. Năm học 2017-2018, tôi được phân công giảng dạy bộ môn tin học các lớp từ khối 3 đến khối 5 tại khu trung tâm trường Tiểu học Trù Hựu, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Trong quá trình dạy học tôi nhận thấy môn tin học bậc tiểu học với những đặc thù riêng mà việc thực hành cần có những phương pháp, hình thức cần linh hoạt, phong phú. Trên cơ sở chuẩn kiến thức kỹ năng của từng chủ đề từng bài và mục tiêu của cả cấp học mà các câu hỏi, bài tập, bài thực hành cần đo được mức độ thực hiện các mục tiêu đã được xác định. Tin học là một môn học có những đặc thù riêng, liên quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, đặc trưng quan trọng của môn Tin học là kiến thức lí thuyết đi đôi với thực hành. Thực hành là một phần quan trọng trong chương trình tin học. Việc đổi mới công tác thực hành, là việc làm có ý nghĩa rất thiết thực. Thực hành sẽ tạo cơ hội cho học sinh bổ sung kiến thức, nắm vững các khái niệm về lý thuyết và rèn luyện kỹ năng, làm sáng tỏ những giờ học tại lớp và học qua sách vở. Việc đổi mới công tác thực hành, là việc làm có ý nghĩa rất thiết thực. Thực hành sẽ tạo cơ hội -1-
  2. cho học sinh bổ sung kiến thức, nắm vững các khái niệm về lý thuyết và rèn luyện kỹ năng, làm sáng tỏ những gì học tại lớp và học qua sách vở, mặt khác còn giúp học sinh nắm bắt và tiếp cận với những công nghệ mới của Tin học phục vụ học tập và đời sống. Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học tôi nhận thấy rằng nhiều học sinh yếu về kỹ năng thực hành trên máy. Các em chưa chủ động, tích cực trong hoạt động thực hành, các em có thái độ ngại ngần khi thực hiện mà chủ yếu quan sát các em khác trong nhóm thực hành (HS có năng khiếu) nên đôi khi giờ thực hành không đạt hiệu quả như mong muốn Xuất phát từ những lý do trên tôi đưa ra sáng kiến: “Phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giờ thực hành của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Trù Hựu”. Nhằm mục đích hình thành cho các em một số thói quen rất quan trọng này, uốn nắn sửa chữa những thói quen không tốt khi làm việc với máy tính ngay từ khi các em bước đầu làm quen với nó. Thông qua đề tài này, tôi muốn được góp một phần nhỏ bé của mình giúp các em học sinh trường Tiểu học Trù Hựu tiếp cận với CNTT. Qua đó góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục bậc tiểu học của địa phương, của trường Tiểu học Trù Hựu trong thời gian tới. Nhân dịp này, tôi xin trân trọng cảm ơn, ban lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo huyện Lục Ngạn đã tổ chức cuộc thi này để chúng tôi có thể tự chau dồi kiến thức bản thân và có cơ hội học hỏi lẫn nhau. Cảm ơn BGH trường Tiểu học Trù Hựu và các đồng nghiệp đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học, tôi thấy đề tài nghiên cứu khoa học này mang mục đích và ý nghĩa rất lớn trong việc thúc đẩy sự hứng thú và tạo thói quen chủ động khi các em sử dụng máy tính ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào. Khi hoàn thành đề tài này tôi nhận thấy lợi ích mà nó mang lại gồm: Thứ nhất, bản thân tôi nâng cao hơn nữa những nhận thức về tầm quan trọng của thói quen chủ động, sáng tạo trong việc học tập. Thứ hai, thông qua việc nghiên cứu tìm hiểu về hình thức tổ chức hoạt động nhóm, giúp bản thân đúc rút kinh nghiệm sử phương pháp một cách có hiệu quả trong quá trình dạy học. III. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 4 trường Tiểu học Trù Hựu. Đối tượng nghiên cứu: Một vài biện pháp phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giờ thực hành của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Trù Hựu IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC. -2-
  3. Công nghệ thông tin là một trong những phương tiện quan trọng nhất của sự phát triển, nó đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục của thế giới hiện đại, trong đó có Việt Nam. Ngày nay, kiến thức, kỹ năng Công nghệ thông tin là một trong những văn hóa thiết yếu mà học sinh cần được trang bị cho học tập và cho cuộc sống. Chính vì lẽ đó, ngay từ khi các em làm quen với máy tính chúng ta phải rèn luyện cho các em kỹ năng và tư thế làm việc với máy tính một cách đúng đắn. Để các em có thể tiếp cận với môn tin học nói riêng và công nghệ thông tin nói chung một cách hiệu quả nhất. Đó là làm thế nào để phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập môn tin học tiểu học. Từ đó tạo cho các em hứng thú hơn trong giờ thực hành và quan trọng hơn cả đó là tạo thói quen khi sử dụng máy vi tính. V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. Đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu tổng hợp cơ sở lý luận về hình thành và phát triển tính chủ động khi sử dụng máy tính. Từ đó, nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trên cơ sở khai thác đặc điểm triệt để tâm sinh lý của học sinh. Bên cạnh đó đề tài còn nghiên cứu cách tổ chức dạy học một số bài thực hành Tin học để phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ thực hành Tin học. VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Thời gian nghiên cứu của đề tài: Từ đầu năm học 2017-2018, khi tôi được phân công giảng dạy môn tin học tại khu trung tâm. Trường Tiểu học Trù Hựu, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Không gian nghiên cứu của đề tài: Là khối lớp 4 Trường Tiểu học Trù Hựu, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. Trong quá trình nghiên cứu chọn đề tài, tôi đã sự dụng một số phương pháp sau:  Phương pháp trò chuyện: Tôi sử dụng phương pháp này để hỏi trò chuyện với một số giáo viên có kinh nghệm trong việc tổ chức hoạt động nhóm  Phương pháp tìm và nghiên cứu tài liệu: Tìm hiểu những tài liệu để thu thập những cách hướng dẫn tổ chức hoạt động nhóm, cách thiết kế nhiệm vụ cho nhóm.  Phương pháp trải nghiêm: Thông qua thực tế giảng dạy trên lớp của bản thân, và dự giờ đồng nghiệp để tìm ra cái được, cái hạn chế và biện pháp khắc phục. -3-
  4.  Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn các đối tượng học sinh, tìm hiểu sự hứng thú của các em đối với việc học theo nhóm. VIII. CẤU TRÚC CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Phần 1: Mở đầu. I. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm II. Mục đích nghiên cứu. III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu. IV. Nhiệm vụ nghiên cứu V. Giả thuyết khoa học. VI. Phạm vi nghiên cứu. VII. Phương pháp nghiên cứu. Phần 2: Nội dung. Chương I: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu. Chương II: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. Chương III: Đề xuất một số biện pháp nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo trong giờ thực hành của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Trù Hựu. Phần 3: Kết luận và kiến nghị I. Kết luận II. Kiến nghị -4-
  5. PHẦN II: NỘI DUNG Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU. Đặc trưng của môn Tin học là khoa học gắn liền với công nghệ, do vậy dạy học Tin học một mặt trang bị cho học sinh kiến thức khoa học về Tin học, phát triển tư duy thuật toán, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề, mặt khác phải chú trọng đến thói quen chủ động khi thực hành, tạo mọi điều kiện để học sinh được thực hành, nắm bắt và tiếp cận những công nghệ mới của Tin học phục vụ học tập và đời sống. Nội dung chương trình của môn Tin học tự chọn hiện hành ở các trường phổ thông đã đáp ứng được những yêu cầu trên. 1. Khái niệm về tính chủ động, sáng tạo Người tự giác, chủ động sáng tạo là không chỉ làm theo những gì đã được định sẵn, những gì được yêu cầu, mà làm theo kế hoạch riêng của mình. Tính chủ động, là điều kiện cần để sáng tạo. Những biểu hiện của sự sáng tạo là: biết nhìn nhận một sự vật theo một khía cạnh mới, nhìn nhận một sự kiện mới dưới nhiều góc độ khác nhau; biết đặt ra những giả thiết khi phải lí giải một hiện tượng, biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống; không hoàn toàn bằng lòng với giải pháp đã có; không suy nghĩ cứng nhắc theo những gì đã có; không máy móc áp dụng những quy tắc, phương pháp đã biết vào những tình huống mới. 2. Vai trò của tính chủ động, sáng tạo Tính chủ động, sáng tạo giúp con người hành động nhiều hơn, phát triển tốt hơn cả thể chất, tinh thần và trí não. Luôn luôn tiến về phía trước, gặp trở ngại khó khăn sẽ tìm cách vượt qua. Ngoài ra tính chủ động còn giúp suy nghĩ tốt hơn, sâu sắc hơn để hoàn thiện bản thân. -5-
  6. Chương II THỰC TRẠNG CỦA TÍNH CHỦ ĐỘNG CỦA HỌC SINH TRONG GIỜ THỰC HÀNH I. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG. Trường Tiểu học Trù Hựu là một trường miền núi, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo sát sao của phòng Giáo dục Lục Ngạn, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám hiệu, nhà trường đã có nhiều bước tiến. Nhiều năm, liên tục, trường đã đạt danh hiệu tiên tiến cấp huyện. Các hoạt động chuyên môn trong nhà trường hoạt động hiệu quả. Hàng tuần, hàng tháng nhà trường và các tổ chuyên môn tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn, hội giảng rút kinh nghiệm về phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giờ dạy, nâng cao chất lượng giáo dục. Tất cả các giáo viên trong trường đều yêu nghề, mến trẻ, say sưa, nhiệt tình giảng dạy. Thường xuyên tích cực dự giờ thăm lớp, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để lựa chọn những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp để áp dụng vào tiết dạy, tạo không khí sôi nổi nhẹ nhàng, thoải mái, hứng thú học tập cho học sinh. Năm học 2018 – 2019, Trường Tiểu học Trù Hựu có khoảng học sinh học trong 28 lớp. Trong đó có: 8 lớp 1, 5 lớp 2, 5 lớp 3, 5 lớp 4 và 5 lớp 5 phân bố ở 3 khu: khu Trung tâm, khu Minh Thành và khu Thông. Trong năm học 2018 – 2019, bám sát sự chỉ đạo của Sở Giáo dục-Đào tạo tỉnh Bắc Giang và Phòng giáo dục-Đào tạo huyện Lục Ngạn, trường Tiểu học Trù Hựu tiếp tục thực hiện dạy học theo chương trình của dự án VNEN, đối với khối lớp 2, khối lớp 3, khối lớp 4 và khối lớp 5 với 28 lớp gồm 825 học sinh. Giáo viên, học sinh và cả phụ huynh học sinh cùng được tham gia vào các hoạt động trang trí lớp, bầu chủ tịch hội động tự quản cho lớp và thiết kế các góc như: Góc học tập, góc thư viện, hộp thư cá nhân, góc thân thiện, góc sáng tạo. Năm học 2018 – 2019 tôi được phân công giảng dạy môn tin học ở khối lớp 3, 4, 5 khu trung tâm. Trong đó có 289 học sinh với 104 học sinh là người dân tộc thiểu số. Nhà trường đã được trang bị một phòng thực hành máy tính. Với 20 bộ máy tính, 1 máy chiếu, và các thiết bị chiếu sáng, quạt mát đầy đủ. II. THỰC TRẠNG. Năm học 2018 – 2019 tôi được phân công giảng dạy bộ môn tin học cho các khối lớp 3, 4, 5 tại khu trung tâm. Thực tế qua 7 năm công tác trực tiếp giảng dạy bộ môn tin học cũng như trao đổi với đồng nghiệp tôi nhận thấy: 1. Thuận lợi: Được sự quan tâm của Chi Bộ và của BGH nhà trường trong công cuộc đổi mới phương pháp dạy học. Đầu năm học 2018 – 2019 nhà trường đã thành lập và hoạt động hiệu quả câu lạc bộ “ Em yêu tin học”. Nơi hội tụ những thành viên yêu -6-
  7. thích bộ môn tin học. Giúp các em có một sân chơi bổ ích, giao lưu học hỏi lẫn nhau trong lĩnh vực tin học Trường học khang trang, phòng học rộng rãi, thoáng mát, bàn ghế đầy đủ đúng quy cách. Lớp học được trang trí khoa học, đẹp, hấp dẫn, cuốn hút học sinh. Về phía học sinh: nhìn chung các em đều ngoan và đã có ý thức tự học. Các em có cùng một độ tuổi. Phần lớn các bậc phụ huynh đã quan tâm đến việc học của con em mình. Giáo viên giảng dạy được đào tạo theo đúng chuyên ngành và được bồi dưỡng chuyên đề hàng năm. Phòng thực hành được nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi về CSVC trang thiết bị dạy học. 2. Khó khăn: Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học, nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất và đang hoàn chỉnh. Chưa có sự quan tâm thực sự của bậc phụ huynh học sinh. Qua kiểm tra khảo sát chất lượng đầu năm, nhiều em chưa biết nhiều về máy tính hoạt động như thế nào, chưa biết thao tác các công cụ trên phần mềm đơn giản, và làm thế nào để thao tác được với máy tính. Số lượng học sinh một lớp học đông trên 30 em học sinh một lớp, diện tích phòng máy nhỏ hẹp, phòng máy có 19 máy tính, học sinh không tập trung vào bài giảng ... ảnh hưởng rất lớn trong quá trình giảng dạy và học tập. Học sinh trên địa bàn nhiều học sinh là con em các gia đình làm có bố mẹ làm ăn xa , các em ở nhà với ông bà. Do đó sự quan tâm của phụ huynh đến việc học tập của con em còn nhiều hạn chế, điều kiện để các em có máy vi tính ở nhà là rất khó, hầu hết các em chỉ được tiếp xúc, làm quen với máy tính trong giờ tin học. Một số gia đình có điều kiện cũng đã mua được máy tính để sử dụng. Tuy nhiên, vì lo sợ con cái mải mê chơi game. Một bộ phận phụ huynh đã ngăn cấm con em mình sử dụng máy tính ở nhà. Chính vì lẽ đó mà dẫn đến việc sử dụng máy của học sinh còn lúng túng, chất lượng giờ thực hành chưa cao. Mặt khác, một bộ phận học sinh chưa coi trọng môn học, xem đây là một môn phụ nên chưa có sự đầu tư thời gian cho việc học. -7-
  8. Chương III: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍNH CHỦ ĐỘNG, SÁNG TẠO TRONG GIỜ THỰC HÀNH CỦA HỌC SINH LỚP 4 TRƯỜNG TIỂU HỌC TRÙ HỰU 1. Giải pháp thứ nhất: Phân nhóm đối tượng học sinh Sau một số giờ thực hành đầu năm, tiến hành khảo sát phân loại tôi thấy học sinh còn rất ngại thực hành, thao tác cơ bản trên máy còn chưa chuẩn, đa số việc thực hành trên máy chỉ tập trung vào các em học sinh có năng khiếu, số còn lại các em chỉ quan sát, nên khi giáo viên hỏi thì không thực hiện được công việc theo yêu cầu vì thế kết quả học tập còn thấp. Để mang lại kết quả học tập cao hơn, tôi tiến hành phân nhóm đối tượng học sinh trong lớp để theo dõi và tiến hành thực hiện giải pháp như sau: + Nhóm đối tượng 1: Những học sinh thực hành thành thạo các kĩ năng, thao tác nhanh nhẹn, hứng thú và sáng tạo khi thực hành. + Nhóm đối tượng 2: Những học sinh thực hành thành thạo các kĩ năng, thao tác nhanh nhẹn nhưng chưa hứng thú và sáng tạo khi thực hành. + Nhóm đối tượng 3: Những học sinh thao tác trên máy chưa thành thạo, nhút nhát khi thực hành. Để mọi học sinh trong lớp đều hứng thú, tự tin trong giờ học và thực hiện thành thạo các kĩ năng trên máy giáo viên cần đưa ra những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau để học sinh học tập tốt hơn. Như vậy việc phân loại đối tượng học sinh giúp giáo viên cũng như học sinh thuận lợi hơn trong tiết học. Giáo viên là người đưa ra những yêu cầu, nhiệm vụ khác nhau để học sinh tự chọn, sau đó giáo viên sẽ lựa chọn phương pháp cụ thể với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao kĩ năng thực hành và tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Từ đó học sinh có cơ hội sáng tạo và khám phá được hết kiến thức mà mình đã được học trên lớp thông qua bài thực hành, có ý thức tự rèn ở lớp cũng như ở nhà. Trong khi học sinh thực hiện, giáo viên theo dõi, kiểm tra từng cá nhân, từng nhóm. Sau đó đánh giá nhận xét kết quả theo yêu cầu đã đặt ra. Ví dụ: Bài 3: Chèn và điều chỉnh tranh ảnh trong văn bản (Sách hướng dẫn học Tin học Lớp 4). Ở bài này học sinh cần phải đạt được mục tiêu là biết cách chèn tranh ảnh vào văn bản, sau đó điều chỉnh kích thước tranh ảnh trong văn bản. - Đối với các em có năng khiếu và thường xuyên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập tôi sẽ giao cho các em nhiệm vụ tìm kiếm hình ảnh trên Internet, lưu hình ảnh về máy rồi thực hành chèn tranh ảnh vào văn bản. - Đối với các em hoàn thành nhiệm vụ học tập tôi sẽ giao cho các em nhiệm vụ thực hành chèn tranh ảnh có sẵn trong thư mục của em vào văn bản. - Đối với các em tiếp thu chậm và kĩ năng thực hành máy tính chưa tốt, tôi sẽ cho phép các em có năng khiếu đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao tiếp cận -8-
  9. hỗ trợ các em. Đây là cách mà các em dễ tiếp cận kiến thức và dễ trao đổi, chia sẻ những khó khăn trong học tập. Các em học sinh có năng khiếu đang hỗ trợ các bạn học sinh tiếp thu chậm và kĩ năng thực hành máy chưa thành thạo 2. Giải pháp thứ hai: Đổi mới thiết kế bài dạy thực hành “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Có thể nói rằng phần thực hành chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình giảng dạy môn Tin học, nó là nền móng cho việc học môn Tin học ở các lớp tiếp theo của bậc Tiểu học. Đặc trưng chủ yếu và phương pháp dạy học mới trong giờ thực hành môn tin học là “Coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học”. Nhờ cách dạy học như vậy mà học sinh tiếp thu kiến thức một cách tích cực, giáo viên nắm được khả năng của từng học sinh, từ đó có thể tạo điều kiện giúp học sinh có thể tự tìm tòi, khám phá, sáng tạo và phát triển năng lực của cá nhân. Để thiết kế được một bài dạy phù hợp với nhiều nhóm đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh thì theo tôi nghĩ người giáo viên cần làm được những công việc sau: - Xác định được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm. Tìm ra được những kỹ năng cơ bản dành cho học sinh chưa hoàn thành nhiệm vụ học tập và những kiến thức kỹ năng nâng cao dành cho học sinh có năng khiếu. - Tham khảo thêm tài liệu để mở rộng và đi sâu hơn vào bài giảng, giúp giáo viên nắm một cách tổng thể, giải thích cho học sinh khi cần thiết. - Nắm được mục đích yêu cầu, chuẩn kiến thức của chương, của bài để thiết kế các hoạt động học tập phù hợp với trình độ học sinh và điều kiện dạy và học. - Chuẩn bị tốt phòng thực hành, các thiết bị dạy và học. - Hoàn chỉnh tiến trình của một giờ dạy học với đầy đủ các hoạt động cụ thể. -9-
  10. Đây là một phần không thể thiếu đối với một giáo viên trước mỗi giờ dạy, đặc biệt là với giờ thực hành với những đặc thù riêng. “Thiết kế trước bài dạy giúp giáo viên chuẩn bị chu đáo hơn về kiến thức, kỹ năng, phương pháp, tiến trình và tâm thế để đi vào một tiết dạy”. Nếu thực hiện tốt những việc này xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt tâm thế để bước vào một tiết dạy thực hành và thành công bước đầu. Ví dụ: Bài 6: Tìm kiếm thông tin từ Internet (Sách hướng dẫn học Tin học Lớp 4). Khi hướng dẫn học sinh tìm kiếm thông tin từ Internet tôi đã chuẩn bị bài hết sức chu đáo, nắm vững mục tiêu bài học, cẩn thận tìm hiểu kỹ yêu cầu nội dung của bài học, lấy ví dụ minh họa một cách dễ hiểu nhất đối với học sinh, xây dựng hệ thống câu hỏi để học sinh tìm tòi khám phá kiến thức nhằm phát huy được khả năng tư duy của học sinh, lấy "học sinh làm trung tâm". Bên cạnh đó tôi đã thực hiện phương châm “Ôn cũ, học mới”, đặt các câu hỏi giúp học sinh nhớ lại kiến thức đã học. + Để truy cập được Internet, máy tính cần phải có gì? + Kể tên các trình duyệt web dùng để truy cập Internet? + Để tìm địa chỉ trang web nào đó em thực hiện như thế nào? Minh họa các bước tìm kiếm hình ảnh hoa hồng từ internet: Bước 1: Truy cập vào trang web google.com. Bước 2: Gõ từ khóa tìm kiếm vào ô tìm kiếm rồi nhấn phím Enter - 10 -
  11. Bước 3: Chọn hình ảnh và lưu hình ảnh về máy tính Thông qua kiến thức đã học giáo viên giúp học sinh hình thành và nắm bắt được kiến thức mới bằng cách giao nhiệm vụ cho học sinh để học sinh thực hành. Trong quá trình thực hành các em sẽ tìm tòi và khám phá kiến thức mới bằng nhiều cách khác nhau. Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy đủ kiến thức, được củng cố kiến thức có hệ thống, vận dụng vào thực hành sẽ linh hoạt, không bị gò ép phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quen chủ động tích cực trong giờ thực hành. 3. Giải pháp thứ ba: Sử dụng phương pháp dạy học đổi mới gây hứng thú và phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh. Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của học sinh còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt động học theo nhóm… * Tổ chức trò chơi học tập: Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trò chơi cũng đều gây được không khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Qua thực tế cho thấy, trò chơi học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích thích sự phát triển trí tuệ của các em, tạo cho các em sự say mê yêu thích môn học. Trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài học, phải là một phần cấu tạo nên bài học. Trò chơi sẽ cuốn hút học sinh hơn nếu có được sự giả định từ tên gọi, từ người tham gia, từ tình huống đến kết quả chơi. Ví dụ 1: Trò chơi “Cóc vàng tài ba” là một trò chơi thu hút được nhiều học sinh tham gia, trò chơi được áp dụng sau giờ học để củng cố nội dung bài học, giúp các em nhớ lại và khắc sâu kiến thức sau giờ học. Giáo viên đưa ra các câu hỏi dưới hình thức trắc nghiệm, học sinh lựa chọn đáp án đúng. - 11 -
  12. Nếu học sinh lựa chọn đúng đáp án, sẽ được thông báo và cộng điểm Nhưng nếu như học sinh lựa chọn sai đáp án, trò chơi cũng sẽ xuất hiện thông báo và sẽ bị trừ điểm. Ví dụ 2: Bài 5: Thực hành tổng hợp (Sách hướng dẫn học Tin học Lớp 4). Đây là bài học yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức đã học trong chủ đề 2: Em tập vẽ để vẽ các bức tranh theo chủ đề tự chọn. Như vậy để tránh cho các em nhàm chán và mệt mỏi trong giờ thực hành, tôi đã tiến hành tổ chức cho các em chơi trò chơi “Ai vẽ nhanh, ai vẽ đẹp”. Thông qua trò chơi thì đây là cách để tạo sự hứng thú, say mê, yêu tích môn học, kích thích sự tham gia tích cực của học sinh vào bài thực hành của mình. Kết thúc trò chơi, giáo viên thu thập kịp thời kết quả trong giờ thực hành của học sinh. Thông qua kết quả thực hành (sản phẩm của học sinh) giáo viên sẽ dễ dàng đánh giá được kiến thức - kĩ năng, năng lực, phẩm chất của học sinh và có những điều chỉnh thích hợp trong các giờ học tiếp theo. - 12 -
  13. * Tổ chức hoạt động học theo nhóm: HS tham gia trò chơi “Ai vẽ nhanh, ai vẽ đẹp” trong giờ thực hành vẽ Paint Học theo nhóm là hình thức học tập có sự hợp tác của nhiều thành viên trong lớp nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập chung. Được tổ chức một cách khoa học, học theo nhóm sẽ phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực, sở trường, tinh thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm. Trong giờ học thực hành, tôi thường sử dụng hình thức làm việc theo nhóm, biện pháp này đã tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên, thuận lợi, đó là hoạt động giao tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm của những người bạn. Trong điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường, với một giờ thực hành, việc quan trọng là chia nhóm thực hành. Với việc chia thành từng nhóm học sinh có điều kịên hỗ trợ lẫn nhau- bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không chỉ là thụ động tiếp thu từ giáo viên. Với số lượng học sinh đông và số máy là có hạn nên căn cứ vào hai số lượng này mà giáo viên có phương án chia nhóm cho phù hợp. Có thể chia nhóm theo các cách sau đây: - Chia nhóm một cách ngẫu nhiên. - Chia nhóm theo đôi bạn cùng tiến. - Chia nhóm theo lực học - Chia nhóm đa dạng nhiều đối tượng Ví dụ: Bài “Chèn tệp hình ảnh vào văn bản”. Ở nội dung này, tôi cho học sinh làm việc theo nhóm, các em sẽ thảo luận và thực hành theo các bước thực hiện trong sách giáo khoa. Trong quá trình thảo luận chắc chắn các em sẽ cùng nhau trao đổi và chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm của bản thân từ đó các em sẽ tạo ra được sản phẩm sau khi thảo luận xong. - 13 -
  14. Học sinh làm việc theo nhóm “Đôi bạn cùng tiến” Tuy nhiên để việc thực hành theo nhóm có hiệu quả buộc giáo viên phải lựa chọn nội dung đưa vào thực hành phù hợp với nhiều đối tượng học sinh (Chia nhóm 2 học sinh một máy), các học sinh có thể tự cử nhóm trưởng của nhóm mình. Khi thực hiện chia nhóm và giao nhiệm vụ học tập cho học sinh, giáo viên thực hiện theo các bước sau: - Giáo viên nêu vấn đề, yêu cầu nội dung thực hành. - Giáo viên hướng dẫn cho học sinh các kỹ năng thao tác trong bài thực hành, thao tác mẫu cho học sinh quan sát. - Tổ chức hướng dẫn các nhóm thực hành, gợi mở, khuyến kích học sinh tích cực hoạt động. - Giáo viên quản lý, giám sát học sinh thực hành theo nhóm: + Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên quan sát, theo dõi và bổ trợ khi cần. + Chỉ rõ những kỹ năng, thao tác nào được dành cho hoc sinh thao tác chậm trong nhóm, những kỹ năng, thao tác nào dành cho học sinh có năng khiếu. + Phát hiện những nhóm thực hành không có hiệu quả để uốn nắn điều chỉnh. + Luôn có ý thức giáo viên chỉ trợ giúp, tránh việc đi sâu can thiệp làm hạn chế khả năng độc lập sáng tạo của học sinh. + Trong quá trình thực hành, giáo viên có thể đưa ra nhiều cách để thực hiện thao tác giúp các em rèn luyện và nâng cao kỹ năng. - Giáo viên có thể kiểm tra hiệu quả bằng cách chỉ định một học sinh bất kỳ trong nhóm thực hiện các yêu cầu đặt ra của nội dung thực hành. Hoặc cho nhóm trưởng kiểm tra kết quả thực hành lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm và các nhóm kiểm tra nhau theo vòng tròn. Làm như vậy các em sẽ có ý thức hơn trong thực hành. - 14 -
  15. Nhóm trưởng kiểm tra kết quả thực hành * Kiểm tra, nhận xét, đánh giá kết quả học tập: - Kiểm tra là quá trình nhằm cung cấp cho thầy và trò những thông tin về kết quả dạy học được thực hiện thường xuyên và xen lẫn trong quá trình dạy học. Tại thời điểm nào đó, giáo viên dùng một biện pháp nào đó (thường là các câu hỏi trắc nghiệm kèm theo phương án trả lời) để nắm được ngay kết quả kiểm tra làm căn cứ cho các bước tiếp theo của tiết học. Việc kiểm tra không chỉ yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức đã học mà cần yêu cầu học sinh chỉ ra mối liên hệ giữa các kiến thức và vận dụng nó vào các tình huống mới. Việc kiểm tra nhằm đánh giá năng lực thực hiện các bài tập thực hành tin học của học sinh, đánh giá kỹ năng thực hành của học sinh, đánh giá về thái độ trung thực độc lập, hợp tác, tính kiên trì, thận trọng trong khi thực hành, gây hứng thú cho học sinh trong việc học tin học. - Nhận xét, đánh giá sau mỗi giờ thực hành: - 15 -
  16. Giáo viên tổ chức cho các nhóm tự nhận xét kết quả thực hành: + Nhóm trưởng điều hành – nhận xét về kỹ năng, thái độ học tập của các bạn trong nhóm. + Tổ chức cho các nhóm trưởng nhận xét kết quả thực hành của các nhóm khác. + Giáo viên tổng kết, nhận xét, bổ xung kiến thức. Giáo viên cũng có nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các nhóm để kịp thời động viên, khuyến kích các nhóm thực hành tốt và rút kinh nghiệm đối với các nhóm kết quả chưa cao. Học sinh và giáo viên nhận xét, đánh giá sau giờ thực hành 4. Giải pháp thứ tư: Sử dụng biểu mẫu Google forms gây hứng thú và phát huy tính tích cực trong tiết ôn tập. Biểu mẫu hay google forms là một ứng dụng hữu ích trong các ứng dụng của Google Drive xây dựng và phát triển. Với mục đích chính là để tạo đăng kí, khảo sát online. - 16 -
  17. Google forms có mang lại các lợi ích sau: Nhận các câu hỏi nhanh chóng, tạo khảo sát kiểu trình bày, hỏi và đáp theo ý người soạn, tạo phản hồi nhanh chóng... Từ những lợi ích to lớn của google forms. Tôi đã xây dựng bài ôn tập bằng biểu mẫu google forms sau mỗi chủ đề học. Để giúp các em học sinh hệ thống lại kiến thức một cách nhanh chóng, thuận tiện mà không nhàm chán. Các em được làm trực tiếp trên máy tính bài ôn tập, sau khi hoàn thành bài các em thấy ngay điểm của mình. Và có thể xem lại bài của mình để thấy mình sai câu nào, cần sửa chữa ở đâu. Giúp các em hệ thống và khắc sâu được kiến thức. Minh họa 1 biểu mẫu sau khi kết thúc Chủ đề 1: Khám phá máy tính Học sinh nhập thông tin của mình để bắt đầu làm bài ôn tập online - 17 -
  18. Một vài câu hỏi trong bài ôn tập online - 18 -
  19. Sau khi kết thúc các câu hỏi học sinh bấm vào xem điểm số để biết điểm và các lỗi sai( nếu có) của mình. * Qua những giải pháp nêu trên giúp tăng hiệu quả và tạo hứng thú trong các giờ thực hành môn Tin học, điểm nổi bật mà các em có thể đạt trước hết là kích thích sự hăng hái thi đua, cạnh tranh lành mạnh, nắm vững các kiến thức cơ bản, khả năng tự sáng tạo khi thực hành với máy tính tăng đáng kể. Đặc biệt là những em trước đây chưa hoàn thành về kiến thức – kĩ năng thì đến thời điểm này cơ bản các em đã có thể tự tìm hiểu, khám phá các hoạt động trong giờ thực hành để hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên đã giao. IV. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI Qua thời gian áp dụng phương pháp, tôi nhận thấy giờ thực hành thực sự thu hút các đối tượng học sinh hơn chứ không còn là giờ học của các đối tượng học sinh khá giỏi. Học sinh hoạt động tích cực hơn. Các đối tượng học sinh hỗ trợ được cho nhau để cùng học, cùng tiến bộ. Qua thời gian áp dụng các giải pháp trên, kết hợp với phương pháp dạy – học hợp lí. Tháng 12/2017 tôi đã tiến hành đánh giá kĩ năng thực hành của các em, kết quả như sau: - 19 -
  20. BẢNG SO SÁNH KẾT QUẢ SAU KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Số học sinh Số học sinh chưa hứng thú và thực hiện thành Tổng số thực hiện thành Thời điểm thạo các kĩ năng học sinh thạo các kĩ năng trên máy trên máy tính SL % SL % Đầu năm 35 7 20% 28 80% Tháng 12/2017 35 25 71% 10 29% Tháng 5/2018 35 30 86% 5 14% Từ bảng kết quả trên cho thấy các giải pháp được áp dụng vào việc dạy học đã giúp cho học sinh thích thú với môn học, tạo cho các em niềm hăng say học tập tự mình tìm tòi, khám phá và tiếp thu kiến thức, vận dụng kiến thức vào việc tạo ra cho mình các sản phẩm đơn giản phục vụ bản thân như viết nhật ký, có các bài báo tường, hay thời khóa biểu học tập. - 20 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2