intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích chương trình Tiếng Việt Tiểu học

Chia sẻ: Lê Thị Quỳnh Nga | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

292
lượt xem
34
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích chương trình Tiếng Việt Tiểu học được nghiên cứu với mong muốn giúp các em có những hiểu biết về thế giới xung quanh, về các nhân vật trong truyện cổ tích, cảm nhận được những tư tưởng tình cảm để các em có ý thức yêu quý, bảo vệ. Mặt khác giúp các em làm giàu thêm vốn sống, đạo lí làm người và cách ứng xử trong giao tiếp với mọi người xung quanh thông qua truyện cổ tích.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích chương trình Tiếng Việt Tiểu học

  1. A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Truyện cổ  tích là một thể  loại văn học dân gian luôn có sức hấp dẫn   với mọi đối tượng trong mọi thời điểm. Làm nên sức sống lâu bền và tầm  ảnh hưởng rộng lớn này cũng chính bởi sự độc đáo phong phú của truyện cổ  tích. Truyện cổ tích là một loài hình nghệ thuật ngôn từ chứa đầy thơ, chất trí   tuệ, sự  lãng mạn bay bổng nhưng vẫn mang một vẻ   đẹp bình dị, rất đời  thường. Mỗi câu chuyện là sự  kết tinh giá trị  truyền thống tốt đẹp của dân  tộc. Đó là lòng nhân ái và bản lĩnh kiên cường, hiện thực và  ước mơ, niềm  vui   và   nỗi   buồn,   hạnh   phúc   và   khổ   đau.   Kho   tàng   truyện   cổ   tích  Việt Nam vốn rất phong phú và đa dạng. Mỗi câu chuyện được lưu truyền là  một bài học quý của ông cha để lại cho thế hệ sau. Hầu hết các câu chuyện   đều thể  hiện quan niệm sống của ông cha ta thông qua việc xây dựng các   hình tượng nhân vật với các mối quan hệ  của nó trong gia đình cũng như  ngoài xã hội. Như  chúng ta đều biết, trẻ  em luôn có nhu cầu tìm hiểu và khám phá  môi trường xung quanh, trong đó thế  giới nhân vật truyện cổ  tích vô cùng  phong phú, chứa đựng nhiều điều hấp dẫn đối với các em. Từ  đây, các em   biết được nhiều điều kì thú, học thêm được nhiều kiến thức quan trọng trong   cuộc sống. Lứa tuổi học sinh tiểu học đang ở độ tuổi ngây thơ, trong sáng và  hồn nhiên, các em như trang giấy trắng, người dạy phải biết khơi dậy những   cảm xúc thẫm mĩ cho các em, các em chỉ mới tiếp cận được với thế giới xung  quanh thông qua những gì gần gũi, thân thuộc nhất như  cây cối, các đồ  vật,  con vật. Qua đó, học sinh có thêm hiểu biết về  thế giới nhân vật, nhận thức  được cái đúng, cái sai, cái tốt, cái xấu, cách xử  sự, hành vi phù hợp với quy   tắc, chuẩn mực chung của xã hội. Từ đó, hình thành những nền tảng ban đầu   về mặt đạo đức, giúp các em có cái nhìn đúng đắn qua các mối quan hệ trong   1
  2. việc giao tiếp hàng ngày, có lý tưởng sống cao đẹp, là công dân tốt, có ích cho  xã hội, điều này thấy được thông qua thái độ ứng xử với ông bà, cha mẹ, anh   chị em ruột trong gia đình, với thầy cô giáo, bạn bè…  Trong chương trình Tiểu học, mục tiêu của môn Tiếng Việt không chỉ  nhằm hình thành cho các em những kỹ  năng sử  dụng Tiếng Việt như  nghe,  nói, đọc viết, các thao tác tư duy để học tập và giao tiếp mà còn cung cấp cho   các em một lượng thông tin và kiến thức lớn về tự nhiên, xã hội, con người,  văn hóa…Qua đó hình thành nhân cách con người Việt Nam thời đại mới.   Việc giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho học sinh là một nhiệm vụ  hết sức quan trọng đối với giáo viên Tiểu học bởi đây là một cấp học quan   trọng, làm nền cho các cấp học sau này. Là một giáo viên tiểu học tương lai, chúng tôi muốn các em có những   hiểu biết về thế giới xung quanh,  về các nhân vật trong truyện cổ tích, cảm  nhận được những tư  tưởng tình cảm để  các em có ý thức yêu quý, bảo vệ.  Mặt khác giúp các em làm giàu thêm vốn sống, đạo lí làm người và cách ứng  xử trong giao tiếp với mọi người xung quanh thông qua truyện cổ tích. Vì vậy  chúng tôi đã chọn đề  tài: “Thế  giới nhân vật trong truyện cổ tích chương   trình Tiếng Việt Tiểu học”. 2. Lịch sử vấn đề Nói đến văn học dân gian cùng với những giá trị vĩnh hằng của nó, chúng   ta không thể không nhắc đến truyện cổ tích. Để  khai thác hết những nét độc   đáo về  thế  giới   nhân vật trong truyện cổ  tích đã có rất nhiều công trình  nghiên cứu về  văn học dân gian nói chung và các thể  loại truyện nói riêng  dưới cách nhìn nhận của thi pháp học. Nhiều nhà nghiên cứu về  truyện cổ  tích trên quy mô lớn   như  Nguyễn Thái Hòa (Những vấn đề  thi pháp của   truyện), Hà Bình Trị (Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân   gian), Phan Chu Diện (Văn học dân gian – Mấy vấn đề phương pháp luận và   2
  3. nghiên cứu thể loại), Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế (Tuyển tập Truyện cổ tích  Việt Nam – phần truyện cổ  tích người Việt)…và một số  chuyên đề  khác.  Trong tầm bao quát tư  liệu cửa mình, chúng tôi nhận thấy có một số  công  trình đáng chú ý sau đây: 2.1. Các công trình nghiên cứu chung về truyện cổ tích Tác giả Nguyễn Tất Phát, Bùi Mạnh Nhị trong bài Nhân vật lý tưởng và   cốt truyện của cổ tích thần kỳ báo văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh số 316 ở  mục “Những phần thưởng dành cho nhân vật” có viết “Trong truyện cổ tích   thần kỳ, nhân dân luôn chăm chú theo dõi nhân vật lý tưởng của mình và dành   cho họ  những phần thưởng xứng đáng”. Bên cạnh những phần thưởng mà  nhân dân dành cho nhân vật lý tưởng bao giờ  cũng kèm theo đòn trừng phạt   đối với kẻ thù.  Trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam”, cố giáo sư Nguyễn Đổng Chi  đã có phần khảo dị, nó tạo điều kiện cho sự  nghiệp nghiên cứu, so sánh  truyện cổ tích ở các địa phương trong nước, của Việt Nam với các nước khác  trên thế giới.  Việc nghiên cứu trực tiếp thi pháp truyện cổ tích và truyện ngụ  ngôn có  thể  kể  đến Hà Bình Trị. Trong cuốn “Những đặc điểm thi pháp của các thể   loại văn học dân gian”, ông đã cho người đọc hiểu được những khái niệm về  một số  yếu tố  của thi pháp các thể  loại văn học dân gian, yếu tố  ngôn ngữ,   kết cấu, nhân vật chính, không gian và thời gian nghệ thuật… Tác giả  Tăng Kim Ngân trong  Cổ  tích thần kì Người Việt – Đặc điểm   cấu tạo cốt truyện, NXB KHXH,1994 đã đề cập đến các truyện cổ tích thần   kì, đặc điểm cấu tạo cốt truyện của các truyện cổ tích. 3
  4. Văn học dân gian và những tác phẩm chọn lọc, NXBGD 2004. Tác giả  Bùi Mạnh Nhi đã sưu tầm những tác phẩm văn học dân gian thuộc các thể  loại khác nhau như truyện cười, truyện ngụ ngôn, truyện cổ tích. 2.2. Các công trình nghiên cứu về thế giới nhân vật trong truyện cổ tích Tác giả Nguyễn Bích Hà trong cuốn Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sỹ  trong truyện cổ Việt Nam và Đông Nam Á, khi bàn tới vấn đề  “ Về  cái chết  và sự  hóa thân của nhân vật Lí Thông đã nhận xét: “Cái chết và sự  hóa thân  của những kẻ  ác thành con vật xấu xa chính là thắng lợi tuyệt đối của cái   thiện, của công lí”. Năm 2002, Phạm Thu Yến trên tạp chí văn học số 4 có bài viết kiểu nhân  vật “chàng ngốc” trong truyện cổ  tích các dân tộc Việt Nam đã khẳng định:  kiểu nhân vật chàng ngốc có thể được coi như kiểu nhân vật người em, nhân   vật dũng sĩ, nhân vật người mang lốt trong truyện cổ tích thần kì.[15;235] Năm 2011, Phạm Thị  Thu Huyền lại quan tâm tới   đề  tài kiểu truyện   nhân vật thông minh trong tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt người Việt. Đây  là công trình đi sâu nghiên cứu một kiểu nhân vật trong hệ thống nhân vật của  truyện cổ tích sinh hoạt với các biểu hiện: nhân vật nhỏ tuổi dùng mưu mẹo  giải đố, nhân vật dùng mưu mẹo tham gia kén rể, nhân vật dùng mưu mẹo  xét xử. Trong quá trình khảo sát tư  liệu, chúng tôi nhận thấy nhân vật thông  minh còn là những người vợ, người chồng hay người cha…trong gia đình. Chúng tôi nhận thấy các công trình kể trên đã đề cập đến những vấn đề  lý luận về  thế  giới nhân vật một cách khái quát. Đó là nguồn tài liệu tham  khảo quan trọng giúp chúng tôi có cơ sở lý luận chung cho việc nghiên cứu đề  tài  “Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích chương trình Tiếng Việt Tiểu   học” . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
  5. 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thế giới nhân vật trong truyện cổ  tích ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi khảo sát về  thế  giới nhân vật trong   truyện cổ tích chương trình Tiếng Việt lớp 1, 2, 3, 4, 5 NXB GD,2010 và một   số truyện cổ tích. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ­ Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về thế giới nhân vật trong Truyện   cổ  tích, từ  đó thấy được sự  khác nhau giữa nhân vật loài vật, nhân vật thần   kỳ và nhân vật thế tục. ­ Khảo sát các Truyện cổ tích trong chương trình Tiểu học, chỉ ra những  đặc điểm của thế giới nhân vật. ­ Tìm hiểu thế  giới nhân vật   trong các tác phẩm trong chương trình   Tiếng Việt, rút ra ý nghĩa và bài học góp phần giáo dục học sinh Tiểu học. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng  các phương pháp nghiên cứu   sau: ­ Phương pháp khảo sát, thống kê: Thống kê các truyện cổ tích ở chương  trình Tiếng Việt Tiểu học có nhân vật loài vật, nhân vật thần kỳ, nhân vật  sinh hoạt  từ đó phân loại  các kiểu nhân vật với từng đặc điểm cụ thể ­ Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phân tích các kiểu nhân vật trong   truyện cổ  tích để  thấy được đặc điểm của từng kiểu nhân vật từ  đó tổng   hợp, khái quát và đưa ra kết luận chung. ­ Phương pháp so sánh: So sánh để thấy được điểm khác biệt giữa nhân  vật loài vật, nhân vật thần kỳ và nhân vật sinh hoạt. ­Phương pháp hệ thống: Tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện cổ tích   ở chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học phải dựa trên hệ thống đặc điểm,  nội  5
  6. dung, nghệ  thuật truyện. Phương pháp hệ  thống giúp người viết hệ  thống   hóa thế giới nhân vật ở chương trình Tiểu học. 6. Đóng góp của đề tài Về  mặt lí luận là công trình nghiên cứu một cách có hệ  thống về  các  kiểu nhân vật đặc trưng của truyện cổ  tích Việt Nam trong chương trình  Tiếng Việt ở bậc Tiểu học, đề tài nghiên cứu thế giới nhân vật trong truyện   cổ tích ở chương trình Tiếng Việt Tiểu học. Từ đó phân loại  làm rõ các vấn  đề  về  đặc điểm của từng nhân vật. Góp thêm tiếng nói mới vào vấn đề  nghiên cứu thế giới nhân vật. Ngoài ra đề tài cũng làm nổi bật được vai trò, ý  nghĩa giáo dục chân – thiện – mỹ cho học sinh Tiểu học. Khẳng định những  đóng góp trong nghệ  thuật xây dựng nhân vật của truyện cổ  tích trong hệ  thống các thể loại văn học dân gian Việt Nam. Về  mặt thực tiễn, đề  tài là nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên học  tập, nghiên cứu, giúp cho các giáo viên vận dụng vào giảng dạy truyện cổ  tích trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học. 7. Cấu trúc đề tài Ngoài phần mở  đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa  luận gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Chương 2: Các kiểu nhân vật trong truyện cổ tích ở chương trình Tiếng  việt Tiểu học.         Chương 3: Một số biện pháp nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện  cổ tích ở chương trình Tiếng việt Tiểu học.  6
  7. B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Nhân vật văn học Nhân vật văn học là chủ  thể  phản ánh của tác phẩm văn học. Nhân vật  văn học được xem là linh hồn của tác giả gửi gắm trong đó những ý tưởng để  truyền đạt bức thông điệp vui, buồn, mãn nguyện, bất lực, giả  tạo...để  nói  lên lăng kính của tác giả  với đời thường. Nhân vật văn học có vai trò quan   trọng trong đời sống xã hội và là chủ thể nhận thức của tác giả đưa đến cho   người đọc những cảm nhận nhận thức lý tính và mang tính hình tượng cao.  7
  8. Trong bất cứ một tác phẩm văn học nào cũng đi với nó ít nhất một nhân vật   để tác giả gửi gắm bức thông điệp mang tính xã hội vào trong cuộc sống để  mỗi người có những điều chỉnh về  nhận thức của mỗi cá thể  trong cộng   đồng. Ở đây, nhân vật văn học được thể hiện bằng chất liệu riêng là ngôn từ.  Vì vậy, nhân vật văn học đòi hỏi người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng,  liên tưởng để  dựng lại một con người hoàn chỉnh trong tất cả  các mối quan   hệ của nó. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ,   không thể  bị  đồng nhất với con người có thật. Nhân vật văn học là sự  thể  hiện quan niệm nghệ  thuật của nhà văn về  con người, ý nghĩa của nhân vật  chỉ có được trong hệ thống một tác phẩm cụ thể. Gắn với sáng tác ngôn ngữ  của những thời đại khác nhau, nhân vật văn học in dấu những xu hướng tiến   hóa của tư duy nghệ thuật. Thực tiễn sáng tác đã nêu lên nhiều kiểu nhân vật   văn học, dựa vào vai trò của từng nhân vật mà người ta chia ra thành nhiều  kiểu nhân vật khác nhau như: nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật chính   diện, nhân vật phản diện… Như  vậy, các nhà nghiên cứu lí luận văn học  bằng cách này hay cách khác khi định nghĩa về nhân vật văn học vẫn căn bản   gặp nhau ở những nội dung sau: Thứ  nhất, đó là đối tượng mà văn học miêu tả, thể  hiện bằng phương   tiện văn học. Thứ hai, đó là những con người hoặc những con vật, đồ vật, sự vật, hiện   tượng mang linh hồn con người, đó là hình ẩn dụ về con người. Thứ  ba, đó là đối tượng mang tính  ước lệ  và có cách điệu so với đời  sống hiện thực bởi nó đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của con người   nghệ sĩ tài năng. 1.2. Truyện cổ tích Từ  điển văn học định nghĩa truyện cổ  tích như sau: “Truyện cổ  tích là  loại truyện dân gian có tính phổ  biến, hình thành từ  thời cổ  đại, phát triển,  8
  9. tồn tại qua nhiều thời kì xã hội khác nhau, gắn chặt với quá trình tan rã của   công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ  quyền và phân hóa giai cấp  trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề  cơ  bản, những số  phận, những   quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ biến trong xã hội có giai cấp.   Nó dùng một kiểu tưởng tượng và hư  cấu riêng kết hợp với các thủ  pháp  nghệ  thuật đặc thù để  phản ánh đời sống, và khát vọng của nhân dân, đáp  ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục thẫm mĩ và tiêu khiển của nhân dân, sản   phẩm của trí tưởng tượng phong phú của nhân dân, yếu tố tưởng tượng thần   kỳ  tạo nên một đặc trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực và   ước mơ” (Từ điển văn học, T2, Nxb KHXH,1984,tr452). Bản chất của truyện cổ tích là xây dựng một thế giới nghệ thuật trong   trí tưởng tượng, kì  ảo, phi hiện thực để  thực hiện lí tưởng về  xã hội công   bằng, một thế giới nên có và cần có cho con người.           Truyện cổ tích xây dựng một thế giới hư cấu, kì ảo. Tính chất kì ảo,  hư  cấu của truyện cổ  tích là đặc trưng nổi bật. Thế  giới cổ  tích hấp dẫn   cũng chính ở sự sáng tạo kì ảo đó. Qua truyện cổ tích, người lao động muốn   vẽ nên một thế giới cần có và nên có cho con người chứ không phải là cái thế  giới vốn có với những nỗi đau khổ và bất công.            Vì vậy, truyện cổ  tích là loại truyện dân gian có tính phổ  biến, hình  thành từ  thời cổ  đại, tồn tại, phát triển qua nhiều thời kì xã hội khác nhau,  gắn liền với quá trình tan rã của công xã nguyên thủy, hình thành gia đình phụ  quyền và phân hóa giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đề cơ bản,  những số phận, những quan hệ và xung đột có tính chất riêng tư và phổ  biến   trong xã hội có giai cấp. Nó dùng một kiểu tưởng tượng và hư cấu riêng kết   hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù để phản ánh đời sống và khát vọng  của nhân dân, đáp  ứng nhu cầu nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ và tiêu khiển  của nhân dân. 9
  10. 1.3. Thế giới nhân vật trong truyện cổ tích Thế  giới nhân vật là một tổng thể  những hệ  thống nhân vật được xây  dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự  chi phối của tư  tưởng tác giả.  Thế  giới  ấy cũng mang tính chỉnh thể  trong sáng tác nghệ  thuật của nhà văn   có tổ chức và sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của nghệ sĩ. Nằm   trong thế  giới nghệ  thuật, thế  giới nhân vật cũng là sản phẩm tinh thần, là  kết quả của trí tưởng tượng sáng tạo của nhà văn và chỉ  xuất hiện trong các   tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ thuật. Thế giới nhân vật là cảm nhận   một cách trọn vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân   vật xuất hiện trong tác phẩm, mối quan hệ, môi trường hoạt động của họ, ý  nghĩa tư tưởng, tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế trong giao lưu với   xã hội, với gia đình. Trong thế  giới cổ  tích, nhân vật hết sức phong phú và đa dạng, nó góp  phần làm cho câu chuyện thêm sinh động và là cầu nối đi tới tâm hồn của các  em. Nhân vật xuất hiện trong cổ tích bao giờ  cũng nêu lên những mâu thuẫn  trong quan hệ xã hội, quan hệ gia đình.  1.4. Truyện cổ tích trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học 1.4.1. Khảo sát hệ thống truyện cổ tích trong chương trình Tiểu học Qua  khảo sát  truyện  cổ  tích  trong  chương   trình  Tiếng  việt tiểu  học,  truyện được sắp xếp khá hợp lí trong SGK từ lớp 1 đến lớp 5. Lớp 1 gồm 7  truyện, lớp 2 gồm 8 truyện, lớp 3 gồm 8 truyện, lớp 4 gồm 10 truyện và lớp 5  có 1 truyện.  Nội dung của các truyện cổ tích được dùng làm ngữ liệu để dạy  Tiếng Việt từ đó rèn luyện các kỹ  năng phát triển ngôn ngữ, tư  duy cho học   sinh.  Những câu chuyện cổ  tích được đưa vào chương trình Tiếng Việt tiểu   học nhằm mục đích cung cấp những kinh nghiệm về cách sống, cách ứng xử  cho các em. Theo từng câu chuyện các em sẽ  thấy được từ những phong tục   10
  11. tập quán đến cảnh sắc thiên nhiên qua đó làm tăng thêm vốn hiểu biết cho   học sinh tiểu  học. 1.4.2. Vị trí, ý nghĩa của việc dạy truyện cổ tích đối với học sinh Tiểu học  1.4.2.1. Vị trí Ở  trường Tiểu học, học sinh lĩnh hội truyện cổ  tích qua phân môn kể  chuyện (thuộc môn Tiếng Việt). Đây là một phân môn dạy học lí thú, hấp  dẫn  ở  các lớp trong trường Tiểu học. Tiết kể  chuyện thường được các em   học sinh chờ đón và tiếp thu bằng một tâm trạng hào hứng vui thích. Hầu hết   các trường Tiểu học đều xếp tiết kể chuyện vào cuối tuần nên vô hình chung   tiết kể chuyện trở  thành  một ấn tượng không quên của mỗi tuần đi qua. Ở  những tiết kể  chuyện giáo viên và học sinh dường như  thoát li khỏi sách vở  mà giao hòa tình cảm một cách hồn nhiên thông qua nội dung từng câu chuyện  được kể, thông qua lời kể của cô và lời kể lại của các bạn Phân môn kể  chuyện có một vị  trí quan trọng, được xếp ngay sau phân  môn Tập đọc – học thuộc lòng của bộ  môn Tiếng Việt, trong đó truyện cổ  tích chiếm tới 1/3 số truyện kể đã được đưa vào chương trình để  giảng dạy   cho học sinh. Truyện cổ  tích có một vai trò rất lớn trong việc hình thành và   phát triển nhân cách của trẻ thơ. 1.4.2.2. Ý nghĩa Truyện cổ  tích góp phần giải quyết về  mặt kiến thức, kỹ  năng hình  thành tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh trong việc thực hiện mục tiêu  đào tạo của nhà trường tiểu học. Không những thế, truyện cổ  tích giúp các  em nhận thức một cách đúng đắn, toàn diện lịch sử  của nhân dân mình, đất  nước mình để tìm hiểu thêm đất nước trong hiện tại và tương lai. Bên cạnh  đó, còn giúp các em cảm nhận được vẻ đẹp của nền văn hóa đậm đà bản sắc   dân tộc thông qua ngôn ngữ được sử dụng trong từng câu chuyện sẽ giúp các   em có được cách  ứng xử  hợp lý, có văn hóa, những câu chuyện đó còn góp  11
  12. phần giúp các em có lối sống đẹp, đó là lối sống nhân ái, thẳng thắn, biết  bênh vực đấu tranh cho cái đúng, loại trừ  những điều xấu xa. Trên cơ  sở  đó  góp phần xây dựng nhân cách cho các em, nhân cách của con người xã hội  chủ nghĩa. Vì vậy, nó có vai trò, ý nghĩa hết  sức quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học. CHƯƠNG 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH Ở  CHƯƠNG TRÌNH TIẾNG VIỆT TIỂU HỌC 2.1. Nhân vật loài vật Những truyện kể về loài vật chắc hẳn đã nảy sinh từ nhu cầu của người   thời cổ, đặc biệt là người săn bắt, muốn đúc kết những kinh nghiệm và hiểu   biết về đời sống và tập tính của một số các con vật ít nhiều có liên quan đến  cuộc sinh tồn của họ để truyền dạy cho lớp người trẻ. Về sau, những truyện   kể   ấy mất dần tính chất thần thoại, trở  thành truyện cổ  tích về  loài vật.   Trong thế giới cổ tích, nhân vật loài vật hết sức phong phú và đa dạng. Bước   vào thế giới nhân vật này, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều con vật gần gũi  xung quanh cuộc sống. 2.1.1. Nhân vật loài thú Ta thấy loài vật cũng có mối quan hệ gia đình, bạn bè, thù địch. Tác giả  dân gian đã biến những loài vật bình thường trở nên sinh động, mượn thế giới   loài vật ấy để nói lên cuộc sống, những điều gặp phải trong xã hội và muốn   thông qua đây răn dạy cho con người những điều hay, lẽ  phải. Quan hệ  bạn  bè giúp đỡ lẫn nhau, thể hiện được mối quan hệ tương trợ. Thế giới loài vật   đa dạng, phong phú. Chúng sống với nhau và có mối quan hệ tương quan. Với   câu chuyện Cóc kiện trời, những nhân vật đã tạo nên một bức tranh toàn cảnh  về  cuộc sống  và mối quan hệ  của chúng. Với các đại từ  xưng hô tôi, bác,   chú, anh, chị…cho ta thấy một điều, các con vật sống với nhau rất hòa thuận,   tình cảm và rất đoàn kết.  12
  13. Vì thế   ở  truyện cổ  tích loài vật vừa có nội dung sinh hoạt vừa có nội  dung mang ý nghĩa xã hội với những mức độ  khác nhau, và hai mặt nội dung  đó gắn bó hòa quyện với nhau rất chặt nhiều khi rất khó tách bạch. Truyện  cổ  tích loài vật ngoài việc phản ánh sự  ra đời, đặc điểm của các loài vật,   những con vật nuôi hoang dã hoặc trong nhà con gián tiếp phản ánh mối quan  hệ  giữa con người với con người. Những con vật trong cổ tích loài vật hầu  hết đều được nhân cách hóa biết nói năng, suy nghĩ, và hành động như  con   người.  2.1.2. Nhân vật loài Chim Thế  giới loài Chim muôn màu muôn vẻ  với đầy đủ  màu sắc. Là bạn bè  với nhau, các con vật luôn muốn giúp đỡ bạn mình trở nên tốt hơn, đẹp hơn.  Đó mới là tình bạn chân chính thật sự. Tuy là những loài vật nhưng qua trí  tưởng tượng và óc sáng tạo của tác giả dân gian chúng lại trở nên sinh động,   có tình cảm, có cuộc sống và các mối quan hệ  với cộng đồng loài như  của   con người. Truyện cổ  tích là sáng tạo của nhân dân, đó là trí tưởng tượng của con  người để giải thích cho sự hình thành thế giới nhân vật loài vật một cách đơn   giản, và có những câu chuyện hết sức cảm động và ý nghĩa. Nó thể hiện mối   quan hệ của các loài vật như của con người với mong ước một cuộc sống ấm   no, hạnh phúc trong đó tình yêu thương của những người trong gia đình, sự  quan tâm của bạn bè dành cho nhau và những người xung quanh giúp đỡ nhau  lúc gặp khó khăn. Đây là những câu chuyện mang tính giáo dục cao, cung cấp  cho các em nhiều kiến thức bổ ích và nhiều điều đáng để các em học tập. 2.2. Nhân vật thần kì 13
  14. Nhân vật của truyện cổ tích thần kì là con người thường bé nhỏ mà chủ  yếu là những nhân vật bất hạnh như  người mồ  côi, người đi  ở, người con  riêng.  Các nhân vật này luôn đại diện cho cái thiện. Đối lập với những nhân  vật đại diện cho cái thiện là những nhân vật đại diện cho cái ác. Chính thế  giới thần kì, màu nhiệm này khiến cho truyện cổ tích thần kì mang đậm yếu  tố  kì  ảo và đề  cao trí tưởng tượng phong phú lãng mạn của các tác giả  dân   gian. Kết thúc truyện cổ tích thần kì thường có hậu, mang lại sự vui vẻ, lạc   quan, thỏa mãn mơ  ước của nhân dân. Những kết thúc có hậu như  nhân vật   bất hạnh được đổi đời và sống thật hạnh phúc, còn nhân vật ác thì trừng phạt   một cách chính đáng là sự biểu hiện của khát vọng, ước mơ về sự công bằng,  cuộc sống hạnh phúc, sung túc của nhân dân lao động. Lực lượng thần kì trong truyện cổ tích là kết quả sáng tạo kì ảo của tác  giả  dân gian. Đó là một thế  giới bao hàm những nhân vật siêu nhiên, những   phép màu nhiệm, sự  biến hóa thần thánh kì  ảo. Trong truyện cổ  tích, lực  lượng thần kì giữ  vai trò quan trọng trong việc tạo nên yếu tố  hấp dẫn li kì   của kiểu truyện. Yếu tố thần kì xuất hiện trong thế giới của lực lượng thần   kì có thể  coi là một phương tiện nghệ  thuật giúp cho tác giả  dân gian giải  quyết những mâu thuẫn xung đột của con người trong đời sống thường ngày.  2.2.1. Nhân vật tài giỏi, dũng sĩ Nhân vật tài giỏi, dũng sĩ, nhân vật chính lập công, diệt trừ  cái ác, bảo   vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người. Trong truyện Bốn anh tài (TV 4/ tập 2) .  Nội dung ngày xưa, bản kia có  một chú bé tuy nhỏ  nhưng ăn một lúc hết chín chõ xôi. Dân bản đặt tên cho  chú là Cẩu Khây. Cẩu Khây lên mười tuổi, sức đã bằng trai mười tám, mươi   lăm tuổi đã tinh thông võ nghệ. Hồi ấy, trong vùng xuất hiện một con yêu tinh   chuyên bắt người và súc vật. Chẳng mấy chốc làng bản tan hoang, nhiều nơi   không còn ai sống sót. Thương dân bản Cẩu Khây quyết chí lên đường diệt   14
  15. trừ yêu tinh. Đến một cánh đồng khô cạn, Cẩu Khây thấy một cậu bé vạm vỡ  đang dùng tay làm vồ  đóng cọc để  đắp đập dẫn nước vào ruộng. Mỗi quả  đấm của cậu giáng xuống, cọc tre thụt sâu hàng gang tay. Hỏi chuyện, Cẩu  Khây biết tên cậu là Nắm Tay Đóng Cọc. Nắm Tay Đóng Cọc sốt sắng xin   được cùng Cẩu Khây đi diệt trừ yêu tinh. Đến một vùng khác, hai người nghe  thấy tiếng tát nước ầm ầm. Họ ngạc nhiên thấy một cậu bé đang lấy vành tai   tát nước suối lên một thửa ruộng cao bằng mái nhà. Nghe Cẩu Khây nói  chuyện, Lấy Tai Tát Nước hăm hở cùng hai bạn lên đường. Đi được ít lâu, ba  người lại gặp một cậu bé đang ngồi dưới gốc cây, lấy móng tay đục gỗ thành  lòng máng dẫn nước vào ruộng. Cẩu Khây cùng các bạn đến làm quen và nói   rõ chí hướng của ba người. Móng Tay Đúc Máng hăng hái xin được làm em út   đi theo. Bốn anh tài: Cẩu Khây, Nắm Tay Đóng Cọc, Lấy Tai Tát Nước,   Móng Tay Đúc Máng lên đường. Câu chuyện ca ngợi sức khỏe, tài năng lòng   nhiệt thành làm việc nghĩa của bốn anh em Cẩu Khây. 2.2.2. Nhân vật siêu nhiên Đây là những lực lượng không có trong thực tế mà chỉ được biểu hiện rõ  nhất, sống động nhất  ở  trong niềm tin và trí tưởng tượng của nhân dân lao   động. Họ  là những hình tượng được khái quát hóa, hình tượng hóa và thần   thánh hóa các lực lượng xã hội theo quan niệm và lý tưởng của nhân dân trong  xã hội có giai cấp mà chủ yếu là xã hội phong kiến.  Ngoài lực lượng siêu nhiên như  Ngọc Hoàng, Diêm Vương còn có các  thần thánh cõi thủy phủ, long cung là vua thủy tề trong các truyện như Thạch   Sanh… Các lực lượng như Tiên, Bụt, Phật là những lực lượng thần thánh rất   gần   gũi   với   những   con   người   nghèo   khổ,   bất   hạnh   trong   truyện   cổ   tích.  Những nhân vật thần kì này, xuất hiện cứu giúp người lương thiện, trừng trị  kẻ gian ác. 15
  16. Con vật thần kì bao gồm Chim thần, rắn thần, rùa thần, khỉ, trăn tinh, hồ  tinh, ma quỷ  yêu quái…Lực lượng thần kì này rất đa dạng và phong phú, có   thể  chia thành hai kiểu: Đó là những con vật thần đứng về  phe thiện hoặc   mang tính chất trung lập, vô tư, không thiên vị phía nào. Đây là một trong những yếu tố thần kì rất quan trọng trong thế giới nhân   vật cổ tích. Sự biến hóa kì ảo này được biểu hiện qua rất nhiều phương diện   như  từ  vật biến hóa thành người, đầu thai, người biến hóa thành các loài   động vật, thực vật, đồ  vật…Sự  biến hóa  ấy được gọi chung là mô típ hóa  thân – đây là một mô típ góp phần thể  hiện tư  tưởng, quan niệm sống của   nhân dân lao động. Đọc truyện cổ tích Việt Nam, ta thấy xuất hiện rất nhiều   yếu tố biến hóa kì ảo. Thực chất các nhân vật trong truyện cổ tích không tự biến hóa một cách  ngẫu nhiên mà đều do dụng ý nghệ  thuật của tác giả  dân gian. Tác giả  đã  sáng tạo vào những câu chuyện cổ tích của mình nhằm giải thích những hiện   tượng, nguồn gốc của các con vật, loài vật, địa danh, phong tục tập quán,  quan trọng hơn cả là thể hiện ý nghĩa xã hội, nhân văn sâu sắc thông qua việc  kéo dài sự sống cho con người, hóa giải bi kịch và trừng phạt kẻ ác. 2.3. Nhân vật sinh hoạt  Thế  giới nhân vật trong truyện cổ  tích sinh hoạt Việt Nam khá phong  phú và đa dạng. Việc đưa ra các kiểu loại nhân vật chính trong tiểu loại  truyện cổ  tích sinh hoạt đã được rất nhiều nhà nghiên cứu văn học dân gian  đề cập đến trong các bài viết hoặc các công trình nghiên cứu. Truyện cổ tích   sinh hoạt ngoài lối kết thúc có hậu, nhiều truyện còn có lối kết thúc bi kịch,  các nhân vật chính đều phải chết hoặc ra đi biệt tích nhưng tinh thần lạc quan  vẫn tỏa sáng, vì những cái chết  ấy hay sự  ra đi biệt tích của các nhân vật  chính diện làm tăng thêm niềm tin và sự  khẳng định đối với phẩm chất cao   đẹp của con người chân chính. 16
  17. 2.3.1. Nhân vật đức hạnh Nhân vật đức hạnh là nhân vật mang trong mình những phẩm chất đáng   trân trọng như  giàu lòng vị  tha, giàu đức hi sinh, là người hết lòng vì người   khác khi khó khăn…Khảo sát trong truyện cổ  tích sinh hoạt thì có rất nhiều  truyện xuất hiện nhân vật đức hạnh. Nhân vật đức hạnh được thể  hiện rất  đa dạng như: tình cảm bà cháu,   người vợ  đức hạnh, người chồng chung  thủy, người cha – người mẹ hết lòng yêu thương con cái, người con nuôi hiếu  thảo, người bạn trọng tình, trọng nghĩa. Kiểu nhân vật đức hạnh chiếm số lượng lớn trong tiểu loại cổ tích sinh   hoạt. Điều này thể  hiện sự  nhìn nhận khách quan về  cuộc sống của tác giả  dân gian. Nó cho thấy trong cuộc sống có rất nhiều người  tốt, rất nhiều   người tình nghĩa. Người tốt thường gặp nhiều thử thách, khó khăn. Họ có thể  vượt qua hay không vượt qua được. Qua những thử thách khó khăn đó phẩm  chất của họ  được bộc lộ, tỏa sáng. Với việc tạo dựng nhiều nhân vật tốt  đẹp, nhân dân ta muốn họ là những tấm gương về đạo đức và cách cư xử để  từ đó chúng ta học tập và noi theo. 2.3.2. Nhân vật xấu xa         Trong xã hội luôn có người tốt và kẻ xấu. Xuất phát từ  thực tế  đó, tác  giả dân gian đã xây dựng nhiều kiểu nhân vật xấu xa. Nếu như nhân vật tốt  đẹp mang trong mình những phẩm chất cao quý, tốt đẹp thì nhân vật xấu xa  hoàn toàn ngược lại. Nhân vật xấu xa là những nhân vật có những thói hư, tật  xấu như  tham lam, ích kỷ, độc ác, bất nhân bất nghĩa, lẳng lơ, lười biếng,  ghen tuông…Họ vì lợi ích, vì hạnh phúc của cá nhân mình quên hết gia đình,  người thân và bạn bè.  Như  vậy, xây dựng nhân vật xấu xa, tác giả  dân gian chú ý đến phẩm   chất, tính cách, hành động của họ. Đây là tiêu chí đánh giá người xấu xa. Hầu  hết, những người  xấu xa đều không chiến thắng được chính bản thân mình   17
  18. trước những cám dỗ  của cuộc đời. Họ  bị  vàng bạc, nhung lụa, danh tiếng,   dục vọng làm mờ  mắt, không còn tỉnh táo để  nhìn ra phải trái. Họ  sẵn sàng   làm những việc bất nhân bất nghĩa để đạt được dục vọng, vinh hoa phú quý.  Xây dựng nhân vật người xấu xa, tác giả  dân gian muốn phê phán họ, muốn  họ phải trả giá cho những hành động sai lầm của mình. 2.3.3. Nhân vật thông minh Truyện cổ tích sinh hoạt khi xây dựng kiểu nhân vật thông minh, mưu trí  đã rất chú ý đến một đối tượng mới mà các thể  loại khác ít đề  cập đó là  những em bé thông minh. Các em bé thông minh này đều là những đứa con có  hiếu, chúng luôn tìm mọi cách giúp cha mẹ, gia đình vượt qua khó khăn, thử  thách.  Ước mơ  về  cuộc sống tốt đẹp công bằng của nhân dân được gửi gắm  vào trí tuệ. Sự  công tâm của những ông quan thanh liêm. Xuất phát từ  chính   hiện thực cuộc sống còn nhiều bất công, ngang trái, các tác giả  dân gian đã  xây dựng thành công nhân vật thông minh mưu trí là các ông quan. Đặc điểm   nổi bật của các ông quan mưu trí được thể  hiện rõ nét khi xử  kiện, các ông  quan đã kết hợp giữa lý và tình, giữa trí tuệ bản thân và kinh nghiệm dân gian   trong công việc xét xử.  Việc xây dựng nhân vật thông minh mưu trí đã làm cho thế giới nhân vật  trong truyện cổ  tích trở  nên đa dạng, phong phú. Con người bằng trí tuệ, tài  năng, sự  nhanh nhẹn và và mưu trí của mình đã giành được thắng lợi, giành   được hạnh phúc. Thông qua kiểu nhân vật thông minh, tác giả dân gian muốn  đề cao sức mạnh trí tuệ của con người. Chính trí tuệ  của con người, đã giúp  họ  làm chủ  được số  phận của chính mình, chiến thắng được những thế  lực  đàn áp. 2.3.4. Nhân vật ngốc nghếch 18
  19. Truyện cổ  tích sinh hoạt ra đời khi tư  duy con người đã chiếm  ưu thế  hơn hẳn so với lối tư  duy cảm tính có yếu tố ảo tưởng trong truyện cổ tích   thần kỳ. Với lối tư duy “hiện thực tỉnh táo” đã giúp tác giả dân gian phát hiện  ra một đối tượng mới đó là nhân vật ngốc nghếch. Những nhân vật ngốc  nghếch ấy này đã đối lập hoàn toàn với kiểu nhân vật thông minh.  Xây dựng kiểu nhân vật Ngốc, tác giả  dân gian muốn thể  hiện rõ quan  niệm sự  ngốc nghếch, thiếu hiểu biết là không thể  chấp nhận được trong  cuộc sống nhưng cũng không phải là cái khiến cho nhân dân căm phẫn cao độ.   Tác giả dân gian để  nhân vật Ngốc phải chịu hậu quả của sự ngu dốt, ngốc  nghếch của mình là cái chết, chỉ  để  nhấn mạnh, khắc họa sâu sắc bài học  thất bại của những con người không nắm được quy luật của tự  nhiên, của   cuộc sống để  có cách  ứng xử  hợp lý. Vì vậy, con người cần phải linh hoạt   trong hành động sao cho phù hợp với hoàn cảnh sống. Nếu con người cứ máy  móc, không làm chủ  được suy nghĩ và hành động của mình thì sẽ  gặp thất   bại. Qua kiểu nhân vật ngốc nghếch, tác giả  dân gian muốn gửi vào đó mục  đích giáo dục, răn dạy con người phải biết  ứng xử  hợp lí với hoàn cảnh,  đừng rập khuôn, máy móc, phải biệt trang bị  cho mình những kiến thức cơ  bản. Ngoài ra, với kiểu nhân vật này làm cho thế  giới nhân vật trong truyện  cổ tích sinh hoạt đa dạng hơn, tạo thêm tiếng cười, niềm vui trong cuộc sống  vất vả của người lao động. Với sự hiện diện của bốn kiểu nhân vật: đức hạnh, xấu xa, thông minh,  ngốc nghếch, truyện cổ tích sinh hoạt đã góp phần làm cho hệ thống nhân vật   trong truyện cổ  tích Việt Nam phong phú, đa dạng hơn. Mỗi kiểu loại nhân  vật có đặc điểm riêng, thậm chí có sự  đối lập hoàn toàn nhưng nó có khái  quát toàn bộ hạng người trong xã hội. Với việc xây dựng thành công bốn kiểu  loại nhân vật đó, tác giả dân gian đã khái quát được hiện thực cuộc sống vốn   19
  20. đa dạng, phức tạp của nó. Thông qua bốn kiểu nhân vật này, tác giả dân gian  muốn gửi gắm khát vọng hạnh phúc, công bằng trong mỗi câu chuyện. Truyện cổ tích là tiếng nói ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của những   con người lao động hiền lành, chân thật, sống với lòng hiếu thảo, tình yêu tha   thiết và sự chung thuỷ qua các kiểu nhân vật người em, người mồ côi, người   xấu xí, người con dâu, nhân vật con thú, loài chim, nhân vật siêu nhiên, tài   giỏi, dũng sĩ… Đồng thời, truyện cổ  tích còn là những giấc mơ  đẹp của  người thời xưa về một xã hội công bằng, con người được sống khoẻ  mạnh,   no ấm và hạnh phúc. Truyện cổ tích hấp dẫn người đọc bởi truyện đã chiếu   rọi ánh sáng lạc quan tin tưởng vào cuộc sống. Ở đây, cuộc đấu tranh giữa cái   thiện và cái ác rất quyết liệt nhưng bao giờ cái thiện cũng chiến thắng.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2