intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một vài biện pháp dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

61
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu đề tài: Thực hiện đề tài này với mục đích nâng cao kỹ năng đọc, viết, hiểu nghĩa của tiếng Việt, kỹ năng giao tiếp và tìm ra biện pháp khắc phục những yếu kém mà học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số thường mắc phải. Thức đẩy tinh thần tự học và tìm kiếm tri thức; mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Qua đó góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho bản thân, nâng cao chất lượng giáo dục, kỹ năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu giáo dục ngày một đi lên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một vài biện pháp dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số

Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> <br /> I. Phần mở đầu<br /> 1. Lí do chọn đề tài<br /> Mục tiêu hàng đầu của giáo dục chính là đào tạo con người phát triển <br /> toàn diện về  đức, trí, thể, mĩ và các kỹ  năng cơ  bản để  các em tiếp tục học  <br /> lên trung học cơ sở, các cấp học khác và áp dụng những kiến thức đã học vào <br /> thực tiễn cuộc sống lao động nhằm đáp  ứng với thời đại công nghiệp hóa,  <br /> hiện đại hóa đất nước. Thực tế  hiện nay ngành giáo dục đào tạo luôn được <br /> nhà nước và cả xã hội quan tâm đưa lên quốc sách hàng đầu. Tiểu học là bậc  <br /> học nền tảng, việc dạy chữ  có tầm quan trọng vì nó đồng nghĩa với việc  <br /> chúng ta đã trao cho các em chìa khóa để  mở  ra những cánh cửa bước vào  <br /> tương lai.<br /> Tiếng Việt là tiếng phổ  thông đóng vai trò quan trọng góp phần hình <br /> thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt để học và giao <br /> tiếp trong các môi trường hoạt động của trẻ. Nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt  <br /> là công cụ để học học tập các môn học. Có nghe được mới nói được, có đọc <br /> được mới viết được. Chính vì thế  nên Tiếng Việt là môn học đóng vai trò <br /> quan trọng trong suốt quá trình học tập và trong cuộc sống của con người.<br /> Thực tế  cho thấy học sinh dân tộc thiểu số  gặp không ít khó khăn vì  <br /> hầu hết các em luôn có thói quen nói tiếng mẹ  đẻ  và phát triển khả  năng tư <br /> duy của các em cũng bằng chính ngôn ngữ  đó; điều kiện sử  dụng giao tiếp  <br /> bằng tiếng Việt trong cuộc sống hàng ngày còn hạn chế; bản thân các em và  <br /> cha mẹ  các em chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc nắm vững <br /> tiếng Việt. Với một trường có trên 97% học sinh dân tộc thiểu số, tôi nhận  <br /> thấy rằng khả  năng nhận diện và ghi nhớ  con chữ  chậm dẫn đến khả  năng  <br /> đọc, viết chậm. Việc đọc liền mạch từ, câu gặp nhiều khó khăn, chưa có khả <br /> năng đọc biểu cảm. Hầu hết các em còn hạn chế  về  ngôn ngữ  nói, như  nói <br /> chưa chuẩn, nói chưa đúng mà chủ yếu là nói câu chưa đầy đủ, nói thừa, nói  <br /> thiếu dấu thanh và lẫn lộn giữa dấu thanh nặng với dấu thanh sắc, … Rất ít <br /> em biết tiếp nhận thông tin, tư duy để xử lý, tái tạo nội dung thông tin.<br /> Trong công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình thức tổ chức <br /> dạy học, việc dạy tăng cường tiếng Việt đã được vận dụng linh hoạt trong <br /> các tiết học nhằm nâng cao kĩ năng sử  dụng tiếng Việt và phát huy tính tích <br /> cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Tăng cường tiếng Việt giúp các em học <br /> sinh   có <br /> cơ hội được thực hành nghe, đọc, nói, viết thành thạo, mạnh dạn tự tin trong  <br /> giao tiếp. Tuy nhiên, trong thực tế việc dạy tăng cường tiếng Việt vẫn chưa <br /> được sử  dụng đúng mực và chưa phát huy hết hiệu quả. Vì vậy các em còn  <br /> chưa hứng thú với môn học. <br /> Đổi mới phương pháp dạy học mà đặc biệt là tìm ra các giải pháp để <br /> tăng cường tiếng Việt giúp giáo viên và học sinh giảm bớt đi những khó khăn, <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 1<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> rào cản về  ngôn ngữ  nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Khi các em có <br /> được vốn tiếng Việt đủ để nghe, hiểu thì việc giao tiếp hàng ngày đặc biệt là <br /> quá trình tiếp thu bài của các em trở nên dễ dàng hơn. Sau nhiều năm nghiên  <br /> cứu và áp dụng một số  giải pháp cụ  thể  về  tăng cường tiếng Việt cho học  <br /> sinh dân tộc thiểu số tôi thấy chất lượng giáo dục ở trường đã được dần dần <br /> nâng lên. Với tầm quan trọng và cần thiết của việc tăng cường tiếng Việt cho <br /> học sinh dân tộc thiểu số thiểu số nói chung và học sinh dân tộc trường Tiểu <br /> học Võ Thị  Sáu nói riêng chính là lí do tôi chọn đề  tài “Một vài biện pháp <br /> dạy tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số”.<br /> 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài<br /> Mục tiêu: Thực hiện đề  tài này với mục đích nâng cao kỹ  năng đọc, <br /> viết, hiểu nghĩa của tiếng Việt, kỹ  năng giao tiếp và tìm ra biện pháp khắc <br /> phục những yếu kém mà học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số  thường mắc phải.  <br /> Thức đẩy tinh thần tự  học và tìm kiếm tri thức; mạnh dạn, tự  tin trong giao  <br /> tiếp. Qua đó góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho bản thân, nâng cao  <br /> chất lượng giáo dục, kỹ  năng sống cho học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số, đáp  <br /> ứng yêu cầu giáo dục ngày một đi lên. <br /> Nhiệm vụ  của đề  tài: Thống kê, tổng hợp những thuận lợi, khó khăn <br /> về học tiếng Việt của học sinh lớp 1 dân tộc thiểu số. Tìm ra biện pháp để <br /> khắc phục những nhược điểm và đề xuất một số giải pháp tăng cường, nâng <br /> cao tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số trong quá trình giảng dạy và hoạt  <br /> động ngoài giờ lên lớp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.<br /> 3. Đối tượng nghiên cứu <br /> Một vài biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh lớp 1 dân tộc <br /> thiểu số.<br /> 4. Giới hạn của đề tài<br /> Học sinh khối 1, Trường Tiểu học Võ Thị  Sáu, xã Ea Bông, huyện  <br /> Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk năm học 2016 – 2017, năm học 2017 – 2018.<br /> 5. Phương pháp nghiên cứu<br /> a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu<br /> b. Phương pháp ngiên cứu thực tế<br /> Tổng hợp số liệu về thực trạng tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu <br /> số ở trường tiểu học Võ Thị Sáu.<br /> C. Phương pháp phân tích, so sánh chất lượng, hiệu quả đào tạo trước <br /> khi chưa thực hiện giái pháp và sau khi áp dụng những giải pháp.<br /> Phỏng vấn giáo viên, học sinh về những thuận lợi, khó khăn, hiệu quả <br /> đạt được, những hạn chế  khi thực hiện những giải pháp hỗ  trợ, tăng cường  <br /> tiếng Việt.<br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 2<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> II. Phần nội dung<br /> 1. Cơ sở lí luận<br /> Tiếng Việt có vị  trí hàng đầu  ở  trường phổ  thông, đặc biệt là  ở  cấp <br /> Tiểu học. Tiếng Việt vừa là một môn học độc lập, lại vừa là một thứ  công <br /> cụ  hỗ  trợ  cho khả  năng diễn đạt và tư  duy tất cả  các môn học khác. Tiếng  <br /> Việt thể  hiện tính liên quan dạy­ học với các môn học khác. Mục tiêu của <br /> chương trình “hình thành và phát triển” ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng  <br /> Việt đó là: Nghe, nói, đọc, viết. Học sinh học Tiếng Việt bằng tư duy trực  <br /> tiếp, thông qua sự tiếp cận ngôn ngữ tự nhiên từ việc sử dụng ngôn ngữ hàng <br /> ngày một cách tự phát đến việc nắm ngôn ngữ một cách hệ thống qua các bài  <br /> học. Từ đó học sinh có tâm lý tự tin trong học tập. Bằng hiểu biết qua nghe,  <br /> nói khi học đọc và viết học sinh có thể dễ dàng nhận ra mối liên hệ giữa âm  <br /> thanh và chữ viết, giữa âm thanh và ngữ nghĩa, ngữ pháp qua đó các em có thể <br /> học đọc, học viết dễ  dàng. Nghị  quyết 40/2002/NQ­ QH của quốc Hội khóa <br /> IX về đổi mới giáo dục phổ thông đã khẳng định: Tiếng Việt là ngôn ngữ phổ <br /> thông được đưa vào dạy học thống nhất trong hệ thống quốc dân. Tiếng Việt  <br /> trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: vừa là môn học vừa là công cụ  giao <br /> tiếp, học tập của học sinh. <br /> Thực tế cho thấy vốn tiếng Việt của học sinh còn hạn chế đặc biệt là <br /> học sinh lớp Một. Việc nghe, nói, đọc, viết và kĩ năng giao tiếp của các em  <br /> học sinh dân tộc thiểu số  lại càng khó khăn. Một mặt do điều kiện kinh tế, <br /> điều kiện học tập, trình độ nhận thức trong đó sự thiếu hụt về vốn sống, vốn  <br /> ngôn ngữ là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp của tình trạng trên.<br /> Học tốt môn Tiếng Việt trở thành điều kiện thuận lợi cho việc học các  <br /> môn học khác. Do đó, ngay từ  khi bước vào ngưỡng cửa của lớp Một, việc <br /> hình thành nên một tư  duy ngôn ngữ  cho các em là hết sức cần thiết. Tiếng  <br /> Việt là tiền đề cho quá trình học tập của các em sau này.<br /> Tập nói tiếng Việt là nhiệm vụ  đầu tiên với các em. Học sinh dân tộc <br /> cần có vốn tiếng Việt trước để học chữ. Bộ giáo dục đã có nhiều văn bản chỉ <br /> đạo như  công văn 9832/ BGD&ĐT ­ GDTH ngày 1 tháng 9 năm 2006; công <br /> văn 9890/ BGD&ĐT – GDTH ngày 17 tháng 9 năm 2007 về  việc hướng dẫn <br /> nội dung, phương pháp giáo dục cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn; công <br /> văn số  8114/ BGD&ĐT­ GDTH V/v nâng cao chất lượng dạy học cho học  <br /> sinh   dân   tộc   thiểu   số   ban   hành   ngày   15   tháng   9   năm   2009;   công   văn <br /> 5842/BGD&ĐT­ VP ngày 01 tháng 09 năm 2011 hướng dẫn điều chính nội <br /> dung dạy học. Trong những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức <br /> hội nghị "Triển khai các phương án tăng cường tiếng Việt (lớp 1) cho học  <br /> sinh dân tộc thiểu số ". Tại hội nghị, xuất phát từ  những quan điểm, lý luận <br /> giáo dục và cách tiếp cận gắn với đặc điểm học sinh dân tộc các vùng miền, <br /> năm phương án về chủ đề này đã được trình bày, và trao đổi ý kiến rộng rãi. <br /> Đó là: 1) Chuẩn bị  tiếng Việt cho trẻ  mẫu giáo trước tuổi đến trường (Vụ <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 3<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> GD Mầm non). 2) Dạy tiếng Việt trên cơ sở tiếng mẹ đẻ trong chương trình <br /> song ngữ  Ê­ đê­ Việt (Vụ  GD Dân tộc). 3) Nghiên cứu thử  nghiệm giáo dục <br /> song ngữ dựa trên tiếng mẹ  đẻ  (Trung tâm Nghiên cứu GD dân tộc). 4) Dạy  <br /> học tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số   ở  lớp 1(Nhóm tăng <br /> cường năng lực dạy và học­ Dự án PEDC). 5) Dạy học lớp 1 cho học sinh dân <br /> tộc chưa biết nói tiếng Việt (Trung tâm Công nghệ GD). <br /> <br /> <br /> <br /> 2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu  <br /> Trường Tiểu học Võ Thị Sáu là một trường thuộc vùng khó khăn. Toàn <br /> trường có 542 học sinh, trong đó có 515 em dân tộc thiểu số  chủ  yếu là dân <br /> tộc Ê – đê chiếm trên 95%. Trình độ  dân trí còn thấp, cuộc sống của người  <br /> dân còn gặp nhiều khó khăn. Đội ngũ giáo viên trong tổ  chưa đồng đều, số <br /> giáo viên người dân tộc thiểu số  chiếm 31,1%  kinh nghiệm giảng dạy còn <br /> hạn chế. Chất lượng giáo dục hàng năm còn thấp, tỉ  lệ  học sinh thành thạo <br /> bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết chưa cao. <br /> Năm học 2017 – 2018, khối 1 có 110 em, trong đó học sinh dân tộc <br /> thiểu số  là 104 em chiếm 94,5%, số  em người Kinh cũng gặp không ít khó <br /> khăn. Mặc dù hằng năm đã được nghiệm thu lớp Mẫu giáo 5 tuổi, nhưng  <br /> trong thực tế có một số em đến ngày nghiệm thu mới ra lớp vì vậy vốn tiếng <br /> Việt của các em còn nghèo nàn nên việc giao tiếp của các em gặp nhiều khó  <br /> khăn. Mặt khác qua 3 tháng nghỉ  hè các em không có cơ  hội giao tiếp bằng  <br /> tiếng phổ thông. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất cho giáo viên dạy  <br /> lớp Một. Những em này hầu như chưa biết tiếng Việt và chưa biết giao tiếp  <br /> bằng tiếng Việt.  Tỉ lệ học sinh có thể hỏi, trả lời và hiểu được yêu cầu của  <br /> giáo viên chỉ chiếm tỉ lệ một phần nhỏ. Các em chỉ nghe và hiểu được những <br /> câu lệnh đơn giản như “trật tự”, “ra chơi”, “vào lớp”, “ra về”. <br /> Khi bước vào lớp Một, kiến thức về  tiếng Việt của các em như  một <br /> trang giấy trắng. Giáo viên rất vất vả trong quá trình truyền thụ kiến thức cho <br /> các em vì người giáo viên vừa phải dạy tiếng kết hợp dạy chữ, dạy kỹ năng <br /> sống. Qua thực tế giảng dạy, tôi luôn trăn trở tìm nhiều giải pháp để nâng cao <br /> chất lượng giáo dục như đổi mới phương pháp dạy học, tăng thời lượng môn <br /> tiếng Việt theo chương trình 300 tiết lên 500 tiết, tăng cường phụ  đạo học <br /> sinh còn khó khăn trong học tập, tổ chức các hình thức học tập theo nhóm, đôi <br /> bạn cùng tiến, nhiều tiết học kéo dài 60 – 65 phút song chất lượng vẫn chưa <br /> được  như mong muốn. Có khi một câu hỏi giáo viên đưa ra đến ba lần nhưng <br /> các em vẫn không hiểu, không trả  lời được. Cũng có khi các em chỉ  trả  lời  <br /> trống không, không có đầu câu và cuối câu. Một vài em sau khi lên lớp mới <br /> chỉ  biết đánh vần, chưa có khả  năng đọc thông viết thạo, một số  em không  <br /> thích đi học vì không tiếp thu được bài. Xảy ra tình trạng này không phải là <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 4<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> do giáo viên cho học sinh lên lớp khi chưa đủ điều kiện lên lớp mà do các em  <br /> còn ít vốn tiếng Việt nên các em tiếp thu kiến thức một cách thụ động rất dễ <br /> quên. Lại thêm 3 tháng nghỉ hè các em đã quên khá nhiều kiến thức trong đó <br /> đặc biệt quan trọng là quên việc đọc, viết là làm toán dẫn đến tình trạng <br /> nhiều học sinh ngồi nhầm lớp.<br /> Việc tạo thói quen và bồi dưỡng tiếng Việt của các em  ở  gia đình và <br /> cộng đồng cũng gặp khó khăn vì người dân thường sống theo buôn làng, ít <br /> giao tiếp với người Kinh, không có điều kiện giao tiếp bằng tiếng phổ thông.  <br /> Nhiều người trong gia đình không nói được tiếng Việt hoặc ít sử dụng tiếng  <br /> Việt nên việc sinh hoạt giao tiếp trong gia đình hầu như  bằng tiếng mẹ  đẻ.  <br /> Vì vậy, khi trẻ ra lớp thường chưa nói và hiểu được tiếng Việt.<br /> Bên cạnh đó, trình độ  dân trí vẫn còn thấp, các gia đình chưa thật sự <br /> quan tâm đến việc học tập của con em. Nhiều em học sinh vì hoàn cảnh khó <br /> khăn của gia đình nên thường xuyên phải nghỉ  học. Nhiều gia đình không có  <br /> bàn ghế, không có góc học tập để các em học ở nhà. <br /> 3. Nội dung và hình thức của giải pháp<br /> a. Mục tiêu của giải pháp<br /> Nghiên cứu lựa chọn giải pháp phù hợp với đối tượng học sinh dân tộc <br /> thiếu số nhằm tăng cường tiếng Việt một cách hiệu quả  góp phần nâng cao <br /> chất lượng giáo dục giảm tỉ  lệ  học sinh lưu ban, bỏ  học.  Tăng cường tiếng <br /> Việt cho học sinh lớp Một, giúp các em tự tin mạnh dạn trong giao tiếp, tiếp  <br /> thu các môn học có hiệu quả là cơ sở để các em học tốt ở các lớp trên.<br /> b. Nội dung và cách thức thực hiện của giải pháp<br /> Biện pháp thứ  nhất: Phối hợp và đổi mới phương pháp dạy học <br /> phù hợp với tình hình thực tế của lớp học <br /> Đổi mới phướng pháp dạy ­ học và đánh giá đóng vai trò rất quan trọng <br /> trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đây là việc làm thường xuyên, <br /> liên tục của người giáo viên nhằm đem đến cho người học sự hứng thú trong <br /> học tập và hiệu quả  cao nhất. Đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá  <br /> nhằm giúp học sinh chủ động trong việc học, chống lại thói quen học tập thụ <br /> động. Rèn luyện cho học sinh cách học theo nhóm, phát huy tính sáng tạo,  <br /> năng động, cách trình bày một vấn đề, cách thuyết trình trước đám đông, cách  <br /> trả lời câu hỏi nhanh và đúng. Loại bỏ dần thói quen thu nhận thông tin một <br /> cách thụ động của người học để hoạt động học thực sự là một quá trình kiến  <br /> tạo. <br />  Một tiết học thành công phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Một trong những  <br /> yếu tố không thể thiếu đó là sự phối hợp linh hoạt các phương pháp dạy học, <br /> và  đối   tượng  học   sinh.   Mỗi  phương  pháp   có   một  ưu   thế   riêng  không   có <br /> phương pháp nào là vạn năng. Vì vậy, người giáo viên phải biết vận dụng,  <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 5<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh vừa  <br /> truyền  đạt  kiến thức của bài học  đồng thời tăng cường tiếng Việt bằng <br /> những phương pháp như sau:<br /> Phương pháp 1:  Phương pháp quan sát, động viên, khen thưởng học <br /> sinh. Trong mỗi tiết dạy, người giáo viên thường quan sát, nắm bắt kịp thời  <br /> từng đối tượng học sinh. Đối với những em năng khiếu thường khích lệ, khen <br /> ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn với học sinh khó khăn trong học tập phải <br /> nhẹ  nhàng an  ủi động viên: “ Em đã có tiến bộ, nếu em đọc không sai dấu  <br /> thanh sắc thì em đọc hay hơn”. Chỉ  bằng những lời động viên, khích lệ  nhỏ <br /> cũng tạo cho các em có sự hứng thú học tập. Không chỉ  động viên khen khen <br /> ngợi mà còn giành nhiều thời gian để  giúp đỡ các em. Trong giờ ra chơi giáo <br /> viên nên trò chuyện, chỉ  bảo cho các em những chỗ  các em chưa biết. Với <br /> phần quà nhỏ  như  cuốn vở, viên phấn, cây bút... cũng làm cho các em phấn  <br /> khởi và cố gắng hơn. . <br /> Ví dụ: Em H’Sê Na Bkrông lúc đầu em đọc rất yếu lại đọc sai dấu <br /> thanh sắc với dấu thanh nặng. Thấy vậy, tôi thường xuyên gọi em đọc bài.  <br /> Tôi phân tích lại cấu tạo của tiếng em đọc sai gồm có âm, vần, dấu thanh sau  <br /> đó hướng dẫn cách phát âm thật kĩ lưỡng. Đối với tiếng có dấu thanh sắc khi  <br /> phát âm chú ý cao độ  tức là phải đọc lên giọng, còn tiếng có thanh nặng cao <br /> độ  thấp nên đọc xuống giọng. Sau đó phát âm mẫu rồi yêu cầu em phát âm  <br /> lại.  Mặc dù em phát âm chưa chuẩn nhưng vẫn động viên và khen ngợi. Vì <br /> thế dần dần em mạnh dạn, tự tin hơn khi tham gia hoạt động học và một thời <br /> gian sau em đã phát âm đúng.<br /> Phương pháp 2: Phương pháp hỏi đáp<br />            Đây là phương pháp mà giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả <br /> lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát <br /> hiện những cái mới từ đó tự chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động.<br />            Ví dụ: Khi dạy bài 8: l – h, sau khi cho học sinh tìm ghép trên bảng gài <br /> âm mới, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi hướng các em suy nghĩ trả lời phát  <br /> hiện cái mới như sau:<br />  ­ Đây là âm gì? <br />  ­ Tiếng lê gồm có mấy âm tạo thành?<br />            Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ <br /> nghe, dễ  hiểu tránh những câu hỏi dài dòng, câu hỏi có hoặc không. Lời nói <br /> của giáo viên khi đưa ra câu hỏi phải nhẹ nhàng, tuyệt đối không la mắng khi  <br /> học sinh trả lời sai.<br />           Phương pháp 3: Phương pháp tổ chức học nhóm<br /> Học tập theo nhóm là một hình thức tổ  chức dạy học mà trong đó học <br /> sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ. Là phương pháp có sự <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 6<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> tham gia tích cực của học sinh. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi  <br /> có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen  <br /> sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan  <br /> điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ  năng giải quyết vấn đề  khó khăn.. <br /> Kết   quả   làm   việc   của   nhóm   được   trình   bày   và   đánh   giá   trước   toàn   lớp.  <br /> Phương pháp dạy học theo nhóm được đánh giá là một phương pháp tích cực, <br /> hướng vào học sinh, phát huy cao độ  khả  năng hợp tác, giúp đỡ  học tập lẫn <br /> nhau. Vì vậy trong mỗi tiết dạy giáo viên thường chia nhóm cho các em học <br /> tập đảm bảo nhóm nào cũng có em năng khiếu, em còn khó khăn trong học <br /> tập. Qua hoạt động tổ chức học theo nhóm các em được học tập lẫn nhau, từ <br /> đó các em sẽ mạnh dạn và tự tin hơn trong giao tiếp. Tuy vậy giáo viên không <br /> nên lạm dụng phương pháp dạy học theo nhóm quá nhiều.<br /> Ví dụ: Khi dạy bài 17: U, Ư, sau khi cho các em nhận biết âm u và âm  <br /> ư, tôi tổ chức cho các em tìm tiếng, từ có chứa âm vừa học. Giáo viên chia lớp <br /> thành các nhóm, mỗi nhóm có 4 em trong đó một em làm nhóm trưởng. Sau đó <br /> giao việc và thời gian cho các em thảo luận tìm ra những tiếng từ có chứa vần <br /> vừa học. Trong quá trình thảo luận, các em trao đổi tìm ghép vào bảng gài <br /> những tiếng từ theo yêu cầu. Hết thời gian, các em tự phân công nhau báo cáo  <br /> kết quả làm việc của nhóm mình. Các bạn khác nghe để  bổ sung ý kiến nếu <br /> thấy còn thiếu. Qua hình thức tổ chức này giúp các em mạnh dạn, tính thi đua,  <br /> học hỏi lẫn nhau, được nói một cách tự nhiên dù kết quả thảo luận chưa cao.<br /> Khi dạy phần luyện nói bài tập đọc Bàn tay mẹ  sách giáo khoa Tiếng  <br /> Việt lớp 1, tập 2 trang 56, giáo viên chia nhóm, giao việc, quy định thời gian <br /> cho các em thảo luận sau đó tổ chức cho các em thực hành hỏi đáp theo nhóm <br /> đôi, một em hỏi một em trả lời. <br /> ­ Ai nấu cơm cho bạn ăn? Mẹ tôi nấu cơm cho tôi ăn.<br /> ­ Ai chăm sóc khi bạn ốm? Mẹ tôi chăm sóc khi tôi ốm.<br /> ­ Ai mua quần áo mới cho bạn? Mẹ tôi mua quần áo mới cho tôi.<br /> ­ Ai vui khi bạn học tốt? Mẹ vui khi tôi học tốt.<br /> Khi học sinh thực hành hỏi đáp, giáo viên theo dõi, sửa chữa kịp thời  <br /> nếu các em nói câu ngược hoặc nói câu thiếu thành phần. <br /> Với những kết quả đạt được trong quá trình sử dụng phương pháp thảo <br /> luận nhóm đã giúp học sinh trở nên mạnh dạn, tự tin, vốn tiếng Việt của các  <br /> em đã được cải thiện rất đáng mừng. Các em đã có khả năng tự đặt ra những  <br /> câu hỏi, biết diễn đạt bằng lời những ý kiến của mình trước tập thế. Việc  <br /> giao tiếp của các em cũng tốt hơn. Không khí lớp học sôi động, hấp dẫn, các <br /> em tiếp thu bài cũng dễ dàng hơn, đặc biệt tạo điều kiện để  các em bổ sung <br /> vốn tiếng Việt một cách hiệu quả.<br />           Phương pháp 4: Phương pháp tổ chức các trò chơi<br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 7<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Trò chơi học tập là hình thức học tập thông qua trò chơi ''Học mà chơi, <br /> chơi mà học '' tạo ra sự hứng thú và niềm tin trong học tập,  duy trì được khả <br /> năng chú ý của các em trong tiết học. Trò chơi học tập không chỉ  nhằm giải  <br /> trí,  củng cố, hệ  thống hoá kiến thức được học, mở  rộng vốn từ, khắc sâu <br /> kiến thức, nắm chắc âm vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ <br /> thể. Trò chơi giúp các em phát triển cả  về  năng khiếu lẫn tư  duy.  Tạo môi <br /> trường để rèn luyện sự linh hoạt, nhạy bén, có thói quen phản ứng nhanh giúp <br /> các em có tính mạnh dạn, tính hợp tác, tính thi đua, tính kỉ  luật khi thể  hiện <br /> mình trước tập thể.  Thông qua trò chơi tạo không khí thi đua sôi nổi trong  <br /> mỗi tiết học, làm cho tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn, sinh động và hiệu quả <br /> hơn. Vì vậy cần xác định rõ mục đích của mỗi trò chơi, tuân thủ  các nguyên <br /> tắc và thay đổi các hình thức tổ  chức cho học sinh chơi. Có thể  tổ  chức trò <br /> chơi khi thì vào bài, có khi để dẫn dắt các em chiếm lĩnh kiến thức mới cần  <br /> đạt, có lúc để  củng cố, hệ  thống hoá kiến thức trong một bài hay trong một  <br /> chương. Khi tổ  chức trò chơi, cần phổ  biến tên trò chơi, nội dung chơi, vật  <br /> dụng phục vụ  cho trò chơi, luật chơi và trước khi tổ  chức chơi cho các em  <br /> chơi thử để các em tự tin hơn. <br /> Một trong những trò chơi phát huy tính tích cực thể hiện kĩ năng nói, kĩ <br /> năng giao tiếp là phương pháp đóng vai. <br /> Đóng vai là một trong những phương pháp gây được hứng thú trong học <br /> tập cho học sinh học mà chơi, chơi mà học, rèn tính tự tin, tinh thần đoàn kết  <br /> đặc biệt đây là điều kiện tốt để tăng cường tiếng Việt cho học sinh song để <br /> mang lại hiệu quả, giáo viên và học sinh phải đầu tư nhiều thời gian.<br /> Ví dụ khi dạy bài tập đọc Vẽ ngựa, sau khi hướng dẫn đọc và tìm hiểu  <br /> bài, giáo viên cho các em xác định bài có mấy nhân vật? Đó là nhân vật nào? <br /> Cho các em phân vai và đọc theo vai nhân vật mình yêu thích. Đến phần luyện <br /> nói, các em hỏi đáp. Một bạn vai người hỏi, một bạn vai người trả lời. <br /> Bạn có thích vẽ không? <br /> Tôi rất thích vẽ.<br /> Bạn thường vẽ vào lúc nào? Ở đâu?<br /> Tôi thường vẽ vào giờ học Mĩ thuật. Tôi vẽ trong vở tập vẽ.<br /> Đối với hình thức tổ  chức dạy học này, các em hào hứng tham gia, <br /> mạnh dạn, tự tin trình bày những suy nghĩ, việc làm của bản thân.  Tiết học  <br /> trở  nên sôi động và hấp dẫn, hiệu quả  của tiết dạỵ  khá thành công. Qua đó <br /> vốn tiếng Việt của các em cũng được cải thiện đáng kể. Bước đầu các em có <br /> kĩ năng đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi có đủ thành phần. <br /> Phương pháp 5: Phương pháp kiểm tra, đánh giá<br /> Thực hiện thông tư 22/2016/TT – BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về <br /> sửa đổi, bổ  sung một số  điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban  <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 8<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> hành kèm theo Thông tư  số  30/2014/TT­ BGD ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014  <br /> của Bộ  trưởng Bộ  Giáo dục và đào tạo. Kiểm tra, đánh giá phải được thực <br /> hiện thường xuyên trong mỗi tiết dạy, theo định kì. Kiểm tra, đánh giá là một  <br /> việc làm nhằm động viên khuyến khích và chỉ ra những thiếu sót của học sinh  <br /> giúp học sinh có hướng khắc phục. Từ  đó giúp giáo viên và học sinh có kế <br /> hoạch dạy – học phù hợp. <br /> Qua kết quả  kiểm tra sẽ đánh giá hiệu quả  của việc nghiên cứu phối <br /> hợp một số phương pháp dạy học nhằm nâng cao kĩ năng nghe, nói, đọc, viết  <br /> và sự  tự tin trong giao tiếp từ đó nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh  <br /> dân tộc thiểu số.<br /> Biện pháp thứ  hai: Bồi dưỡng những học sinh thành thạo tiếng  <br /> Việt để làm trợ giảng cho giáo viên<br /> Những năm trước đây, dự án PEDC đã hỗ trợ kinh phí để hợp đồng mỗi <br /> điểm trường một nhân viên là người dân tộc thiểu số để hỗ trợ, giúp đỡ giáo <br /> viên trong việc “ phiên dịch ” hướng dẫn, làm quen với giáo viên. Giúp cho <br /> học sinh hiểu được những yêu cầu của giáo viên và ngược lại nhằm nâng cao <br /> chất lượng trong quá trình giảng dạy. Song việc thực hiện gặp nhiều khó  <br /> khăn nên hiệu quả mang lại không được như mong muốn. <br /> Từ  năm 2010, dự  án PEDC kết thúc, giáo viên người Kinh không biết <br /> tiếng dân tộc nên gặp khó khăn trong quá trình giảng dạy nhất là đối với học  <br /> sinh lớp Một. Vì vậy nhiều giáo viên vào đầu năm học đã nhờ vài em có vốn  <br /> tiếng Việt nổi trội trong lớp làm “ phiên dịch” trong quá trình tổ chức lớp học. <br /> Sau đó, giáo viên bồi dưỡng, hướng dẫn những em học sinh này giống như <br /> một “ trợ giảng” đắc lực cho giáo viên nhằm thực hiện phương pháp hỏi đáp  <br /> trong quá trình dạy học. Biện pháp này rất gần gũi và nhẹ  nhàng giúp giáo <br /> viên và học sinh cảm thấy thoải mái, không còn sự  ngăn cách mà không tốn <br /> nhiều thời gian. <br /> Không nhất thiết trong suốt tiết học chỉ có giáo viên hỏi ­ học sinh trả <br /> lời. Để  phát huy tính tích cực, chủ  động trong học tập, giáo viên định hướng <br /> cho học sinh kĩ năng hỏi, đáp thông qua người học với người học. Trong mỗi <br /> tiết học, giáo viên thường xuyên phát hiện, bồi dưỡng học sinh năng khiếu để <br /> các em có thêm kĩ năng đặt câu hỏi. Những em năng khiếu trong lớp “thay <br /> mặt” giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để bạn mình suy nghĩ và trả lời. Cũng <br /> có lúc nhiều bạn chưa hiểu nên phải hỏi thêm bằng tiếng dân tộc. Hình thức <br /> này nhằm khuyến khích học sinh mạnh dạn và hình thành kỹ  năng đặt câu  <br /> hỏi, trả  lời trước đám đông, giúp các em có động lực tìm tòi, học hỏi để  tự <br /> nâng cao vốn tiếng Việt của mình khi được thầy cô tin tưởng giao nhiệm vụ.  <br /> Những em học sinh khác cũng có động lực cố  gắng có được vốn tiếng Việt <br /> để trả lời được những câu hỏi do chính bạn mình đặt ra bằng tiếng Việt.<br /> <br /> <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 9<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Qua thời gian thực hiện giải pháp này, cho ta thấy kết quả đem lại rất  <br /> khả quan. Tiết học nhẹ nhàng, các em rất hứng thú vì được tham gia vào các  <br /> hoạt động học tập chủ  động. Nhiều em học sinh được giáo viên bồi dưỡng <br /> đã trở thành những học sinh năng khiếu có kỹ năng điều hành hoạt động học  <br /> trong lớp, có kĩ năng nghe và diễn đạt tiếng Việt rất tốt. <br /> Biện pháp thứ ba: Tăng cường Tiếng Việt cho học sinh thông qua <br /> dạy Môn Tiếng Việt <br /> Dạy học Tiếng Việt cho học sinh lớp Một dân tộc thiểu số quả là khó <br /> khăn  bởi đây là ngôn ngữ thứ hai các em. Vào lớp Một, các em bắt đầu tiếp  <br /> cận với vốn tiếng Việt không chỉ  học chữ  mà còn học nói. Tồn tại khó sửa  <br /> nhất đối với các em học sinh dân tộc thiểu số là nói, viết thừa hoặc thiếu dấu <br /> thanh, nói câu thừa hoặc nói câu thiếu thành phần, nói ngược. Điều đó  ảnh <br /> hưởng rất lớn đến việc học tập, giao tiếp.  Nó có thể  làm ta hiểu sai nghĩa <br /> của từ, của nội dung câu nói. Vì thế  việc dạy tăng cường tiếng Việt trong  <br /> môn Tiếng việt có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng môn học. <br /> Do vậy, khi giảng từ, giải nghĩa từ, hướng dẫn phát âm giáo viên hướng dẫn  <br /> kỹ, phát âm mẫu nhiều lần, sửa sai cụ thể cho các em. Thực hiện  việc tăng <br /> thời lượng môn tiếng Việt theo chương trình 300 tiết lên 500 tiết cũng là một  <br /> thuận lợi, học sinh có nhiều thời gian để luyện tập. <br /> Trên thực tế  việc thực hiện tăng thời lượng môn Tiếng Việt từ  2 tiết <br /> thành 3 tiết nên thời gian các em thực hành đọc, nói nhiều hơn. Tạo cơ  hội  <br /> cho các em phát huy tính tự tin, mạnh dạn trong hoạt động học. Vậy để nâng <br /> cao có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, mạnh dạn trong giao tiếp, việc đầu tiên  <br /> giáo viên phải giúp các em biết đọc, biết viết. Có đọc được mới viết được, có <br /> nghe được mới nói được. Đọc đúng mới viết đúng. Vì vậy để các em phát âm <br /> đúng, khi dạy phát âm giáo viên cần phát âm mẫu vài ba lần một từ nào đó rồi  <br /> yêu cầu các em quan sát khẩu hình và lắng nghe cô phát âm sau đó yêu cầu <br /> học sinh nhắc lại (cá nhân, đồng thanh). Làm sao em nào cũng được đọc. Giáo  <br /> viên theo dõi và sửa lỗi phát âm cho học sinh. Với những âm, tiếng khó khi  <br /> phát âm giáo viên có thể mô tả bằng cách nêu rõ vị trí của cách đặt lưỡi, vị trí  <br /> của lưỡi với răng, độ  mở  của môi... Giáo viên lưu ý cần sử  dụng các từ  ngữ <br /> mô tả dễ hiểu kết hợp với việc cho học sinh quan sát giáo viên phát âm. Việc <br /> phát âm được tiến hành với các mức độ  khác nhau: âm, vần, tiếng chứa vần  <br /> và dấu thanh, từ, câu, bài.  Từ  đó học sinh phát âm một cách chính xác hơn. <br /> Để thay đổi không khí và thu hút học sinh học tập trong tiết học giáo viên có <br /> thể thay đổi hình thức dạy học bằng cách tổ chức các trò chơi học tập. <br /> Ví dụ : Dạy bài 94: oang, oăng trang 24 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp  <br /> 1, tập 2. Để phát huy tính tích cực chủ động trong học tập, cần khuyến khích <br /> học sinh năng khiếu đọc mẫu, sau đó gọi nhiều em đọc lại. Nhưng với bài <br /> này các em thường nhầm lẫn giữa oang/ oan, oăng/ oăn; từ  ngữ  ứng dụng có <br /> dấu thanh sắc. Nên giáo viên hướng dẫn thật kĩ lưỡng độ  mở  của môi rồi <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 10<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> thực hiện mẫu cho các em quan sát. Nếu thấy học sinh chưa phát âm đúng,  <br /> giáo viên phát âm cả hai vần oang và oan để các em phân biệt độ mở môi vần <br /> oan – oang. Khi đọc thành thạo vần, tiếp tục cho các em đọc tiếng, từ  rồi so  <br /> sánh hai vần vừa học rút ra điểm giống nhau và khác nhau của hai vần. Cuối <br /> tiết học, tổ chức cho các em thi nhận biết vần trong tiếng, từ và đọc lại bằng <br /> cách thi tìm tiếng, từ  có chứa vần vừa học. Sang phần luyện tập đọc đoạn <br /> ứng dụng lắng nghe các em thường hay đọc sai tiếng nào thì dừng lại phân  <br /> tích, hướng dẫn cách đọc ngay như tiếng nắng – năng;  thoảng – thoãng; tập ­ <br /> tấp ­ tấc;....Rõ ràng khi được quan sát thực tế và thực hành đọc nhiều lần các  <br /> em đọc đúng, rõ ràng hơn. <br /> Nghe và nói tiếng Việt có liên quan mật thiết với nhau. Có nghe được <br /> mới nói được, nghe đúng mới nói đúng. Do vậy, giáo viên phải nói rõ ràng, nói  <br /> đúng, đồng thời phải nói chậm rãi để học sinh dễ tiếp thu và hướng dẫn cách  <br /> phát âm, cách nói để học sinh nói theo. Khả năng nói tiếng Việt của học sinh <br /> được xác định là khả năng phát âm chuẩn, khả năng sử dụng tiếng từ đúng và  <br /> phong phú trong khi nói, khi tham gia giao tiếp với người khác. Khả năng nói <br /> tiếng Việt là nền tảng ban đầu quan trọng nhất để  hình thành các kỹ  năng  <br /> khác của môn Tiếng Việt. Đặc biệt đối với học sinh dân tộc Ê ­ đê các em nói  <br /> thế  nào viết thế   ấy thì việc tập cho các em nói đúng lại càng có ý nghĩa vô  <br /> cùng quan trọng. Thực tế trong giảng dạy cho thấy khả năng nói tiếng Việt <br /> của các em là rất yếu, nói lẫn lộn giữa tiếng mẹ  đẻ  và tiếng Việt. Đó là do  <br /> vốn từ về tiếng Việt của các em còn quá ít, các em không diễn đạt được khi <br /> nói khi giao tiếp, còn rụt rè trong giao tiếp... <br /> Để tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc mỗi giáo viên cần quan <br /> tâm đến kỹ năng dạy phát triển lời nói trong các bài học âm vần cũng như kỹ <br /> năng nghe, nói trong tiếng Việt. Để thực hiện tốt được nội dung này giáo viên  <br /> cần dùng tranh ảnh vật thật, điệu bộ, cử chỉ.. và lời nói tiếng Việt để hướng  <br /> dẫn, gợi ý trao đổi trực tiếp với học sinh trong quá trình lên lớp. Giáo viên  <br /> cần tổ  chức cho học sinh thực hành nhiều lần theo mẫu( hỏi ­ trả  lời) hoặc  <br /> giao tiếp trực tiếp tại lớp bằng các hình thức như: cá nhân nói trước lớp, nói <br /> theo cặp, trò chơi học tập. Qua các hoạt động đó tạo điều kiện cho học sinh  <br /> tập nói tiếng Việt một cách hứng thú, tự giác. <br /> Ví dụ  dạy phần luyện nói bài 13: N, M<br /> Giáo viên tổ chức cho các em luyện nói theo hình thức hỏi ­ trả lời như <br /> sau:<br /> Lần lượt đưa ra các câu hỏi, nhiệm vụ  của các em quan sát bức tranh  <br /> trang 29 nói lại những hiểu biết của mình. <br /> ­ Chủ đề luyện nói là gì? Thưa cô chủ  đề  luyện nói hôm nay là ba má, <br /> bố mẹ.<br /> <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 11<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> ­ Quê em gọi người sinh ra mình là gì ? Quê em gọi người sinh ra em là  <br /> bố mẹ, ma mí, ba má. <br /> Mỗi địa phương có cách gọi khác nhau. Giáo viên chú ý giảng cho học  <br /> sinh hiểu rõ cách gọi của từng địa phương cụ  thể: Có nơi gọi là bố  mẹ, có  <br /> nơi gọi là ba má. Còn đối với các em đồng bào thường gọi là ma, mí. Tất các  <br /> các cách gọi trên đều chỉ người sinh ra chúng ta. <br /> ­ Nhà em có mấy anh em, em là con thứ mấy? <br /> Có nhiều câu trả lời khác nhau<br /> Nhà em có 2 anh em, em và em của em. Nhà em có 3 anh em: chị em, em  <br /> và em của em. Nhà em có 2 chị em: em và em của em. <br /> ­ Em thường làm gì để  bố  mẹ  luôn vui lòng? Để  bố  mẹ  vui lòng em <br /> phải ngoan ngoãn, vâng lời bố  mẹ, chăm học, giúp mẹ  những việc vừa sức  <br /> mình, không nghịch, không đánh nhau,...<br /> Căn cứ vào khả năng nói của học sinh giáo viên sửa chữa, uốn nắn kịp  <br /> thời cách nói, nói phải đủ câu, không nói câu cụt thiếu thành phần, không nói <br /> câu ngược. Đồng thời giáo dục các em biết yêu quý bố mẹ ­ người sinh thành <br /> ra mình, biết tuyên truyền với mọi người cần thực hiện kế  hoạch hóa gia <br /> đình tức là không nên sinh nhiều con. Có như vậy mới nuôi con khỏe dạy con  <br /> ngoan. <br /> Cũng có thể tổ chức cho các em luyện nói theo cặp một em hỏi, một em  <br /> trả lời. Như vậy sẽ tạo tính mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp cho các em.<br />       Trong giờ  dạy, giáo viên chú ý tạo điều kiện cho tất cả  các em đều  <br /> được tham gia trả lời, giao tiếp tuỳ thuộc vào khả  năng của từng đối tượng.  <br /> Và dành nhiều thời gian tập và hướng dẫn thật kĩ nên hiệu quả nâng cao. Mặt  <br /> khác, việc tập nói tiếng Việt cho học sinh phải được thực hiện dưới nhiều  <br /> hình thức và phương pháp dạy học khác nhau như: dạy trong tiết dạy tăng <br /> cường tập nói tiếng Việt, thông qua trò chơi, nói chuyện.....với các phương <br /> pháp trực quan, phương pháp thực hành luyện tập theo mẫu, phương pháp  <br /> giao tiếp, phương pháp đàm thoại. Việc phối hợp hệ thống các phương pháp <br /> dạy tập nói tiếng Việt giúp các em dễ hiểu dễ nhớ về nghĩa của từ thông qua  <br /> các hình  ảnh trực quan, nói đúng cấu trúc câu theo mẫu, hạn chế  cách nói  <br /> ngược theo tiếng địa  phương. Tập cho học sinh khả năng diễn đạt theo tình <br /> huống, tự tin trong học tập, giao tiếp với bạn bè với thầy cô giáo bằng tiếng <br /> Việt. Tuy vậy, cần phải có sự linh hoạt sáng tạo, không rập khuôn máy móc, <br /> mà   phải   tuỳ   theo   từng   mức   độ   của   đối   tượng   để   lựa   chọn   nội   dung   và <br /> phương pháp cho phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả  theo các việc như  lựa  <br /> chọn tiếng, từ để tập nói cho phù hợp. Luyện nói theo câu hỏi, câu trả lời có <br /> chứa tiếng, từ  mới cung cấp cho học sinh. Tạo tình huống cho học sinh đối <br /> thoại được giao tiếp trong đó chú ý tạo môi trường giao tiếp học sinh với học  <br /> sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên. <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 12<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Bên cạnh đó việc sửa lỗi phát âm cho học sinh không kém phần quan  <br /> trọng. Học sinh phát âm chưa chuẩn thường do nguyên nhân sinh lý, do những <br /> khiếm khuyết nào đó trong bộ máy phát âm. Do  ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ <br /> nên các em học sinh dân tộc thiểu số  thường mắc phải đó là phát âm không  <br /> chuẩn ở dấu thanh, tiếng có dấu thanh thì phát âm không có dấu thanh, tiếng  <br /> không dấu thanh lại phát âm có dấu thanh, tiếng có thanh nặng thành tiếng có <br /> thanh sắc. Bên cạnh đó do cách phát âm của một bộ phận nhỏ giáo viên phát  <br /> âm chưa chuẩn vẫn còn mang bản sắc của địa phương, phát âm còn lẫn  ở <br /> một số  phụ  âm: l/n; ch/tr; s/x; chưa phát âm rung r/s. Chính vì vậy để  sửa <br /> chữa được lỗi phát âm cho học sinh giáo viên cần phải có ý thức rèn luyện <br /> cho mình cách phát âm chuẩn vì có phát âm chuẩn thì giáo viên mới có thể <br /> nhận ra được lỗi phát âm sai của học sinh. Giáo viên chỉ ra chỗ sai trong phát <br /> âm của học sinh có thể so sánh với phát âm đúng. Giáo viên phát âm mẫu thật <br /> chuẩn xác, chậm, rõ ràng để học sinh theo dõi. Phát âm chuẩn không để tiếng <br /> địa phương ảnh hưởng tới phát âm mẫu của mình. Hướng dẫn học sinh phát <br /> âm. Cho học sinh phát âm nhiều lần. Để thay đổi hình thức học tập giáo viên <br /> có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi học tập để rèn cách phát âm cho các  <br /> em. <br /> Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh đọc bài Bàn tay mẹ  sách giáo khoa <br /> Tiếng Việt lớp 1, tập 2, trang 55. Giáo viên yêu cầu học sinh lắng nghe bạn  <br /> đọc, nêu lỗi bạn mắc phải khi đọc. Cụ thể các em thường đọc sai các từ  yêu <br /> nhất ­ yếu nhât, nấu cơm – nâu cớm, rám nắng – ram nặng, tã lót ­ tả lọt. Lỗi <br /> sai chủ  yếu là  tiếng có dấu thanh đọc không có dấu thanh, tiếng không dấu <br /> thanh đọc có dấu thanh, tiếng có thanh huyền thành tiếng có dấu thanh sắc, <br /> tiếng  có   thanh   nặng   thành  tiếng   có   thanh  sắc.   Lúc  này   giáo   viên  gợi  mở <br /> hướng dẫn các em phân tích lại cấu tạo từ, tiếng, hướng dẫn cách mở  môi, <br /> cao độ  của từng dấu thanh rồi phát âm mẫu hoặc cho học sinh năng khiếu  <br /> phát âm sau đó yêu cầu học sinh phát âm lại. Qua hoạt động này học sinh vừa <br /> được luyện phát âm vừa được mở  rộng thêm vốn từ  qua các từ  ngữ  mà các <br /> bạn tìm và giới thiệu trong nhóm vừa chủ  động tự  tin, mạnh dạn. Việc sửa  <br /> lỗi phát âm không chỉ thực hiện trong giờ Tiếng Việt mà còn ở tất cả các môn  <br /> học khác. Đối với những học sinh thường xuyên phát âm sai giáo viên quan  <br /> tâm và sửa chữa kịp thời. Việc luyện tập thường xuyên sẽ  tạo kỹ  năng bền  <br /> vững cho học sinh. Mặt khác giáo viên thường xuyên khuyến khích học sinh  <br /> tự  sửa chữa lỗi cho nhau bằng hoạt động thi đua như  đôi bạn cùng tiến...  <br /> ( thực hiện thông tư 22/2016/TT – BGDĐT ngày 22 tháng 9 năm 2016 về Sửa  <br /> đổi, bổ  sung một số  điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành <br /> kèm theo Thông tư  số  30/2014/TT­ BGD ĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của <br /> Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.<br /> Biện pháp thứ tư: Tăng cường Tiếng Việt trong các môn học khác<br /> <br /> <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 13<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Tiếng Việt là tiếng phổ  thông nên tất cả  mọi người đến trường đều <br /> phải học. Đây là ngôn ngữ  bắt buộc trong giảng dạy nên để  cung cấp kiến <br /> thức các môn học khác tất yếu cần dùng Tiếng Việt. Vậy tăng cường tiếng  <br /> Việt trong các môn học khác như  thế  nào có hiệu quả  để  các em nắm được <br /> các thuật ngữ  đặc trưng của bộ  môn, các câu lệnh, giáo viên cần chú ý: Lời <br /> giới thiệu hay mô tả, hướng dẫn cần diễn giải chậm rãi, nhấn giọng vào các <br /> từ khó, từ ngữ chính, vừa diễn giải vừa sử dụng các động tác, tranh mih họa,  <br /> vật thật để  các em có thể  hiểu được lời nói của thầy cô. Gặp các từ  trìu  <br /> tượng, khó hiểu thì phải vận dụng phương pháp giải nghĩa từ  trong Tiếng <br /> Việt. <br /> Dạy tăng cường Tiếng Việt trong môn Tự nhiên – Xã hội<br /> Khi tìm hiểu nội dung một bài học đòi hỏi phải có sự  tương tác giữa  <br /> người dạy và người học, giữa người học với người học. Từ đó sẽ chiếm lĩnh <br /> kiến thức một cách chủ động. sự  tương tác đó chính là lời đối thoại, hỏi đáp <br /> giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh. Trong các tình huống <br /> dạy học trong môn Tự nhiên – Xã hội,  giáo viên cần hướng dẫn học sinh vận <br /> dụng các từ  ngữ, mẫu câu đã học và hội thoại, hỏi –  đáp hoặc trình bày <br /> những hiểu biết, suy nghĩ của mình về  vấn đề  đang tìm hiểu. Giáo viên chủ <br /> động nêu vấn đề  bằng cách đặt câu hỏi để  học sinh thảo luận, trao đổi và <br /> trình bày hiểu biết của mình bằng lời. Luyện nói qua trao đổi, thảo luận <br /> nhóm. Giáo viên nêu nhiệm vụ  cho từng nhóm, gợi ý các nhóm nêu vấn đề, <br /> thắc mắc và thảo luận giải quyết. Luyện nói trong trò chơi học tập. Khi tổ <br /> chức các trò chơi học tập giáo viên cần thiết kế  trò chơi phù hợp với khả <br /> năng, trình độ  tiếng Việt và đối tượng học sinh của lớp mình, động viên, <br /> khuyến khích mọi học sinh cùng tham gia. <br /> Ví dụ: Dạy bài Gia đình – sách giáo khoa Tự  nhiên – Xã hội lớp 1  <br /> trang ..  Chia nhóm và giao cho các nhóm quan sát bức tranh thứ nhất, nói  <br /> cho nhau nghe về nội dung của bức tranh theo hệ thống câu hỏi như sau:<br />  Bức tranh vẽ gì?<br /> Gia đình bạn Lan có mấy người? Gồm những ai ?<br /> Mọi người trong gia đình Lan đang làm gì?<br /> Sau thời gian thảo luận, từng nhóm báo cáo kết quả  nhóm mình thảo <br /> luận theo mẫu câu mà giáo viên đã yêu cầu như: <br /> Bức tranh vẽ gia đình bạn Lan. Gia đình bạn Lan có 3 người:  Bố, mẹ <br /> và Lan. Gia đình Lan đang đi dạo chơi. <br /> Nếu em nào nói chưa đủ câu hoặc nói câu ngược, giáo viên uốn nắn kịp  <br /> thời và cho nói lại ngay. <br /> Sau khi tìm hiểu nội dung các bức tranh rút ra nội dung cần ghi nhớ,  <br /> tiếp tục cho các em giới thiệu cho nhau nghe về gia đình mình theo cặp đôi. <br /> <br /> GV: Trần Thị Minh ­ Trường TH Võ Thị Sáu<br /> 14<br /> Một vài biện pháp dạy tăng cường Tiếng Việt cho học sinh lớp 1 DTTS ở trường TH Võ Thị Sáu<br /> <br /> Gia đình bạn có mấy người? Gia đình tôi có 5 người đó là ông nội, bố,  <br /> mẹ, anh tôi và tôi.        <br /> Ông nội bạn tên là gì? Làm  ở  đâu? Ông nội tôi tên là Y Hiêu Adrơng,  <br /> ông làm việc ở ủy ban nhân dân xã Ea Bông. <br /> Bố  bạn tên gì? Bố  bạn làm nghề  gì? Bố  tôi tên là Y Đan Bkrông, bố <br /> làm giáo viên.<br /> Thế còn mẹ bạn?  Mẹ tôi tên là H’ My Lan Hmõk,  mẹ tôi làm nông. <br /> Anh bạn thì sao? Anh tôi tên là Y Yô Ên Hmõk, học sinh lớp 8 trường <br /> Trung học cơ sở Tô Hiệu.<br /> Còn tôi tên là H’ Roen Hmõk đang học lớp 1A trường Tiểu học Võ Thị <br /> Sáu.<br /> Vì thông thường các em chỉ nói nửa vời phần đầu câu hoặc phần cuối  <br /> câu nên giáo viên chú ý sửa chữa cách nói cho các em ngay. Có như  vậy mới <br /> tạo thói quen khi giao tiếp cho các em. <br /> Dạy tăng cường tiếng Việt trong môn Toán <br /> Khi dạy tăng cường tiếng Việt trong môn Toán phải rèn khả năng nghe <br /> nhìn, nhận biết. Để  giúp học sinh nghe, hiểu, giáo viêni dùng mẫu câu đơn  <br /> giản, dễ hiểu thông qua việc hướng dẫn bằng tiếng Việt có thể  kết hợp với  <br /> tiếng mẹ  đẻ( đối với những em chưa biết tiếng Việt). Việc đầu tiên phải  <br /> hướng dẫn các em quan sát bằng đồ dùng trực quan kết hợp mô tả bằng động <br /> tác, hình ảnh. Trong quá trình quan sát hướng dẫn các em tự phát hiện và giải <br /> quyết vấn đề. Sau đó rèn kỹ  năng nghe, nói, đọc, viết ngôn ngữ  Toán bằng <br /> Tiếng Việt. Tạo điều kiện cho học sinh nói thành tiếng những điều nghe <br /> thấy, nhìn thấy. Gợi ý cho các em nêu thắc mắc hoặc phát hiện vấn đề bằng  <br /> tiếng Việt, giúp học sinh nói được tên bài học, dùng lời trao đổi với bạn bè và  <br /> giáo viên. Trong tiết Toán cần tổ chức cho học sinh thực hành như: Đọc thành <br /> tiếng các số, q
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2