intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 6

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:24

85
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích cụ thể mà đề tài hướng đến là: Tìm hiểu thực trạng thái độ của học sinh với môn học Ngữ Văn và chất lượng của bộ môn này. Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ môn Ngữ văn chưa cao. Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn. Rút ra những bài học kinh nghiệm riêng cho bản thân để vận dụng vào việc giảng dạy Ngữ văn ở các khối lớp để nâng cao chất lượng của bộ môn này

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn Ngữ văn 6

Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> PHẦN THỨ  NHẤT: MỞ ĐẦU<br /> I. Đặt vấn đề<br /> Nhà văn M.Gorki từng nói “Văn học là nhân học”, văn học là cuộc sống –  <br /> thông qua ngôn từ  và hình tượng nghệ  thuật sinh động, nó cung cấp cho con <br /> người kiến thức về  cuộc sống cũng như  khám phá cái đẹp trong tâm hồn con  <br /> người. Đến với văn học chúng ta tìm thấy vẻ đẹp nhân văn qua mỗi sự vật, hình <br /> tượng trong tác phẩm mà từ  đó tác động tâm tư  tình cảm, góp phần để  hình <br /> thành và phát triển nhân cách. Vậy nhưng, không phải ai cũng hiểu vai trò của <br /> văn chương trong đời sống con người, hiện nay giá trị văn học đang dần bị lãng <br /> quên. Nhất là với học sinh. Xu hướng xem nhẹ các môn xã hội nói chung, môn <br /> Ngữ văn nói riêng là điều mà bất cứ giáo viên đứng lớp nào cũng có thể dễ dàng <br /> cảm nhận. Học sinh học Văn như một sự bắt buộc để đủ điều kiện lên lớp hay <br /> để có được tấm bằng tốt nghiệp cuối cấp chứ không phải bởi sự  đam mê. Học <br /> văn là phải đọc, thậm chí là đọc đi đọc lại nhiều lần, phải ngẫm nghĩ, tìm tòi,  <br /> liên hệ…Có lẽ vì vậy mà học sinh đang dần dần “quen” môn Văn.<br /> Tác phẩm văn chương là bức tranh về  cuộc sống, con người trong lao  <br /> động, trong đấu tranh được tái hiện một cách chuẩn xác mà không hề khô khan, <br /> tẻ nhạt. Học văn, bên cạnh cái cơ bản là học về ngôn ngữ, tiếng nói văn chương <br /> của tiếng Việt để  có thể  nói, viết, xây dựng ngôn ngữ  diễn đạt cho riêng mình <br /> thì còn học về  văn hóa, tình cảm, tư  duy nghệ  thuật của nhân loại thông qua  <br /> những tác phẩm văn chương đặc sắc. Và từ  đây, ta học cách làm người, học <br /> cách chia sẻ, yêu thương.Văn học giúp ta bồi dưỡng tình đời, tình người, làm cho  <br /> tâm hồn tình cảm thêm phong phú, nhạy cảm. Học tốt môn văn là nền tảng vững  <br /> chắc giúp các em tự  tin trong giao tiếp hàng ngày, góp phần cho những thành <br /> công trong cuộc sống mai sau.<br /> Để  học sinh thấy được giá trị  to lớn của văn học, để  thắp sáng và thổi  <br /> bùng ngọn lửa đam mê văn học trong các em, từ đó nâng cao chất lượng bộ môn <br /> Ngữ Văn, bản thân tôi đã luôn không ngừng nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu, thực hiện  <br /> những biện pháp phù hợp với đối tượng học sinh lớp 6 và bước đầu nhận thấy  <br /> được những chuyển biến rất tích cực. Các em trở nên hào hứng hơn với các tiết <br /> văn, tích cực hơn trong việc học bài  ở  nhà, chuẩn bị  bài trước khi đến lớp nên <br /> chất lượng bộ  môn cũng được nâng cao. Vì vậy, tôi chọn đề  tài “Một số  giải  <br /> pháp nâng cao chất lượng bộ  môn Ngữ  văn 6” với mong muốn được chia sẻ <br /> những kinh nghiệm riêng của cá nhân trong quá trình giảng dạy bộ  môn Ngữ <br /> văn.<br /> <br />                                                           Trang  1<br /> II. Mục đích nghiên cứu<br /> Khi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng <br /> bộ môn Ngữ Văn 6”, bản thân tôi muốn bày tỏ những suy nghĩ, trăn trở của mình <br /> về  thực trạng việc dạy và học môn Ngữ  văn 6 hiện nay, đồng thời cũng mạnh <br /> dạn đề xuất những giải pháp được rút ra từ thực tiễn giảng dạy của mình. Thực <br /> sự tôi rất mong được các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh nghiệm, trao  <br /> đổi, bàn luận để  tìm ra những giải pháp tối  ưu nhất, giúp học sinh có cái nhìn  <br /> đúng đắn hơn về giá trị của môn học, say mê, hứng thú với bộ  môn, từ  đó nâng  <br /> cao chất lượng hiệu quả  của môn Ngữ  văn. Mục đích cụ  thể  mà đề  tài hướng  <br /> đến là:<br /> ­ Tìm hiểu thực trạng thái độ  của học sinh với môn học Ngữ  Văn và chất <br /> lượng của bộ môn này.<br /> ­ Phát hiện những nguyên nhân dẫn đến chất lượng bộ  môn Ngữ  văn chưa <br /> cao.<br /> ­ Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ <br /> văn.<br /> ­ Rút ra những bài học kinh nghiệm riêng cho bản thân để  vận dụng vào  <br /> việc giảng dạy Ngữ  văn  ở  các khối lớp để  nâng cao chất lượng của bộ <br /> môn này<br />  1. Đối tượng nghiên cứu<br /> Đối tượng nghiên cứu của đề  tài này là học sinh lớp 6A1, 6A7 năm học <br /> 2017­2018 và học sinh lớp 6A3, 6A6 của học kì 1­ năm học 2018­2019 tại trường  <br /> THCS Nguyễn Trãi.<br /> 2. Phạm vi của đề tài<br /> Đề tài nghiên cứu tập trung vào một số giải pháp mới để giúp học sinh có <br /> cái nhìn đúng đắn hơn về giá trị  của môn học, say mê, hứng thú với bộ môn, từ <br /> đó nâng cao chất lượng hiệu quả của môn Ngữ văn 6.<br /> <br /> <br /> PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br /> I. Cơ sở lí luận của vấn đề<br /> Định hướng cách tân biện pháp dạy và học đã được chính xác trong quyết  <br /> nghị Trung ương 4 khóa VII (1 – 1993), quyết nghị Trung ương 2 khóa VIII (12 – <br /> 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 – 1998), được cụ thể hóa trong <br /> các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo , đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 – 1999). Văn  <br /> Kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiêp t<br /> ́ ục khẳng định “giáo dục là quốc <br /> sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo <br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> nhân lực, bồi dưỡng nhân tai. Chuy<br /> ̀ ển mạnh quá trinh giáo d<br /> ̀ ục chủ yếu từ trang <br /> bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi  <br /> đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”.<br /> Trước hết ta phải hiểu rõ được bản chất của những phương pháp dạy  <br /> học mới đó là:<br /> ­ Dạy học theo hướng trải nghiệm sáng tạo<br /> Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự <br /> hướng dẫn và tổ  chức của nhà giáo dục, từng cá nhân học sinh được tham gia  <br /> trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà <br /> trường cũng như ngoài xã hội với tư cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát  <br /> triển năng lực thực tiễn, phẩm chất nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo <br /> của cá nhân mình. Trải nghiệm sáng tạo là hoạt động được coi trọng trong từng  <br /> môn học.<br /> ­ Phương pháp­ kĩ thuật dạy học tích cực<br /> Phương pháp dạy học (PPDH) là lĩnh vực rất phức tạp và đa dạng. Có <br /> nhiều quan niệm, quan điểm khác nhau về  PPDH. Trong tài liệu này,  PPDH <br /> được hiểu là cách thức, là con đường hoạt động chung giữa giáo viên  và học  <br /> sinh, trong những điều kiện dạy học xác định, nhằm đạt tới mục đích dạy học.<br /> Kĩ thuật dạy học gồm có: kĩ thuật chia nhóm, kĩ thuật giao nhiệm vụ, kĩ <br /> thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật khăn trải bàn, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật các mảnh  <br /> ghép, kĩ thuật hỏi chuyên gia, kĩ thuật hoàn tất một nhiệm vụ,...<br /> Kĩ thuật dạy học (KTDH) là những biện pháp, cách thức hành động của <br /> giáo viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá  <br /> trình dạy học.<br /> ­ Bản đồ tư duy (sơ đồ tư duy) <br /> Nghị  quyết Trung  ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương <br /> pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp  <br /> tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và <br /> phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự <br /> học, tự nghiên cứu cho học sinh...”.<br /> Sơ  đồ  tư  duy (SĐTD) sử  dụng đồng thời hình  ảnh, đường nét, màu sắc,  <br /> chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỷ <br /> lệ, chi tiết khắt khe và định khuôn sẵn như  các loại bản đồ  thông dụng khác.  <br /> Như  vậy cùng một chủ  đề, bài học nhưng mỗi người có thể  vẽ  theo một cách <br />                                                           Trang  3<br /> khác nhau và hoàn toàn có thể thêm hoặc bớt các nhánh dễ dàng. Nếu muốn ghi  <br /> chép bằng SĐTD cũng có nhiều  ưu điểm hơn như: Lôgíc, mạch lạc; trực quan, <br /> sinh động, dễ  nhìn, dễ  hiểu; vừa nhìn được tổng thể, vừa biết được chi tiết;  <br /> giúp hệ  thống hóa kiến thức dễ  dàng; và giúp việc ôn tập khoa học, nhớ  kiến  <br /> thức lâu hơn...<br /> ­ Dạy học phát triển năng lực <br /> Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú ý <br /> tích cực hoá học sinh về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý  rèn luyện năng lực giải  <br /> quyết vấn đề  gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề  nghiệp , đồng <br /> thời gắn hoạt  động trí tuệ  với hoạt  động thực hành, thực tiễn. Tăng cường <br /> việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng  <br /> tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. <br /> ­ Giáo dục an ninh và quốc phòng<br /> Quốc phòng: là công cuộc giữ nước bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân <br /> tộc, trong đó sức mạnh quân sự  là đặc trưng, lực lượng vũ trang nhân dân làm  <br /> nòng cốt.<br /> An ninh: là tình hình trật tựxã hội bình thường, yên ổn, không có rối loạn.<br /> Giáo dục an ninh và quốc phòng nhằm mục đích hình thành, bồi dưỡng ở <br /> học sinh tình yêu quê hương, đất nước. Giáo dục học sinh ý thức công dân trong  <br /> việc bảo vệ xã hội, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ đất nước.<br /> II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu<br /> Trong những năm gần đây, rất nhiều những phương phápđổi mới dạy học  <br /> được đưa vào áp dụng, nhằm phát huy tối đa tính chủ  động, tích cực của học <br /> sinh. Các buổi tập huấn, họp tổ chuyên môn cũng đưa vấn đề phương pháp dạy <br /> học cùng thảo luận, trao đổi nhằm mục đích nâng cao chất lượng bộ  môn. Tuy  <br /> nhiên, vị thế của môn Văn ngày càng giảm sút, tình trạng học sinh chán học văn  <br /> ngày càng tăng thực sự  là một vấn đề  đáng lo ngại. Từ  thực tế  giảng dạy, tôi  <br /> nhận thấy để dẫn đến tình trạng này do một số nguyên nhân sau:<br /> 1. Đối với người dạy<br /> Nhìn chung, hầu hết các thầy cô đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm <br /> lo quan tâm đến học sinh, tuy nhiên vẫn còn những mặt hạn chế nhất định sau:<br /> + Nhiều thầy cô ngại đổi mới, có áp dụng phương pháp mới nhưng chậm, <br /> ít hoặc chưa phù hợp với nội dung bài học, phương pháp giảng dạy chưa thực  <br /> sự phù hợp với đa phần đối tượng học sinh.<br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> + Nhiều giáo viên còn gặp khó khăn khi chương trình sách giáo khoa mới <br /> với yêu cầu truyền đạt mộtkhối lượng khổng lồ  của tri thức nhưng thời gian  <br /> thực học của học sinh với bộ môn ngày càng ít.<br /> + Với đặc thù của bộ môn, các đồ dùng trực quan hầu như không có, tranh  <br /> ảnh minh họa trong sách không nhiều.<br /> + Trong một lớp, mức tiếp thu nội dung bài học của học sinh nhanh, chậm  <br /> khác nhau cũng là một rào cản trong việc nâng cao chất lượng bộ môn.<br /> 2. Đối với học sinh<br /> Với địa bàn tập trung lượng dân cư  đông đúc, tỉ  lệ  đồng bào  ở  các buôn <br /> Eana, buôn Drai, buôn Tơ  Lơ  phần đa phần điều kiện kinh tế  còn khó khăn,  <br /> ngoài giờ  lên lớp, các em còn phải phụ  giúp gia đình, ít dành thời gian cho việc  <br /> học. Nhất là vào mùa vụ, sự  chuyên cần của các em các giảm.Điều đó càng  <br /> khiến cho chất lượng bộ môn càng khó đảm bảo.<br /> + Ý thức tự học, vượt khó trong học tập của nhiều em chưa cao. Với môn  <br /> Văn, tương lai để chọn ngành nghề, kiếm việc cũng khó hơn nên nhiều gia đình <br /> chỉ hướng con em vào các môn học “thời thượng” như Toán, Lí, Hóa, Tiếng Anh.  <br /> Vì vậy, không ít học sinh xem nhẹ  môn học, không dành thời gian cho bộ  môn  <br /> này, hoặc có học cũng chỉ  là học lấy lệ  hoặc đối phó. Điểm này thể  hiện rõ ở <br /> việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới của học sinh còn rất nhiều hạn chế. Có nhiều  <br /> em giáo viên hỏi bài cũ cả 4,6 lần thì tất cả cũng chỉ nhận được câu trả lời duy <br /> nhất “Thưa cô, em không thuộc”, “em chưa thuộc”….<br /> + Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, nhu cầu giải trí như xem <br /> ti vi, chơi game, lướt facebook . . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý  <br /> thức học bị lôi cuốn, xao nhãng việc học.<br /> + Lười học, chán học nên học yếu. Học yếu lại càng lười học, chán học, <br /> cứ  xoay vòng như  một quy luật tất yếu, khiến cho giờ học với các em trở  rất <br /> nên nặng nề. <br /> Năm   học   2017­2018,   tôi   phụ   trách   giảng   dạy   môn   Văn   ở   2   lớp:   6A1,  <br /> 6A7.Và năm học 2018­2019 dạy hai lớp: 6A3, 6A6. Dù là học sinh đầu cấp và <br /> mới chỉ  là những tuần học đầu tiên, nhưng học sinh đã tỏ  ra thờ   ơ, không hào  <br /> hứng với môn học. Tôi hướng dẫn các em cách soạn bài, học bài, song ở tiết học  <br /> mới, có rất ít em chịu thực hiện. <br /> Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn Ngữ  văn 6 trường THCS <br /> Nguyễn Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong hai năm học gần đây như sau: <br /> <br />                                                           Trang  5<br />   Năm học 2017 ­2018:<br /> <br /> Lớp Điểm Ghi chú<br /> Sĩ số Trung <br /> Năm học Giỏi Khá Yếu Kém<br /> bình<br /> 6A1 29 0 1 15 8 5<br /> 6A7 36 2 7 17 8 2<br /> 2017­2018 Tổng <br /> 65 2 8 32 16 7<br /> cộng<br /> Tỉ lệ 3% 12,5% 49% 24,5% 11%<br /> <br /> Năm học 2018 – 2019:<br /> Điểm Ghi chú<br /> Lớp Sĩ số Trung <br /> Năm học Giỏi Khá Yếu Kém<br /> bình<br /> 6A3 26 0 1 14 6 5<br /> 6A6 35 2 6 16 9 2<br /> 2018­2019 Tổng <br /> 61 2 7 30 15 7<br /> cộng<br /> Tỉ lệ 3,4% 11,3% 49,3% 24,6% 11,4%<br /> <br /> <br /> <br /> Từ kết quả thống kê cho thấy kết quả bài kiểm tra định kì của học sinh đối <br /> với bộ môn Ngữ văn vẫn còn thấp cụ thể như sau:<br /> Năm học 2017­ 2018: số  học sinh đạt điểm từ  trung bình trở  lên đạt tỉ  lệ <br /> 64,5%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.<br /> Năm học 2018­ 2019: số  học sinh đạt điểm từ  trung bình trở  lên đạt tỉ  lệ <br /> 64%, còn lại là học sinh có điểm yếu và kém.<br /> Vậy làm thế  nào để  học sinh có hứng thú, tích cực đồng thời phát triển <br /> được tư duy, tìm tòi, óc sáng tạo của học sinh. Xuất phát từ vấn đề đó bên cạnh <br /> việc thực hiện tốt việc dạy học theo hướng đổi mới, bản thân tôi không ngừng  <br /> học hỏi, tìm tòi sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau  với hi vọng học <br /> sinh sẽ  yêu môn Ngữ  văn hơn và từ  đó nâng cao được chất lượng bộ  môn của  <br /> mình.<br /> III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề<br /> 1. Các bước tiến hành một tiết học:<br /> 1.1. Tạo bầu không khí thoải mái, thân thiện khi vào giờ học<br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> Trong mỗi tiết học, người đóng vai trò chủ đạo để điều tiết không khí lớp <br /> học chính là giáo viên.Thái độ, tâm lí, tác phong của người đứng lớp có  ảnh  <br /> hưởng rất lớn đến tâm lí học sinh. Xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh <br /> tích cực” phải bắt đầu từ  “Lớp học thân thiện” và “Mỗi thầy cô là một tấm <br /> gương sáng về  đạo đức và tự  học”. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải luôn mẫu  <br /> mực trong thái độ, tác phong, cách ứng xử.<br /> Sự thân thiện, tích cực của giáo viên sẽ tạo nên sự  gần gũi, thân tình, yêu  <br /> mến ở học sinh, xóa bỏ cảm giác áp lực mỗi khi đến tiết học Ngữ văn. Yêu mến <br /> thầy cô, đồng nghĩa với việc các em có hứng thú với môn học. Ngược lại, nếu  <br /> giáo viên tỏ  ra lạnh nhạt, thiếu thiện cảm với học sinh thì các em sẽ  xa lánh,  <br /> không tương tác với những bài học, và đồng nghĩa với việc, mục đích của giáo <br /> dục coi như thất bại.<br /> Cuộc sống của giáo viên cũng như  bao nhiêu người khác với những lo  <br /> toan, gánh nặng bộn bề của cuộc sống đời thường.Nhưng khi lên lớp, đứng trên <br /> bục giảng, chúng ta phải tự  mình điều chỉnh tâm lí, gạt bỏ  những lo âu, buồn  <br /> bực, bởi những tâm lí nặng nề sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tiết học, đến tâm lí  <br /> học sinh. Không làm chủ  được cảm xúc, không chỉ  không có cảm hứng truyền  <br /> tải nội dung bài học, mà còn có thể  có những thái độ, hành động không chuẩn <br /> mực, đánh mất hình ảnh của chính mình. Vì thế, tạo một không khí vui vẻ, thân <br /> thiện, nhẹ nhàng là tiền đề quan trọng  để tạo hứng thú cho học sinh tiếp thu bài  <br /> học.<br /> 1.2. Coi trọng việc học bài cũ, chuẩn bị bài mới <br /> Kiểm tra việc học bài cũ, chuẩn bị  bài mới  ở  nhà của học sinh phải là <br /> hoạt động mang tính bắt buộc thường nhật của giáo viên khi bắt đầu tiết học.Có <br /> khi tự tôi đi một vòng quanh lớp, yêu cầu các em giở vở soạn lên bàn, có khi cho <br /> chính học sinh kiểm tra chéo nhau, có khi là bằng cách lấy ý thức tự  giác, trung  <br /> thực của học sinh…Để  tránh tình trạng không học bài, soạn bài hoặc có nhưng <br /> chỉ mang tính chất đối phó, lấy lệ, vài tuần, tôi sẽ thu vở kiểm tra, có thể là 5­10 <br /> em, nửa lớp, hoặc cả  lớp, có chấm điểm, nhận xét rõ ràng theo hướng động  <br /> viên, khích lệ sự cố gắng, nỗ lực của các em để học sinh rút kinh nghiệm trong  <br /> các bài soạn sau. Với những học sinh yếu hơn, tôi thường có thêm điểm cộng ở <br /> sau, khi trả  bài, tôi sẽ  nói luôn  ở  trước lớp, rằng “những bạn đó có nhiều cố <br /> gắng nên cô đã cộng thêm 1 điểm khuyến khích”.Với những trường hợp không  <br /> tiến bộ  thì tôi cũng kiểm điểm nghiêm khắc, có những hình thức kỉ  luật nhất  <br /> định, từ nhẹ nhàng nhắc nhở đến việc viết bản kiểm điểm, mời phụ huynh.<br /> <br /> <br />                                                           Trang  7<br /> Để việc học bài cũ, soạn bài mới có hiệu quả, điều quan trọng là giáo viên  <br /> cần có những hướng dẫn cụ thể cho học sinh tự học.Giúp các em có tinh thần tự <br /> học, phát huy tính chủ  động trong việc tìm hiểu nội dung bài học. Vì thế, trong <br /> buổi học đầu tiên của năm học mới, tôi dành một khoảng thời gian cho việc đưa <br /> ra nội quy riêng của bộ  môn, trong đó tất nhiên không thể  thiếu quy định việc  <br /> học bài cũ, chuẩn bị  bài mới. Tôi hướng dẫn khái quát cách soạn bài của từng  <br /> phân môn: Văn bản, Tiếng Việt, Tập làm văn để học sinh nắm rõ phương pháp  <br /> học  ở  nhà. Phần dặn dò sau mỗi tiết học, tôi đều dành vài phút để  nêu những  <br /> hướng dẫn, gợi ý cho việc học bài cũ, soạn bài mới. Với việc học bài cũ, tôi <br /> thường dặn dò các em về  xem lại nội dung bài giảng, chỉ  ra những nội dung <br /> trọng tâm để  học sinh lưu ý nắm vững kiến thức.Với việc yêu cầu học sinh  <br /> soạn bài mới, tôi thường cụ  thể  hóa những yêu cầu của nội dung bài học theo  <br /> từng phân môn.<br /> Phần văn bản: Yêu cầu học sinh đọc kĩ văn bản, xem phần chú thích từ <br /> khó để  hiểu đúng nội dung; nắm khái quát về  tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra  <br /> đời, bố cục; trả lời các câu hỏi phần Đọc hiểu văn bản, lưu ý về nội dung, nghệ <br /> thuật và ý nghĩa của văn bản. và một số lưu ý cụ thể ở từng bài.<br /> Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài “Bài học đường đời đầu tiên” <br /> của Tô Hoài tôi thường yêu cầu:<br /> + Tìm hiều thêm về tác giả Tô Hoài và tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí”. <br /> + Đọc phần chú thích, nắm những nét chính về tác giả, tác phầm; đọc kĩ  <br /> đoạn trích, nắm vững các từ  khó;tìm các chi tiết miêu tả  về  ngoại hình, hành <br /> động, tính cách của Dế  Mèn; tìm chi tiết thể  hiện thái độ  của Dế  Mèn sau khi <br /> gây ra cái chết cho dế Choắt.<br /> + Soạn bài theo hệ  thống câu hỏi phần Đọc ­ hiểu văn bản trong sách  <br /> giáo khoa.<br /> Phần Tiếng Việt   và Tập làm văn: Yêu cầu học sinh chú ý trước hết  ở <br /> từng mục. Đọc ví dụ, trả lời các câu hỏi để từ đó tự hình thành khái niệm và làm  <br /> trước các bài tập phần luyện tập.<br /> Nếu xét thấy nội dung nào quá khó với năng lực của học sinh, tôi sẽ phân <br /> chia công việc theo từng nhóm để các em trao đổi, thảo luận, giúp đỡ những bạn  <br /> yếu hơn. Giáo viên cần chú ý để tránh tạo áp lực về điểm số cho học sinh. Học  <br /> bài cũ, chuẩn bị bài mới mục đích chính là tạo tâm thế  để  học sinh tiếp thu bài  <br /> tốt hơn.<br /> 2. Các giải pháp:<br /> 2.1. Soạn giảng và đổi mới phương pháp dạy học<br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> Đây là giải pháp quan trọng nhất để  nâng cao chất lượng dạy học nói <br /> riêng, chất lượng giáo dục nói chung. Dù dạy – học là hai hoạt động có tính độc <br /> lập tương đối nhưng lại là hai mặt của một quá trình: giáo viên truyền đạt kiến  <br /> thức, kỹ năng, hình thành, bồi dưỡng nhân cách, tình cảm cho học sinh, học sinh  <br /> là người lĩnh hội, làm chủ kiến thức. Đổi mới phương pháp dạy học  là yêu cầu  <br /> bắt buộc, người giáo viên phải thực sự không ngừng học hỏi, dám nghĩ dám làm, <br /> chấp nhận rủi ro và rút kinh nghiệm từ thất bại. Tuy nhiên, với suy nghĩ của cá <br /> nhân, tôi cho rằng, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ hoàn  <br /> toàn phương pháp truyền thống, mà cần biết kế  thừa, phát huy trên cơ  sở  vận <br /> dụng phương pháp mới một cách sáng tạo, có hiệu quả như:<br /> 2.1.1. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng sơ đồ tư duy  <br /> vào giảng dạy<br /> Công nghệ thông tin là một phương tiện dạy học hiện đại với những tính <br /> năng ưu việt, tiện ích nổi trội của nó so với các phương tiện dạy học khác. Giáo <br /> án điện tử là bước cải tiến lớn giúp giáo viên mang lại cho  học sinh nhiều thông <br /> tin hơn và các thông tin đó có thể  được chứa đựng trong nhiều kênh khác nhau  <br /> như văn bản, hình ảnh, âm thanh và các đoạn video. Có thể nói, công nghệ thông  <br /> tin đã cung cấp điều kiện và phương tiện thuận lợi hỗ trợ đắc lực cho công việc  <br /> giảng dạy của giáo viên  môn Ngữ  văn nói riêng, các bộ  môn khác nói chung. <br /> Trong thực tế  giảng dạy của mình, tôi nhận thấy với những tiết học có sự  hỗ <br /> trợ của công nghệ thông tin, học sinh tỏ ra rất hào hứng, chăm chú khi được trực <br /> quan bằng những hình ảnh liên quan. Và vì thế, các em cũng nắm bài, nhớ được  <br /> nội dung bài học tốt hơn rất nhiều. <br /> Khi có sự hỗ trợ công nghệ thông tin, ta cần chú trọng lồng ghép phương  <br /> pháp sử  dụng sơ  đồ  tư  duy vào phần củng cố  ­ đây  là cách làm hiệu quả, giúp <br /> học sinh nắm nội dung bài học một cách khái quát nhưng rất đầy đủ. Tôi thường  <br /> dành 5 phút cuối giờ, yêu cầu các nhóm vẽ sơ  đồ  tư  duy cho bài học sau đó để <br /> các em tự trình bày cách hiểu của mình về nội dung bài học, rồi có thể đối chiếu  <br /> với bảng sơ đồ tư duy giáo viên chiếu lên bảng. Với cách này, tôi không chỉ tạo  <br /> cho các em sự  thích thú khi được tự  tay thiết kế  một sản phẩm, mà còn rèn <br /> luyện tư  duy chọn lọc thông tin, từ  ngữ, sắp xếp bố  cục để  ghi nội dung cần  <br /> thiết và logic nhất.<br /> 2.1.2. Tích cực dạy học theo chủ  đề  tích hợp và  áp dụng giáo dục an  <br /> ninh quốc phòng<br /> <br /> <br /> <br />                                                           Trang  9<br /> Đây được coi là nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy <br /> học môn Ngữ  văn nói riêng để  phát huy tính tích cực của học sinh và nâng cao  <br /> chất lượng giáo dục.  Nội dung tích hợp cần tập trung vàonhững điểm quy tụ, <br /> liên kết nội dung ba phân môn: Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn trong văn bản <br /> để  xây dựng các tình huống tích hợp và các hoạt động phức hợp tương  ứng <br /> nhằm giúp học sinh  tích hợp tri thức và kĩ năng trong khi xử lí tình huống. Đó có  <br /> thể là những từ ngữ, câu thơ, đoạn văn, những chi tiết, hình tượng, các sự kiện,  <br /> quan hệ, tình huống mà muốn cảm hiểu, cắt nghĩa, đánh giá đòi hỏi phải vận  <br /> dụng tri thức liên văn bản, phải tổng hợp hiểu biết nhiều mặt về  lịch sử, văn <br /> hóa, xã hội, văn học, ngôn ngữ. Đó còn có thể  là tích hợp kiến thức những bộ <br /> môn khác như lịch sử, địa lí, giáo dục công dân... Bằng cách tổ chức, thiết kế các <br /> nội dung, tình huống tích hợp để   học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ <br /> năng riêng rẽ của các phân môn vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các  <br /> kiến thức và phát triển năng lực, kĩ năng tích hợp. Với cách làm này, giáo viên vừa <br /> tạo được sự  hào hứng của các em với môn học, giúp các em tích hợp các kiến <br /> thức và kĩ năng đã lĩnh hội,xác lập mối liên hệ giữa các tri thức và kĩ năng thuộc  <br /> môn Ngữ văn với các môn khác.<br /> Ở năm học 2018­2019, Phòng giáo dục và đào tạo huyện  Krông Ana đã triển <br /> khai việc dạy lồng ghép“An ninh quốc phòng” vào giảng dạy. Sau khi được tập  <br /> huấn và có sự thống nhất trong tổ bộ môn, tôi đã mạnh dạn đưa vào chương trình  <br /> học của học sinh. Bên cạnh nội dung đã được định hướng ở một số văn bản tôi còn  <br /> mở rộng, liên hệ thực tế nhằm giáo dục ý thức công dân cho các em. <br /> Ví dụ: Chương trình Ngữ văn 6 học kì 1 lồng ghép giáo dục An Ninh – Quốc <br /> Phòng ở các văn bản: Con Rồng cháuTiên, Thánh Gióng, Sự tích hồ Gươm. Ngoài <br /> nội dung đã có định hướng tôi giảng giải giúp các em tự  hào về  quê hương đất  <br /> nước mình, về  trách nhiệm góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững <br /> mạnh để bảo vệ đất nước.<br /> 2.1.3. Dạy học trải nghiệm sáng tạo<br /> Đây là một hoạt động giáo dục, trong đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên ­  <br /> từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực tiễn khác  <br /> nhau. Qua đó phát triển năng lực, phát huy tiềm năng sáng tạo của các nhân.<br /> Trong năm học 2017 – 2018, bản thân tôi được tập huấn về việc dạy học trải <br /> nghiệm sáng tạo theo định hướng năng lực cho giáo viên do Phòng giáo dục và đào <br /> tạo huyện Krông Ana tổ chức, sau đó tôi về có triển khai và thấy kết quả khả quan.  <br /> Sang năm học 2018 – 2019, nhận thấy đây là một trong những nội dung không thể <br /> thiếu, tôi đã lên kế hoạch ngay từ đầu năm và đưa vào áp dụng. <br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> Ví dụ: Với chủ đề “Sân khấu hóa truyện dân gian”. Khi bắt đầu học truyện  <br /> cổ  tích và truyện cười, tôi hướng dẫn học sinh cách thức làm việc, lắng nghe  <br /> nguyện vọng của học sinh để  học sinh tự tư duy sáng tạo, giao việc và định hình <br /> về một tiết thực hành sau khi học xong bài học. Cuối cùng là chọn thời điểm (có  <br /> thể là tiết ngoại khóa: hoạt động ngoài giờ lên lớp hay sinh hoạt lớp) để học sinh <br /> thực hành ngay trên lớp.<br /> Hình ảnh minh họa của các nhóm khi thực hành  tiết “ Trải nghiệm sáng tạo”<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                                           Trang  11<br /> 2.1.4. Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh<br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ  chương  <br /> trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là <br /> từ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến quan tâm HS vận dụng được cái gì  <br /> qua việc học. Để  đảm bảo được điều đó, phải thực hiện chuyển từ  phương  <br /> pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng <br /> kiến thức, rèn luyện kỹ  năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Tăng cường <br /> việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên ­ học sinh theo hướng cộng  <br /> tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Bên cạnh việc học  <br /> tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn học chuyên môn cần bổ sung  <br /> các chủ  đề  học tập tích hợp liên môn nhằm phát triển năng lực giải quyết các  <br /> vấn đề phức hợp.<br /> Dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh là sự  kết hợp linh hoạt  <br /> phương pháp – kỹ thuật dạy học tích cực với phương pháp truyền thống, đồng thời <br /> với việc sử  dụng các phương tiện kỹ  thuật phù hợp với môn học, kiểu bài. Chú  <br /> trọng nhiều đến khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề của học sinh.<br /> Ví dụ: Sau khi hướng dẫn đọc thêm văn bản “Con Rồng cháu Tiên”, tôi giúp <br /> học sinh củng cố bằng sơ đồ tư duy:<br /> <br /> <br /> Bài tập về  nhà là học sinh vẽ  sơ  đồ  tư  duy nội dung văn bản “Con Rồng  <br /> cháu Tiên”. Khi kiểm tra bài tập các em tôi đánh giá cao ý tưởng sử  dụng đường <br /> nét, hình ảnh, màu sắc ... để thể hiện nội dung. Chỉ có các chi tiết, sự việc là bám  <br /> sát văn bản, còn ý tưởng thì không có quy định nào. Học sinh rất hào hứng trong  <br /> việc tìm tòi ý tưởng để thể hiện nội dung nên các em hứng thú hơn với môn Ngữ <br /> văn.<br /> 2.2. Linh hoạt trong kiểm tra, đánh giá<br /> Khi kiểm tra để  lấy điểm miệng, không nên cứng nhắc là kiểm tra vào <br /> đầu tiết học. Việc kiểm tra có thể linh hoạt chuyển đổi giữa tiết, hoặc cuối tiết  <br /> học. Cũng có thể cho điểm trong quá trình học bài mới, khi học sinh trả lời tốt,  <br /> tích cực tham gia xây dựng bài.<br /> Khi kiểm tra 15 phút  hoặc kiểm tra định kì, cần có sự phân loại đối tượng  <br /> học sinh, không nên ra những câu hỏi đánh đố hay những câu hỏi ngoài kiến thức  <br /> sách giáo khoa. Tôi thường ra đề thi có sự phân hóa đối tượng học sinh. Mức độ <br /> nhận biết, thông hiểu, vận dụng  ở  cấp độ  dễ  chiếm 60­70% tổng số  điểm bài <br /> thi, câu hỏi khó, hoặc câu hỏi vận dụng cấp độ  cao chiếm 30­40%. Với những  <br /> đề như vậy, học sinh yếu cũng có thể làm được 4­5 điểm, điều đó sẽ không tạo <br />                                                           Trang  13<br /> ra sự chán nản hay thất vọng hoàn toàn với những em có học lực yếu. Cùng với <br /> những lời động viên, khuyến khích kịp thời, những con điểm đó còn khích lệ tinh <br /> thần cho các em, để các em cố gắng hơn trong những bài kiểm tra sau.<br /> Khi chấm bài, bên cạnh đòi hỏi phải chấm chính xác theo yêu cầu đề  ra <br /> được thể  hiện rõ qua điểm số, còn cần chấm sự  sáng tạo, tình cảm chân thành <br /> của học sinh để  động viên, khích lệ. Tôi thường chỉ  ra cụ  thể  lỗi sai, sửa trực <br /> tiếp trên bài kiểm tra và có những nhận xét, bổ sung để học sinh thấy được hạn  <br /> chế của mình để khắc phục lần sau.<br /> 2.3. Giáo viên cần làm chủ kiến thức<br /> Điều quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả chất lượng dạy và học là giáo <br /> viên phải có kiến thức vững vàng, thông suốt, đảm bảo kiến thức chuyên môn, <br /> làm chủ được phương pháp trong từng bài giảng, tránh trường hợp bị động, lung <br /> túng trong quá trình dạy học. Điều này sẽ  khiến cho học sinh quy phục và sẽ <br /> hứng thú học tập với giáo viên bộ môn đó. Muốn vậy, chúng ta cần không ngừng  <br /> tìm tòi, học hỏi, nâng cao trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ. Trước mỗi giờ  lên <br /> lớp, cần phải soạn giảng cẩn thận, bài bản, kĩ càng, chu đáo và làm chủ  kiến <br /> thức. Như vậy, ta đã thành công một nửa.<br /> Giáo án minh họa:<br /> Tuần 2            Ngày soạn: <br /> Tiết PPCT: 5  Ngày dạy: <br /> THÁNH GIÓNG<br /> (Truyền thuyết)<br /> A/MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:<br />    Giúp HS:<br /> 1. Kiến thức:<br />       ­ Nắm được nội dung ý nghĩa và một số nét nghệ thuật tiêu biểu của truyện  <br /> Thánh Gióng.<br /> 2. Kĩ Năng:<br />     ­ Kể lại được truyện.<br />     ­ RLKN: Bước đầu nhận biết, phân tích truyện truyền thuyết<br /> 3. Thái độ:<br />       ­GDHS: Tinh thần đoàn kết, ý thức dân tộc và ý chí đấu tranh bảo vêh đất  <br /> nước. Thấy được sức mạnh đánh giặc của dân tộc ta từ xưa đến nay.<br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> B/ PHƯƠNG PHÁP/ KĨ THUẬT DẠY HỌC:<br /> ­ Phương pháp quan sát trực quan, vấn đáp,  hoạt động nhóm…<br /> ­ KT “trình bày một phút”, Đọc hợp tác,…<br /> ­ Sử  dụng các dạng câu hỏi: Nêu vấn đề, tái hiện, yêu cầu có sự  so sánh đối <br /> chiếu, ứng dụng và liên hệ…<br /> C/ CHUẨN BỊ:<br /> 1. GV: Giáo án, SGK, SGV, tranh về Thánh Gióng, giấy A4<br /> 2. HS: soạn bài, vở ghi<br /> D/ CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ NỘI DUNG HỌC TẬP<br /> 1. Ổn định tổ chức:  <br /> 2. Kiểm tra bài cũ:<br /> (?) Nêu ý nghĩa truyện Con Rồng cháu Tiên?<br /> ­  Kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh.<br /> 3. Bài mới:<br />  Chủ đề đánh giặc cứu nước thắng lợi là chủ đề lớn, cơ bản, xuyên suốt lịch <br /> sử văn học VN nói chung, văn học dân gian VN nói riêng. Thánh Gióng là truyện <br /> dân gian thể hiện rất tiêu biểu độc đáo chủ đề này. Truyện cho chúng ta biết về <br /> sức mạnh đánh giặc có từ rất sớm của người Việt cổ và sức mạnh này luôn theo  <br /> mỗi con người VN trong công cuộc đánh giặc cứu nước.<br /> <br /> Hoạt động của thầy và trò Nội dung kiến thức<br /> <br />  Hoạt động 1 I/ Đọc ­ hiểu văn bản:<br /> ­ GV gọi HS đọc tác phẩm. Đọc giọng: Rõ ràng,        1.   Đọc   –   Tìm   hiểu <br /> mạch lạc.  chung:<br /> ­ HS đọc và GV nhận xét cách đọc của mỗi HS. ­ Đọc, tóm tắt<br /> ? Văn bản thuộc thể loại gì? ­ Tìm hiểu từ khó<br /> ? PTBĐ chính mà tác giả sử dụng là gì?  ­ Thể loại:Truyền thuyết<br /> ?Văn bản có bố cục mấy phần? Nội dung của từng     ­ PTBĐ: Tự sự<br /> phần? <br />   ­ Bố cục: 4 phần<br /> <br />                                                           Trang  15<br />  ­ Đ1: từ đầu … “nằm đấy”:sự ra đời của Gióng<br />   ­ Đ2:  “Bấy giờ  … cứu nước”:  Gióng đòi đi đánh <br /> giặc<br />  ­ Đ3: “Giặc đã đến … lên trời”: Gióng đánh giặc<br />  ­ Đ4: Phần còn lại: Những dấu tích còn lại.<br />   ? Truyền thuyết Thánh Gióng có những nhân vật <br /> nào? Ai là nhân vật chính? <br /> ­  Hai vợ  chồng ông lão, cậu Gióng, sứ  giả, nhân <br /> dân,…<br /> ­ Nhân vật chính: Thánh Gióng 2. Tìm hiểu văn bản:<br /> ? Theo dõi  văn bản, em thấy những chi tiết nào kể      a. Sự ra đời của Thánh <br /> về sự ra đời và lớn lên của Thánh Gióng? Gióng.<br /> (Hs trả lời) ­ Bà mẹ ướm chân thụ thai <br /> 12 tháng mới sinh<br /> <br /> ? Một đứa bé được sinh ra như  thế  là bình thường   ­ Cậu bé lên 3 không biết <br /> nói biết cười<br /> hay kì lạ?<br /> ­ Kì lạ, khác thường. Bình thường người phụ  nữ   Kì lạ, khác thường<br /> chỉ   mang   thai   9   tháng   10   ngày   nhưng   bà   mẹ   TG <br /> mang thai 12 tháng mới đẻ. Hơn nữa khi sinh ra cậu <br /> có mặt mũi khôi ngô nhưng lên ba mà vẫn chưa <br /> biết nói, biết cười cứ đặt đâu thì ngồi đó<br /> ? Câu hỏi thảo luận: Nhân vật Thánh Gióng được  <br /> xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng, kì  ảo  <br /> như vậy có ý nghĩ gì ?<br /> Định hướng:<br /> ­ Một đứa bé như thế nhất định phải là người khác <br /> thường, phi thường. Thứ  hai lên ba tuổi mà không <br /> biết nói thì khi nói lời đầu tiên phải là lời thiêng <br /> liêng quan trọng khác thường.     b.   Gióng   đòi   đi   đánh <br /> ? Thánh Gióng cất tiếng nói khi nào.? giặc.<br /> ­Thánh Gióng cất tiếng nói khi đất nước lâm nguy  ­   Tiếng   nói   đầu   tiên   là <br /> cần người tài giỏi đánh giặc tiếng nói đòi đi đánh giặc<br /> ? Tiếng nói đầu tiên của Gióng là gì ? Hãy trình   ­> Biểu lộ  lòng yêu nước <br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> bày hiểu biết của em về  ý nghĩa của chi tiết này ? sâu sắc của TG<br /> ­ Tiếng nói đầu tiên của Thánh Gióng là tiếng nói <br /> đòi đi đánh giặc<br /> ­ Biểu lộ  lòng yêu nước sâu sắc của TG. TG đang <br /> nằm   một   chỗ   chẳng   nói   chẳng   cười,   vừa   nghe <br /> tiếng sứ giả kêu gọi người ra cứu nước thì lập tức  <br /> cậu bé ngồi bật dậy, lại nói luôn được rành rọt, <br /> dõng dạc đâu ra đó. Điều này cho thấy TG là biểu <br /> ­   Đòi   ngựa   sắt   ,   roi   sắt, <br /> tượng cho những người dân bình dị, bình thường thì <br /> giáp sắt<br /> chăm chỉ  làm ăn nhưng khi tổ  quốc lâm nguy thì <br /> vùng lên mạnh mẽ để bảo vệ tổ quốc<br /> ? Thánh Gióng đòi những gì để ra trận?<br /> ­ Đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt   Đánh giặc cần có lòng <br /> yêu nước, nhưng cần cả vũ <br /> ? Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc. <br /> khí sắc bén để  đánh thắng <br /> điều này có ý nghĩa gì?<br /> giặc<br /> ­ Đánh giặc cần có lòng yêu nước, nhưng cần cả vũ <br /> khí sắc bén để  đánh thắng giặc. Đồng thời phản <br /> ánh thành tựu của nền văn minh dân tộc<br /> ? Để  có được những vũ khí đó một người có làm  <br /> được không. Điều đó được chứng minh trong văn  <br /> bản như thế nào ?<br /> ­ Không, phải huy động công sức của toàn dân. “ <br /> Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp”<br /> ? Vua đã lập tức cho rèn ngựa sắt, áo giáp sắt…  <br /> theo đúng yêu cầu cầu của Gióng. Nó có ý nghĩa gì?<br /> ­ Gióng là người thực hiện ý chí  và sức mạnh của  <br /> toàn dân tộc. ­ Gióng lớn nhanh như thổi <br /> ? Sau khi gặp sứ giả sự việc kì lạ gì đã xảy ra ? cơm   ăn   mấy   cũng   không <br /> ­ Từ sau hôm gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi   no,   áo   vừa   mặc   xong   đã <br /> cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã  căng đứt chỉ.<br /> căng đứt chỉ.<br /> ?  Trong nhân dân còn truyền tụng những câu ca  <br /> <br />                                                           Trang  17<br /> dao nói về sức ăn uống phi thường của Gióng:<br /> “ Bảy nong cơm, ba nong cà<br />     Uống một hơi nước, cạn đà khúc sông”<br /> Điều đó nói lên suy nghĩ và  ước mong gì của nhân  <br /> dân về người anh hùng đánh giặc?<br /> ­ Người anh hùng là người khổng lồ  trong mọi sự <br /> việc kể cả sự ăn uống. Điều đó cũng phản ánh ước <br /> mong Gióng lớn nhanh để kịp đánh giặc.<br /> ? Những người  nuôi  Gióng lớn là ai? Nuôi bằng  ­   Dân   làng   gom   góp   gạo <br /> cách nào? nuôi Gióng.<br /> ­ Cha mẹ và bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo <br /> nuôi Gióng.  Sức mạnh của Gióng là <br /> ?  Chi tiết bà con làng xóm vui lòng gom góp gạo  sức   mạnh   của   cả   cộng <br /> nuôi Gióng có ý nghĩa gì? đồng<br /> ­ Anh hùng Gióng thuộc về  nhân dân. Sức mạnh <br /> của Gióng là sức mạnh của cả cộng đồng.<br /> ? Sau khi được dân làng góp gạo nuôi, Gióng trở <br /> thành người như thế nào?<br /> ­ Vươn vai một cái thành tráng sĩ   oai phong lẫm  <br /> liệt.<br /> ?   Em   suy   nghĩ   ntn   về   cái   vươn   vai   thần   kì   của  <br /> Thánh Gióng?<br /> ­ Là cái vươn vai phi thường, là ước mong của nhân <br /> dân về người anh hùng đánh giặc.<br /> * Giảng: là một yếu tố  thần kì trong truyện dân <br /> gian. Người anh hùng là người đạt tới sự khổng lồ, <br /> cái vươn vai của Gióng là để  đạt tới sự  khổng lồ        c.   Gióng   đánh   thắng <br /> ấy… giặc và trở về trời:<br /> ? Gióng đánh giặc như thế nào ? ­ Đón đầu đánh hết lớp này <br /> đến   lớp   khác,   giặc   chết <br /> ­ Đón đầu đánh hết lớp này đến lớp khác, giặc chết <br /> như rạ<br /> như rạ<br /> ­ Roi sắt bị gãy, Gióng nhổ <br /> ? Trong khi đánh giặc sự  việc gì đã xảy ra, Thánh <br /> những cụm tre bên đường <br /> Gióng xử lí việc đó như thế nào ?<br /> quật vào giặc<br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> ­   Roi   sắt   bị   gãy,   Gióng   nhổ   những   cụm   tre   bên <br /> đường quật vào giặc ­   Gióng   đánh   giặc   không <br /> ? Theo em, chi tiết “ Gióng nhổ những cụm tre bên  chỉ   bằng   vũ   khí   mà   còn <br /> đường quật vào giặc” khi roi sắt gãy có ý nghĩa gì? bằng những thứ dân dã đời <br /> ­ Gióng đánh giặc không chỉ  bằng vũ khí mà còn  thường <br /> bằng những thứ  dân dã đời thường. Thể  hiện tinh  Tinh   thần   tiến   công <br /> thần tiến công mãnh liệt của người anh hùng. mãnh   liệt   của   người   anh <br /> Gv liên hệ:  Ở  nước ta, đến cả  cây cỏ  cũng thành  hùng.<br /> vũ khí giết kẻ  thù, đúng như   lời Bác Hồ  : “Ai có <br /> súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm. Ai không  <br /> có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc …”<br /> ? Vì sao đánh tan giặc, Gióng cởi áo giáp sắt để lại  <br /> và bay về trời? theo em chi tiết này có ý nghĩa gì?<br />  ­  Gióng ra đời phi thường và ra đi cũng phi thường <br />  Làm việc nghĩa vô tư không vì vinh hoa phú quí. ­ Đánh tan giặc, Gióng cởi <br /> ­ Nhân dân muốn giữ mãi hình ảnh cao đẹp, rực rỡ  áo   giáp   để   lại   và   bay   về <br /> của người anh hùng cứu nước. trời.   Là   người   có   công <br /> đánh   giặc   nhưng   không <br /> GV đặt câu hỏi liên hệ  thực tế  phát triển năng  màng danh vọng.<br /> lực HS:<br /> ? Truyền thuyết thường liên quan đến lịch sử. Theo <br /> em, những di tích nào còn lưu lại ?<br />   ­  Tre  đằng  ngà,   vết   chân  ngựa,  đền  thờ   ở  làng <br /> Gióng<br /> ? Hãy nêu ý nghĩa của truyện Thánh Gióng?<br />   Cuối cùng GV chỉ  định 1 HS đọc to phần Ghi  * Ghi nhớ ­ SGK<br /> nhớ để nắm kĩ nội dung bài học. II. Luyện tập.<br />  Hoạt động 3 Bài tập 1:<br /> ­ Gv hướng dẫn hs làm bài Học sinh tự  bộc lộ  và giải <br /> ? Hình  ảnh nào của Gióng là hình  ảnh đẹp nhất  thích <br /> trong tâm trí em? Nêu lí do? Bài tập 2<br /> ­   Đây là hội thi dành cho <br />                                                           Trang  19<br /> lứa   tuổi   thiếu   niên   –   lứa <br /> ? Theo em, tại sao hội thi nhà trường phổ thông lại  tuổi Gióng. <br /> mang tên Hội khoẻ Phù Đổng? ­  Mục đích của hội thi là <br /> khoẻ mạnh, sức mạnh để <br /> học sinh có thể học tập <br /> tốt, lao động tốt góp phần <br /> vào sự nghiệp bảo vệ đất <br /> nước.<br /> <br /> 4. Củng cố:  GV hướng dẫn HS củng cố  bài bằng sơ  đồ  tư  duy nội dung văn <br /> bản.<br /> <br /> <br /> 5. Dặn dò:<br /> ­ Đọc lại tác phẩm. Xem nội dung bài. <br />  ­ Học thuộc phần Ghi nhớ. Vẽ sơ đồ tư duy nội dung văn bản theo cách của em.<br /> ­ Soạn bài “ Từ mượn”.<br /> IV. Tính mới của giải pháp<br /> Có thể với những giải pháp trên đây nhiều giáo viên cũng đã từng áp dụng  <br /> nhưng riêng bản thân tôi, khi được tập huấn và đưa vào áp dụng trong các tiết  <br /> học, tôi nhận thấy những điểm mới ở đề tài này đề cập là: <br /> ­ Các giải pháp tôi đưa ra đây có quan hệ mật thiết không tách rời, sự kết <br /> hợp đồng bộ  các giải pháp sẽ  mang lại hiệu quả  cao trong việc khơi gợi niềm  <br /> đam mê của học sinh với bộ môn Ngữ Văn.<br /> ­ Học sinh đã hứng thú hơn khi được học những tiết có ứng dụng CNTT.  <br /> Học sinh tự  do sáng tạo vẽ  sơ  đồ  tư  duy nội dung bài học theo suy nghĩ của  <br /> mình.<br /> ­ Hay trong tiết trải nghiệm sáng tạo học sinh có thể  tự  biến hóa mình <br /> thành những nhân vật yêu thích trong văn học. Qua đó các em cũng tự tin và hứng <br /> thú hơn rất nhiều khi đến tiết văn.<br /> ­ Khi dạy học phát triển năng lực học sinh thì các em được thể hiện mình, <br /> được làm chủ kiến thức. Từ đó, giáo viên sẽ tìm kiếm và phát triển được những  <br /> học sinh có năng khiếu của bộ môn một cách rõ nét.<br /> V. Kết quả khảo nghiệm<br /> Một số kinh nghiệm trong công tác giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng<br />  môn Ngữ văn 6<br /> <br /> Với những biện pháp trên đây, chất lượng bộ  môn trong hai năm học qua  <br /> đã được nâng cao rõ rệt. <br /> ­ Năm học 2017 – 2018:<br /> Điểm Ghi chú<br /> Năm  Lớp Sĩ số Trung <br /> Giỏi Khá Yếu Kém<br /> h ọc bình<br /> 6A1 29 2 5 16 4 0<br /> 6A7 36 7 15 14 0 0<br /> 2017­<br /> Tổng <br /> 2018 65 9 20 30 4 0<br /> cộng<br /> Tỉ lệ 13,5% 32% 47,5% 7% 0%<br /> <br /> ­ Đặc biệt trong học kì một (năm học 2018­2019) cụ thể:<br /> Điểm Ghi chú<br /> Lớp Sĩ số Trung <br /> Năm  Giỏi Khá Yếu Kém<br /> bình<br /> h ọc<br /> 6A3 26 1 3 19 3 0<br /> 6A6 35 8 12 15 0 0<br /> 2018­<br /> Tổng <br /> 2019 61 9 15 34 3 0<br /> cộng<br /> Tỉ lệ 14,6% 24,4% 56% 5% 0%<br /> <br /> Qua kết quả thống kê điểm của học sinh qua các bài kiểm tra, tôi nhận thấy rằng <br /> chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn được tăng lên rõ rệt, tỉ lệ học sinh  bị điểm yếu, <br /> kém đã giảm đi đáng kể, cụ th
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2