Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
SIÊU ÂM XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH CHIỀU DÀI <br />
KÊNH CỔ TỬ CUNG Ở THAI PHỤ SONG THAI TỪ 20 ĐẾN 24 TUẦN <br />
Lê Hoa Duyên*, Lê Hồng Cẩm* <br />
<br />
TÓM TẮT <br />
Mở đầu: Sinh non là nguồn gốc chính của bệnh suất và tử suất chu sinh trong song thai. Ngày nay, khảo <br />
sát cổ tử cung (CTC) bằng siêu âm đầu dò âm đạo là phương pháp thường được sử dụng để theo dõi các thai kỳ <br />
song thai, bởi vì cổ từ cung ngắn đo được trên siêu âm là một yếu tố nguy cơ quan trọng trong tiên lượng sinh <br />
non. Theo hướng dẫn thực hành lâm sàng của Hội Sản Phụ Khoa Cananda năm 2011, phương pháp đo chiều dài <br />
kênh cổ tử cung bằng siêu âm có thể phát hiện những trường hợp song thai có nguy cơ sinh non cao. Mục tiêu: <br />
Xác định giá trị trung bình của chiều dài kênh CTC bằng siêu âm đầu dò âm đạo ở thai phụ song thai từ tuần 20 <br />
đến tuần 24. Xác định mối liên quan giữa chiều dài kênh CTC với các yếu tố dịch tễ và đặc điểm lâm sàng. <br />
Đối tượng ‐ Phương pháp nghiên cứu: Đây là thiết kế nghiên cứu cắt ngang, theo đó các đối tượng <br />
nghiên cứu được phỏng vấn và siêu âm để thu thập dữ liệu tại một thời điểm. Các thai phụ mang song thai có <br />
tuổi thai từ 20 tuần đến 24 tuần 6 ngày đến khám tại phòng khám thai tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng 10/2012 <br />
đến tháng 4/2013.Sau khi được khảo sát hình thái học thai nhi, thai phụ sẽ được siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử <br />
cung bằng đầu dò âm đạo. <br />
Kết quả: Giá trị trung bình chiều dài kênh CTClà 33,0 ± 6,1 mm. Giá trị trung vị chiều dài kênh CTC là <br />
34,1 mm (7,3 – 44,4). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi, chỉ số khối cơ thể, nghề <br />
nghiệp, trình độ học vấn, số con, tiền căn sảy thai, đặc điểm có thai, loại song thai với giá trị trung bình chiều dài <br />
kênh CTC. Giá trị trung bình chiều dài kênh CTC ở nhóm thai phụ sống ở ngoại thành ngắn hơn trung bình <br />
chiều dài kênh CTC ở nhóm thai phụ sống ở nội thành(p=0,02).Cần có thêm các nghiên cứu đoàn hệ trong tương <br />
lai nhằm khảo sát sự thay đổi chiều dài kênh CTC ở các thai phụ song thai từ 3 tháng đầu cho đến lúc sinh. <br />
Từ khóa: chiều dài kênh cổ tử cung, song thai, sinh non. <br />
<br />
ABSTRACT <br />
IDENTIFICATION OF THE MEAN VALUE OF THE CERVICAL LENGTH IN WOMEN <br />
WITH TWIN PREGNANCIES AT 20 ‐ 24 WEEKS GESTATION <br />
Le Hoa Duyen, Le Hong Cam * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 87‐94 <br />
Introduction: Twin pregnancies are associated with a significantly higher rate of perinatal morbidity and <br />
mortality compared with singleton pregnancies Sonographic assessment of the cervical length can predict the <br />
elevated risk of preterm delivery for twins. According to SOGC Clinical practice guidelines 2011, transvaginal <br />
ultrasound assessment of the cervival length should be performed for screening the risk of preterm birth in twins. <br />
Objective: To identify the mean value of the cervical length and the associated factors to it in women with twin <br />
pregnancies at 20‐24 weeks gestation. <br />
Methods: A cross‐sectional study was conducted at Tu Du hospital from October 2012 to April 2013. <br />
Cervical length was measured by transvaginal sonography at 20‐24 weeks gestation in 161 twin pregnancies <br />
attending routine antenatal care. <br />
Results: The mean cervical length was 33.0 ± 6.1 mm. The median cervical length was 34.1 mm (7.3 – <br />
* Bộ môn phụ sản Đại học Y dược TPHCM <br />
Tác giả liên lạc: PGS. TS. Lê Hồng Cẩm <br />
<br />
Sản Phụ Khoa<br />
<br />
ĐT: 0913 645517 <br />
<br />
Email:: lehongcam61@yahoo.com <br />
<br />
87<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
44.4). There was no correlation between cervical length and maternal age, body mass index, occupation, <br />
education, parity, previous miscarriage, natural or ART pregnancy, or types of twins. There was also a <br />
correlation between cervical length of patients from the inner cities and suburban areas (34.7 mm vs. 32.1 mm, p <br />
= 0.02). <br />
Conclusion: The mean cervical length in women with twin pregnancies at 20‐24 weeks gestation was 33.0 <br />
± 6.1 mm. Further longitudinal research should be conducted to assess the cervical length to determine the risk <br />
factors of preterm birth. <br />
Key words: cervical length, twin pregnancies, preterm birth. <br />
kết luận rằng chiều dài kênh CTC từ 15 milimét <br />
MỞ ĐẦU <br />
đến 30 milimét đo được từ tuần thứ 18 đến tuần <br />
Từ những năm 1980, phương pháp siêu âm <br />
thứ 26 có liên quan đến việc tăng nguy cơ sinh <br />
đo chiều dài kênh CTC được sử dụng nhằm <br />
non ở song thai(3,6,12,17). <br />
phát hiện những thai phụ có nguy cơ sinh non. <br />
Tại Việt Nam, có một số nghiên cứu về siêu <br />
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã kết luận nguy <br />
âm đo chiều dài kênh CTC và hiện vẫn chưa có <br />
cơ sinh non có mối tương quan nghịch với chiều <br />
nghiên cứu nào thực hiện siêu âm đánh giá cổ tử <br />
dài kênh cổ tử cung được đo bằng siêu âm đầu <br />
cung <br />
ở những thai kỳ song thai. Vì vậy, chúng <br />
dò âm đạo (2,3,16). Nếu chiều dài kênh cổ tử cung <br />
tôi tiến hành nghiên cứu “Siêu âm xác định giá <br />
ngắn đi, nguy cơ sinh non sẽ tăng lên nhiều lần. <br />
trị trung bình chiều dài kênh cổ tử cung ở thai <br />
Việc phát hiện chiều dài kênh cổ tử cung ngắn <br />
phụ song thai từ 20 đến 24 tuần”. <br />
giúp phát hiện nguy cơ sinh non sớm, từ đó có <br />
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br />
những biện pháp theo dõi, điều trị kịp thời, <br />
nhằm ngăn chặn cuộc chuyển dạ sinh non hoặc <br />
Thiết kế nghiên cứu <br />
kéo dài tuổi thai nhằm giúp tăng khả năng sống <br />
Nghiên cứu cắt ngang, các đối tượng nghiên <br />
sót và giảm những biến chứng chu sinh ở trẻ <br />
cứu được phỏng vấn và siêu âm để thu thập dữ <br />
sinh non. <br />
liệu tại một thời điểm. Thời điểm nghiên cứu từ <br />
Song thai là một trong các yếu tố nguy cơ <br />
tháng 9 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013. Địa <br />
gây sinh non(1,16,17). Song thai chiếm tỷ lệ khoảng <br />
điểm nghiên cứu là phòng Khám thai và khoa <br />
1% tất cả các cuộc sinh và tỷ lệ này ngày càng <br />
Siêu âm của bệnh viện Từ Dũ. Đề tài nghiên cứu <br />
tăng lên do sự phát triển của các kỹ thuật hỗ trợ <br />
được sự phê chuẩn của Hội đồng Khoa học <br />
sinh sản trong điều trị vô sinh. Sinh non là <br />
thuộc Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh <br />
nguồn gốc chính của bệnh suất và tử suất chu <br />
và Hội đồng Khoa học thuộc bệnh viện Từ Dũ. <br />
sinh trong song thai(3). Khoảng 57% song thai <br />
Tất cả các thai phụ tham gia đều được giải thích <br />
được sinh trước 37 tuần tuổi thai, bao gồm <br />
mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, sau đó thai <br />
chuyển dạ sinh non tự phát và chỉ định chấm <br />
phụ ký bảng đồng thuận tham gia nghiên cứu. <br />
dứt thai kỳ vì lý do y khoa(1,5). Theo hướng dẫn <br />
Đối tượng nghiên cứu <br />
thực hành lâm sàng của Hội Sản Phụ Khoa <br />
Các thai phụ mang song thai có tuổi thai từ <br />
Cananda năm 2011, phương pháp đo chiều dài <br />
20 tuần đến 24 tuần 6 ngày đến khám tại <br />
kênh cổ tử cung bằng siêu âm có thể phát hiện <br />
phòng khám thai tại bệnh viện Từ Dũ từ tháng <br />
những trường hợp song thai có nguy cơ sinh <br />
10/2012 đến tháng 4/2013. Tuổi thai được xác <br />
non cao(12). Ngày nay, khảo sát cổ tử cung bằng <br />
định dựa theo kinh chót (đối với thai phụ có <br />
siêu âm đầu dò âm đạo là phương pháp <br />
chu kỳ 28 – 30 ngày đều) hoặc siêu âm 3 tháng <br />
thường được sử dụng để theo dõi các thai kỳ <br />
đầu. Nếu chênh lệch giữa tuổi thai qua 2 cách <br />
song thai, bởi vì cổ từ cung ngắn đo được trên <br />
tính ≥ 7 ngày, chúng tôi chọn tuổi thai được <br />
siêu âm là một yếu tố nguy cơ quan trọng <br />
(5,11,13)<br />
tính theo siêu âm 3 tháng đầu. Những thai phụ <br />
. Nhiều tác giả <br />
trong tiên lượng sinh non<br />
<br />
88<br />
<br />
Chuyên Đề Sức Khỏe Sinh Sản và Bà Mẹ Trẻ em <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br />
không có siêu âm 3 tháng đầu và không nhớ rõ <br />
kinh chót đều không được chọn vào nhóm <br />
nghiên cứu.Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: Song <br />
thai có chỉ định chấm dứt thai kỳ vì lý do y <br />
khoa (nhiễm trùng bào thai, dị tật nặng, bất <br />
thường di truyền), hội chứng truyền máu <br />
trong song thai, hội chứng truyền máu động <br />
mạch đảo ngược, thai phụ có triệu chứng của <br />
dọa sinh non hoặc chuyển dạ sinh non (đau <br />
bụng, ra nhớt hồng âm đạo, ra nước âm đạo, <br />
cổ tử cung ≥ 2cm và có hiện tượng xóa (chẩn <br />
đoán qua khám âm đạo)), ra huyết âm đạo <br />
chưa rõ nguyên nhân, nhau bám thấp, nhau <br />
tiền đạo, đa ối, khâu eo tử cung, u xơ tử cung, <br />
thai phụ có bệnh lý nặng không thể tiếp tục <br />
duy trì thai kỳ (sản giật, tiền sản giật nặng, <br />
bệnh tim phổi mạn tính nặng, bệnh thận giai <br />
đoạn cuối, xơ gan mất bù, bệnh ác tính mới <br />
chẩn đoán hoặc đang điều trị). <br />
<br />
Quy trình nghiên cứu <br />
Các thai phụ hội đủ tiêu chuẩn chọn bệnh sẽ <br />
được phỏng vấn, khám lâm sàng, cận lâm sàng <br />
theo bảng câu hỏi soạn sẵn. Sau khi được phỏng <br />
vấn, thai phụ được khám thai theo quy trình <br />
khám thai ở bệnh viện Từ Dũ: Đo mạch, huyết <br />
áp, đánh giá mức độ phù (nếu có), cân nặng, đo <br />
bề cao tử cung, nghe tim thai, thai phụ được <br />
được hướng dẫn cách lấy nước tiểu để làm tổng <br />
phân tích nước tiểu, đo điện tâm đồ. Sau đó, thai <br />
phụ được đưa đến phòng siêu âm để khảo sát <br />
hình thái học thai nhi và siêu âm đo chiều dài <br />
kênh cổ tử cung. <br />
Kỹ thuật đo chiều dài CTC qua siêu âm ngả <br />
âm đạo như sau: Thai phụ được dặn dò đi tiểu <br />
ngay trước khi tiến hành siêu âm. Thai phụ nằm <br />
ngửa, hai gối gập, đùi gập vào bụng. Đầu dò âm <br />
đạo được bao bằng bao cao su và có một ít gel ở <br />
đầu. Người siêu âm báo cho thai phụ biết bắt <br />
đầu siêu âm, và yêu cầu thai phụ thư giãn, hợp <br />
tác. Đầu dò âm đạo với tần số 5 MHz được nhẹ <br />
nhàng đưa vào âm đạo theo thành trước của âm <br />
đạo cho đến khi thấy hình ảnh cổ tử cung xuất <br />
hiện trên màn ảnh siêu âm, rút nhẹ đầu dò ra <br />
cho đến khi hình ảnh bị mờ đi, đẩy nhẹ đầu dò <br />
<br />
Sản Phụ Khoa<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
trở lại vào âm đạo từ từ cho đến khi hình ảnh cổ <br />
tử cung hiện rõ, không ấn đầu dò lên cổ tử cung. <br />
Điều chỉnh đầu dò sao cho thấy được toàn bộ <br />
hình ảnh cổ tử cung: lỗ trong, lỗ ngoài, kênh cổ <br />
tử cung trên cùng một mặt cắt. Điều chỉnh máy <br />
siêu âm cho hình ảnh rõ nét nhất và hình ảnh cổ <br />
tử cung chiếm toàn bộ màn hình. Tiếp theo là đo <br />
chiều dài kênh CTC. Tiến hành đo 3 lần, giá trị <br />
ngắn nhất sẽ được dùng để phân tích. Kỹ thuật <br />
siêu âm đo chiều dài kênh cổ tử cung bằng đầu <br />
dò âm đạo được thực hiện theo “Hướng dẫn <br />
đánh giá cổ tử cung”, được in trong sách Siêu <br />
âm Sản phụ khoa ấn bản lần thứ 5 năm 2008(2). <br />
Đối với các trường hợp thai phụ mang song <br />
thai có chiều dài kênh CTC ngắn (≤ 25 mm) sẽ <br />
được điều trị dự phòng sinh non theo phác đồ <br />
của bệnh viện Từ Dũ. <br />
<br />
Công cụ thu thập số liệu <br />
Sổ khám thai của thai phụ, bảng tính tuổi <br />
thai, phiếu thu thập số liệu, máy siêu âm có đầu <br />
dò bụng và đầu dò âm đạo Medison X6. <br />
<br />
Phân tích dữ liệu <br />
Toàn bộ số liệu thu thập sẽ được quản lý <br />
bằng phần mềm EXCEL 2007 và xử lý bằng <br />
phần mềm SPSS 11.5. Các biến số định tính được <br />
trình bày dưới dạng tần suất, tỷ lệ %. Các biến số <br />
định lượng được trình bày dưới dạng giá trị <br />
trung bình và độ lệch chuẩn nếu là phân phối <br />
chuẩn, hoặc giá trị trung vị và các bách phân vị <br />
nếu không là phân phối chuẩn. Sau khi tính giá <br />
trị trung bình và tìm đặc điểm phân bố của <br />
chiều dài kênh CTC, chúng tôi sẽ dùng các phép <br />
kiểm để khảo sát mối tương quan giữa chiều dài <br />
CTC với các yếu tố: tuổi, nơi ở, nghề nghiệp, chỉ <br />
số khối cơ thể, số lần sinh con, tiền căn sản khoa, <br />
loại song thai, đặc điểm có thai và tuổi thai lúc <br />
sinh. Chúng tôi dùng kiểm định Chi bình <br />
phương hoặc phép kiểm Fisher cho các biến <br />
định tính. Đối với các biến định lượng, nếu sự <br />
phân bố các giá trị chiều dài kênh CTC theo <br />
phân phối chuẩn, chúng tôi sử dụng phép kiểm <br />
Student‐T, One Way ANOVA; nếu sự phân bố <br />
các giá trị chiều dài kênh CTC không theo phân <br />
phối chuẩn: sự tương quan giữa các biến số nếu <br />
<br />
89<br />
<br />
Nghiên cứu Y học <br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br />
<br />
có sẽ được khảo sát bằng phép kiểm phi tham <br />
số. Giá trị p ≤ 0,05 được xem là có ý nghĩa thống <br />
kê. Chúng tôi cũng phân tích hồi quy logistic để <br />
khảo sát mối liên hệ giữa các yếu tố tuổi mẹ, <br />
chiều cao, chỉ số khối cơ thể, nơi ở, số lần sinh <br />
con, đặc điểm có thai, loại song thai, tiền căn sản <br />
khoa với chiều dài kênh CTC ngắn hơn 25 mm. <br />
<br />
KẾT QUẢ <br />
Từ tháng 10/2012 đến tháng 4/2013, có 188 <br />
thai phụ song thai có tuổi thai từ 20 tuần đến 24 <br />
tuần đến khám thai tại bệnh viện Từ Dũ. Có 27 <br />
trường hợp không thỏa điều kiện chọn mẫu: 1 <br />
thai phụ chấm dứt thai kỳ vì tiền sản giật nặng, <br />
3 thai phụ chấm dứt thai kỳ vì dị tật nặng, 1 thai <br />
phụ song thai có một nhiễm sắc thể X, 11 thai <br />
phụ song thai một bánh nhau có hội chứng <br />
truyền máu song thai, 1 thai phụ song thai một <br />
bánh nhau với một thai không đầu không tim, 1 <br />
thai phụ song thai có khâu eo tử cung, 2 thai <br />
phụ song thai có u xơ tử cung, 3 thai phụ song <br />
thai có một thai đã chết, 1 thai phụ song thai có <br />
triệu chứng ra huyết âm đạo, và 3 trường hợp <br />
không đồng ý tham gia nghiên cứu. Vì vậy <br />
chúng tôi còn 161 trường hợp song thai từ 20 <br />
đến 24 tuần thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu. <br />
chieudai kenh ctc<br />
50<br />
<br />
40<br />
<br />
Tần 30<br />
suất<br />
Frequency<br />
<br />
20<br />
<br />
10<br />
<br />
Std. Dev = 6.13<br />
Mean = 33.0<br />
N = 161.00<br />
<br />
0<br />
8.0<br />
<br />
12.0<br />
<br />
16.0 20.0 24.0 28.0 32.0 36.0 40.0 44.0<br />
<br />
10.0 14.0 18.0 22.0 26.0 30.0 34.0 38.0 42.0<br />
<br />
chieudai kenh ctc<br />
Chiều dài kênh CTC (mm<br />
)<br />
<br />
<br />
<br />
Biểu đồ 1: Sự phân bố chiều dài kênh cổ tử cung của <br />
161 thai phụ <br />
Các thai phụ trong nhóm nghiên cứu có độ <br />
tuổi từ 18 đến 42 tuổi, với tuổi trung bình là <br />
29,5±5,12 tuổi. Đa số thai phụ có độ tuổi ≤ 35 tuổi <br />
(85,7%). Chiều cao của thai phụ dao động từ 142 <br />
cm đến 168 cm, với chiều cao trung bình là 155,6 <br />
<br />
90<br />
<br />
± 4,7 cm. Chỉ số khối cơ thể nằm trong khoảng <br />
từ 16,7 kg/m2 đến 26,3 kg/m2, với giá trị trung <br />
bình là 20,7 ± 1,79 kg/m2. Có 140 thai phụ có chỉ <br />
số khối cơ thể từ 18,5 kg/m2 đến 25 kg/m2, chiếm <br />
tỷ lệ cao nhất trong nhóm nghiên cứu 87,0%. Đa <br />
số các thai phụ sống ở ngoại thành (65,8%). Số <br />
thai phụ thuộc nhóm lao động trí óc chiếm tỷ lệ <br />
cao nhất (40,4%). Đa số các thai phụ có trình độ <br />
học vấn cấp 2 và cấp 3 (63,4%). <br />
Có 88 thai phụ sinh con so và 73 thai phụ <br />
sinh con rạ, chiếm tỷ lệ lần lượt là 54,7% và <br />
45,3%. Có 3 thai phụ có tiền căn sinh non