JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2, pp. 75-81<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0012<br />
<br />
SỐ PHẬN NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG TIỂU THUYẾT<br />
VIẾT VỀ NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2010)<br />
Dương Minh Hiếu<br />
<br />
Phòng Tổ chức Hành chính, Trường Đại học Đồng Nai<br />
Tóm tắt. Bài viết tập trung làm rõ những số phận nhiều bất hạnh mà vẫn ngời sáng bao<br />
phẩm giá tốt đẹp của người nông dân trong một số tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn<br />
từ 1986 đến 2010. Từ đó giúp thấy được giá trị phản ánh hiện thực và tinh thần nhân đạo<br />
cao đẹp nơi các trang viết nặng lòng với chốn hương thôn.<br />
Từ khóa: Cơ hàn, bi kịch, thiên lương.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Vấn đề số người nông dân trong tiểu thuyết Việt Nam viết về nông thôn (giai đoạn<br />
1986-2010) đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên, nhà văn, độc giả. Nói đến những hình<br />
tượng nhân vật cụ thể thì đáng kể nhất là các ý kiến của Hoàng Ngọc Hiến [1], Phong Lê [2], Thiếu<br />
Mai [3], Trung Trung Đỉnh [4], Đặng Thị Tuyết [5],... Nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn có các luận<br />
án, đề tài khoa học của Nguyễn Thị Bình [6], Trần Thị Mai Nhân [7], Bùi Như Hải [8],...<br />
Các bài phê bình một hiện tượng văn học thường mang tính thời sự nên những phát hiện<br />
hay đánh giá chủ yếu hướng đến số ít vấn đề, hình tượng cụ thể, cá biệt. Các luận án, đề tài khoa<br />
học lại khảo sát chung về tiểu thuyết, trong đó tiểu thuyết viết về nông thôn là một bộ phận hợp<br />
thành nên không bàn riêng tới số phận người nông dân. Vì vậy, ở bài viết này, thông qua một số<br />
tác phẩm nổi trội của Lê Lựu, Đào Thắng, Dương Hướng, Dương Duy Ngữ, Tô Hoài, Khôi Vũ,<br />
Nguyễn Khắc Trường, Hoàng Minh Tường, Đỗ Minh Tuấn, chúng tôi hi vọng có thể bước đầu tìm<br />
hiểu hình tượng người nông dân ở “tất cả các chiều sâu của tâm hồn con người” [9]. Đó là chiều<br />
sâu chứa đựng bao nỗi thống khổ, bao bi kịch cá nhân cùng những phẩm giá đạo đức hết sức tốt<br />
đẹp của “người nhà quê” (Chữ dùng theo Hoàng Ngọc Hiến). Phân tích, tìm hiểu các vấn đề trên<br />
không chỉ giúp làm rõ những đóng góp, giá trị về mặt nội dung mà còn cho thấy sự cách tân ở<br />
phương diện tư duy nghệ thuật của một số tiểu thuyết nổi bật viết về nông thôn ở Việt Nam (giai<br />
đoạn 1986-2010).<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
<br />
Như Trung Trung Đỉnh từng khẳng định, các nhà văn viết về nông thôn (giai đoạn từ Đổi<br />
mới đến 2010) đã thực sự “khai thác đến tận cùng thân phận những nhân vật chính” [4;99] hay nói<br />
Ngày nhận bài: 15/12/2015. Ngày nhận đăng: 10/3/2016<br />
Liên hệ: Dương Minh Hiếu, e-mail: hieuduongminh76@yahoo.com<br />
<br />
75<br />
<br />
Dương Minh Hiếu<br />
<br />
cách khác là đã chú trọng khai thác yếu tố đời tư của các hình tượng. Nhờ đó, theo quan niệm của<br />
lí luận văn học hiện đại, “chất tiểu thuyết” tăng lên để ngược lại, chất sử thi không còn thống ngự.<br />
Mà bàn đến thân phận hay đời tư là nói tới số phận, đến bi kịch và phẩm giá cá nhân. Tuy thuộc về<br />
cá nhân, có những cái rất riêng song vẫn có thể hệ thống lại bằng những nét chung nhất.<br />
<br />
2.1.<br />
<br />
Những số phận cơ hàn, vất vả<br />
<br />
Nghèo khổ và cơ cực là những gì người nông dân đã và dường như vẫn phải đương đầu,<br />
chịu đựng. Cái nghèo khiến họ xác xơ: có người chết đói, người trở thành hèn hạ, người đánh mất<br />
nhân cách. Những nghệ sĩ giàu lòng nhân đạo đã miêu tả đậm nét cảnh nghèo đói ở cả bề rộng<br />
cũng như chiều sâu. Cả làng Hạ Vị (Thời xa vắng), làng Phượng (Người giữ đình làng) từng phải<br />
lũ lượt cày thuê, cấy mướn, sống giữa đói nghèo, tủi nhục. Ở từng mảnh đời cụ thể, sự khốn khổ<br />
vây hãm từ anh bần cố nông như chú Dĩ (Bến không chồng), lão Khổ (Lão Khổ ), anh Diệc (Ba<br />
người khác) cho đến những kẻ sĩ, người trí thức như cụ Đồ Khang (Thời xa vắng), cụ Tú Canh,<br />
giáo Quý (Người giữ đình làng), ông Nghĩa (Dòng sông mía),. . .<br />
Bởi nghèo đói, người ta có thể sinh ra bần tiện, tha hóa. Vài người trộm cắp ngay tại đám<br />
giỗ, đám ma; kẻ lại bất chấp đạo lí chỉ mai táng qua quýt cho người thân nhằm đỡ tốn kém (Mảnh<br />
đất lắm người nhiều ma). Có kẻ sẵn sàng “hủ hóa”, bán mình, trở thành tay sai cho kẻ khác miễn<br />
sao tìm được miếng ăn, tớp rượu hay khá hơn là ít đất “thượng điền” (Mảnh đất lắm người nhiều<br />
ma, Ba người khác). Cũng có khi cái nghèo trở thành một trong những nguyên nhân khiến kẻ xấu<br />
thêm phần tàn bạo, độc ác đến mất hết cả nhân tính (Dòng sông mía).<br />
Những khốn khó của người nông dân xuất phát từ nhiều nguyên nhân: không có tư liệu sản<br />
xuất; do thiên tai như lũ lụt, hạn hán, mất mùa; do địch họa và sự tàn bạo của cường hào nông thôn<br />
giai đoạn trước cách mạng; do những hủ tục như tảo hôn, tục ma chay đình đám, những “truyền<br />
thống” kì quặc như cả làng thích kéo nhau đi làm thuê là tự canh tác trên đất đai của mình; do lòng<br />
hận thù và các tư tưởng hão danh, ích kỉ, hẹp hòi. Đây là những vấn đề mà nhiều cây bút thuộc<br />
trào lưu hiện thực phê phán đã miêu tả, khai thác khá sâu từ giai đoạn 1930-1945. Cái mới, cái<br />
khác thêm được chỉ ra bởi các nhà văn lớp sau nằm ở việc đã nhìn thẳng vào hệ lụy chiến tranh<br />
và những sai lầm trong thực hiện cơ chế, chính sách, như: cải cách ruộng đất (Ba người khác, Lão<br />
Khổ, Dòng sông mía,..), nền kinh tế bao cấp (Thủy hỏa đạo tặc, Lời nguyền hai trăm năm), mặt<br />
trái của kinh tế thị trường (Thần thánh và bươm bướm).<br />
Chiến tranh là một trong những bi kịch khủng khiếp đối với mọi dân tộc - dầu rằng đó có là<br />
chính nghĩa, là cuộc chiến của toàn dân nhằm bảo vệ quyền tự do, độc lập và sự thống nhất thiêng<br />
liêng. Chiến tranh luôn gây ra bao bất hạnh cùng cực. Người hi sinh, người tật nguyền, người trở<br />
về để “sống lặng lẽ, cô đơn, lấy sự lãnh đạm, khô khan, cứng nhắc để che giấu những nỗi niềm,<br />
khao khát riêng tư” [5]; người mất chồng, người mất con, người vò võ sống giữa lạnh lẽo, cô độc,<br />
ngẩn ngơ; có người thậm chí vướng cả vào căn bệnh hysteria đáng thương như cô Hạnh trong Bến<br />
không chồng. Chiến tranh còn khiến nhiều người cha không thể sinh con, nhiều đứa bé trở thành<br />
dị dạng. Con của Lôi trong Thần thánh và bươm bướm là nạn nhân chất độc da cam, nó như “một<br />
quả bí ngô cắm vào quả bí đao. Cái đầu to sần sùi, bộ mặt già nua nhăn nheo trông sợ quá”. Đứa<br />
bé này chỉ uống sữa bò, sữa dê tươi với nước trái cây, chỉ nằm cùng lá chuối và ngủ với hoa bưởi<br />
tinh khiết. Nó khiến cho gia đình Lôi bao phen khốn khổ, lao đao mà rồi cũng chẳng giữ được con.<br />
Cần phải khẳng định, chủ trương cải cách ruộng đất có tôn chỉ, mục đích hết sức tốt đẹp<br />
và đã đạt được những kết quả tích cực nhất định. Tiếc rằng, ở nhiều nơi, chủ trương đó từng bị lợi<br />
dụng, bị hiểu một cách lệch lạc, bị thực thi bừa bãi nên đã gây ra không ít khốn khổ, oan sai. Giáo<br />
Quý (Người giữ đình làng), ông Nghĩa, chị cả Thuần (Dòng sông mía), lão Khổ (Lão Khổ ), cha<br />
76<br />
<br />
Số phận người nông dân trong tiểu thuyết viết về nông thôn ở Việt Nam...<br />
<br />
con Lão Xung (Bến không chồng),. . . đều phải hứng chịu bao oan ức, điếm nhục. Thẳn thắn hơn,<br />
trong Ba người khác, Tô Hoài đã không ngần ngại phơi bày sự kém cỏi, dốt nát, băng hoại đạo đức,<br />
phản bội,. . . của chính những anh đội (cải cách). Tiêu biểu nhất trong số đó là đội trưởng Cự. Anh<br />
ta hủ hóa với đàn bà, con gái nơi các gia đình “rễ”; tham ô, nhũng nhiễu, lũng loạn, chuyên quyền;<br />
mê muội với chuyện lúa thần và cải cách nông thôn; hăng hái tìm địa chủ đến mức xóm nào không<br />
có cũng phải làm sao thành cho có, kể cả biện pháp vu oan kiểu “không có trâu thì bắt chó đi cày”<br />
rồi đem ra đấu tố tùy tiện. Và cuối cùng là anh ta theo địch, lên đài Sài Gòn (của Ngụy quyền)<br />
khoe việc “đi dự đại hội chống cộng toàn châu Á ở Đài Bắc”,...<br />
Lời nguyền hai trăm năm và nhất là Thủy hỏa đạo tặc đã nêu bật những ấu trĩ, quan liêu,<br />
bệnh thành tích, hách dịch, cửa quyền của những chủ nhiệm hợp tác xã, chủ tịch, bí thư xã, huyện.<br />
Sức lao động bị kìm kẹp, sự sáng tạo bị triệt tiêu, nạn “cha chung không ai khóc” tràn lan, năng<br />
xuất lao động giảm sút, người nông dân bỏ ruộng, ngư dân không muốn ra khơi,. . . đã khiến bao<br />
làng quê thực sự lao đao, xơ xác.<br />
Đến thời mở cửa, Đỗ Minh Tuấn trong Thần thánh và bươm bướm đã kể về việc người nông<br />
dân như bị lừa gạt vì thiếu thông tin, vì chính quyền cơ sở không có được những chính sách, biện<br />
pháp thực sự đồng bộ, toàn diện. Họ - những người chân lấm tay bùn - khi thì ảo tưởng, lúc lại mù<br />
tịt từ chuyện cái sân golf đến những con bươm bướm, từ loài bọ hung đến những vấn đề như hội<br />
nhập, mở cửa, hợp tác quốc tế, mạng internet, kinh tế thị trường,. . . Vậy nên mới có những chuyện<br />
cười ra nước mắt như cả làng kéo nhau đi bắt bươm bướm hòng bán cho Nhật cho Tây, cả làng<br />
phải ân hận vì kí giấy đồng ý giao đất cho dự án sân golf. Cái sân chơi thượng lưu ấy không những<br />
không đem đến lợi ích gì cho người nông dân mà còn khiến họ mất đất và rơi vào bao cuộc ẩu đả<br />
chia làng, tách xóm, đào sâu thêm mâu thuẫn giữa các thế hệ,...<br />
Lên án chiến tranh để bảo vệ hòa bình, mọi phê phán cũng chỉ nhằm bảo vệ cái đúng, cái<br />
tiến bộ, cái tốt đẹp. Hoặc, nói như Lại Nguyên Ân: “(. . . ), chỉ bằng việc thường xuyên nhắc nhớ,<br />
ôn lại, phân tích nguồn cơn, tính đếm thiệt hại, v.v. . . mới là phương cách tốt, chẳng những làm<br />
nguôi chấn thương mà còn đề phòng khả năng lặp lại những tai hoạ tương tự cho cộng đồng” [4].<br />
Rõ ràng, nhiều nhà văn Việt Nam ở giai đoạn 1986-2010 vẫn viết về nông thôn, về người nông dân<br />
bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, bằng cả tầm nhìn đủ sâu và đủ xa.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Những tấn bi kịch cuộc đời<br />
<br />
Trước hết, đó là bi kịch của những con người bị đè nặng mà thậm chí là kìm kẹp bởi các<br />
tổ chức, đoàn thể một thời “vững mạnh”. Điển hình nhất là nhân vật Sài trong Thời xa vắng của<br />
Lê Lựu. Chuyện anh “gian díu” với Hương đã tạo những điều tiếng, dư luận xấu. Cái dư luận đó<br />
thật khủng khiếp, nó còn đáng sợ hơn việc “bị nhốt trong buồng, bị quấn tóc vào cột”. Nó khiến cả<br />
tháng trời, “nhà ông đồ Khang như có người chết. Không ai dám đi đâu xa”. Rồi Sài dẫn đầu đoàn<br />
Thiếu nhi Tháng 8 nên nhận khăn quàng đỏ và được dặn “Cấm được bỏ vợ đấy nhé”. Câu nói đó<br />
đã trở thành “tảng đá khổng lồ đè lên người Sài”. Đến khi anh vào bộ đội, để được kết nạp đảng,<br />
anh phải thực hiện cái bổn phận làm chồng - dù chỉ một lần - với Tuyết! Không dừng lại ở việc lục<br />
tung của quyển nhật kí của Sài, tổ chức còn can dự “sâu sát” tới cả chuyện tình cảm, chuyện vợ<br />
chồng của anh. Nhân vật chính ủy Đỗ Mạnh từng phê phán Sài là một “kẻ bị trói buộc không dám<br />
cựa mình giẫy giụa, chỉ hong hóng chờ đợi, thấp thỏm cầu may”. Nhưng khi mọi thứ bị buộc trói<br />
quá chặt, lúc cái riêng tư bị đè nén tới mức gần như bị triệt tiêu thì liệu người ta đủ sức giãy giụa<br />
gì nhiều?<br />
Thứ nữa là bi kịch tình yêu. Có tình yêu là nạn nhân của chiến tranh và lòng hận thù, có tình<br />
yêu lại rơi vào bất hạnh do sai lầm chủ quan. Hạnh (Bến không chồng) là cô gái bản lĩnh, dám vượt<br />
77<br />
<br />
Dương Minh Hiếu<br />
<br />
qua mọi định kiến thù hằn dòng họ để đến được với Nghĩa. Họ từng có những đêm tắm trăng và<br />
tắm trong hạnh phúc ngọt ngào bên bãi cỏ cạnh bờ sông. Tình yêu của Hạnh đủ lớn để giúp cô kiên<br />
định bảo vệ hạnh phúc, đấu tranh không khoan nhượng để giữ gìn hạnh phúc. Nhưng rồi Nghĩa đi<br />
bộ đội để Hạnh vò võ đợi chờ với bao khát khao, buồn tủi. Cô nhớ mong Nghĩa, cô ao ước có con<br />
với anh, cô rơi vào cả cái căn bệnh khổ sở của đàn bà. Đó là nỗi bất hạnh. Đến khi Nghĩa trở về thì<br />
chiến tranh đã cướp đi của anh cái khả năng làm cha. Điều này còn bất hạnh nhiều hơn. Thêm nữa,<br />
Hạnh còn phải hứng chịu bao xỉa xói thâm độc của bà con bên nhà chồng. Họ đổ lỗi cho Hạnh,<br />
xem việc vợ chồng cô không có con là vì dám “xúc phạm” đến lời nguyền của dòng họ Nguyễn.<br />
Người ta có thể chịu đựng chờ đợi trong đằng đẵng, đợi chờ đến héo mòn tuổi xuân song không<br />
thể cứ trơ như đá trước những nanh nọc miệng đời và những cả những mâu thuẫn, dằng xé trong<br />
lòng mình. Hạnh cương quyết li hôn với Nghĩa. Đó là sự hi sinh, là sự cao thượng nhưng cũng là<br />
một bi kịch nhiều chua xót. Bà Son (Mảnh đất lắm người nhiều ma) thì từng là một cô gái hết mực<br />
xinh đẹp. Nhưng vì yêu anh Vũ Đình Phúc đã có vợ, chỉ giỏi lừa gạt chứ rất “hèn”, không dám từ<br />
bỏ “cái nhà ngói”, “cái sân gạch” nên cô Son đành cắn răng lấy anh Hàm thọt thợ mộc vốn thô<br />
lỗ, gia trưởng, ưa bạo hành. Dầu không có được hạnh phúc, dầu đã nhẫn nhịn trăm bề nhưng rồi<br />
bà Son cũng chẳng được yên. Bà đã yêu lầm một con ma sống (Phúc), lấy lầm một con ma sống<br />
(Hàm) và tin lầm một con ma sống khác (Thủ). Những sai lầm ấy phải trả giá bằng bao bất hạnh<br />
và bằng cả chính mạng sống của bà. Ở đây, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của Nguyễn<br />
Văn Long: “trong nhiều trường hợp, con người vừa là nạn nhân mà cũng là thủ phạm của tấn bi<br />
kịch đời mình, họ phải chịu một phần về số phận của mình” [11].<br />
Thao (Thần thánh và bươm bướm) lại luẩn quẩn trong bi kịch bơ vơ, lạc loài thời mở cửa.<br />
Anh trơ trọi, cô độc ngay giữa ngôi nhà của mình. Vợ Thao không hiểu anh, từ những ham muốn<br />
bản năng đến khát khao được thể hiện, được “thừa nhận”. “Thánh” Chấn, con trai anh, thì ngay cả<br />
lúc được tin thờ, sùng bái nhiều nhất vẫn không đủ “thần lực” để thấu tỏ cha mình. Vậy nên mới<br />
có những lời khinh nhờn, xúc xiểm, hỗn láo từ “đứa con mất dạy” ấy. Thao còn gần giống một anh<br />
chàng Don Quixote trong việc giúp đỡ Lôi (đồng đội cũ của anh) và đứa bé là nạn nhân chất độc<br />
màu da cam. Nhiệt thành thì họ có thừa nhưng tất cả những gì làm được cũng chỉ là giữ cho cây<br />
bưởi kì lạ ra hoa quanh năm sống thêm vài tháng. Họ quá cô độc giữa bao con người gần như mê<br />
muội, đang bị cuốn theo hấp lực đồng tiền; họ quá nhỏ bé trước quá trình đô thị hóa nông thôn,<br />
trước hiện trạng nhiều người nông dân mất đất, mất cả những giá trị vốn là cốt cách, bản sắc, tinh<br />
thần của người chân quê đất Việt; họ cứ phải hoài loay hoay trong cơ man sự đảo lộn “còn ghê<br />
gớm hơn cả thời cải cách” [12].<br />
Cuối cùng, với người nông dân nói riêng, với người Việt Nam vốn coi trọng các giá trị đạo<br />
đức, nhân cách thì có lẽ, bi kịch điếm nhục, oan sai thuộc vào hàng đáng sợ bậc nhất. Ví dụ như<br />
nhân vật chị/bà cả Thuần trong Dòng sông mía của Đào Thắng. Chị vốn là một người phụ nữ hiền<br />
hành, trung hậu, hết lòng vì chồng, vì con. Nhưng ở thời cải cách ruộng đất “trắng đen lẫn lộn”,<br />
chị bị vu khống những cái tội như “phản động”, “kích động”, “gây rối”, “âm mưu phá hoại”. . .<br />
Thứ nữa, lợi dụng hoàn cảnh bi thảm lúc đó của chị, lão Quýt gạ gẫm chị làm lẽ cho lão, thằng Lẹp<br />
thì giở trò hãm hiếp nhằm thỏa mãn thú tính. Khi đã già, bà cả Thuần vẫn còn bị con dâu lăng mạ:<br />
“Lúc nào cũng chính chuyên! Dạy con, dạy cháu. Nằm ngửa ra mời nó! Chửa hoang có con, bây<br />
giờ mới lộ cái mặt mẹt ra! Lại vẫn chứng nào tật ấy, giờ sắp xuống lỗ rồi còn tí tởn, tí táu tí mẻ, sờ<br />
soạng, hú hí”. Những lời lẽ như được tẩm thuốc độc đó cộng với cái tin Các hi sinh đã đánh gục<br />
bà cả Thuần: bà trẫm mình quyên sinh. Chết đi rồi mà nỗi oan ức của bà vẫn còn day dứt, cho đến<br />
lúc bà nghe được tiếng nói của sự bình đẳng đầy nhân bản: “Người ta khoác lên áo chùng đạo đức<br />
để chê bai tôi (bà Mến - NV) với bà. Họ không thấy Chúa Trời trao cho người đàn bà thiên chức<br />
đẻ ra những đứa con để duy trì nòi giống, nuôi dạy nòi giống khỏe mạnh, thông minh. Người đàn<br />
78<br />
<br />
Số phận người nông dân trong tiểu thuyết viết về nông thôn ở Việt Nam...<br />
<br />
ông chết sớm thì phải trả cho người đàn bà cái quyền có con với người khác, có đúng không bà?<br />
Cốt sao sống yêu cho thẳng, đừng lừa gạt gian dối, đừng để con bơ vơ”.<br />
Những bi kịch bị bần cùng hóa, lưu manh hóa có lẽ đã thuộc về quá khứ khá xa. Nhưng nỗi<br />
đau trong tình yêu và cảnh sống cô độc, trong nỗi điếm nhục và sự kìm kẹp thì dường như vẫn còn<br />
nguyên tính “thời sự”. Rõ ràng, niềm mong mỏi giải phóng con người cá nhân, những yêu cầu bảo<br />
vệ danh dự và khát vọng hạnh phúc của người nông dân đã được người nghệ sĩ đặt ra một cách<br />
mạnh mẽ nhân danh chính quyền sống của con người.<br />
<br />
2.3.<br />
<br />
Những nỗ lực và phẩm hạnh cao đẹp<br />
<br />
Số phận người nông dân trong các trang tiểu thuyết viết về đề tài tam nông (giai đoạn<br />
1986-2010) không chỉ toàn là gam màu tối, u uất. Đã có nhiều điểm sáng nhờ sự nỗ lực và nhất là<br />
nhờ bao phẩm chất đạo đức hết sức tốt đẹp của những chiếc áo tơi vẫn tay lấm, chân bùn.<br />
Ở đây, chúng tôi sẽ không bàn nhiều thêm về các giá trị truyền thống tự ngàn đời, đã trở<br />
thành bản sắc tinh thần Việt như tình làng nghĩa xóm, tình đồng đội, tình cảm gia đình, tình yêu<br />
quê hương - đất nước, yêu lao động, niềm tin hướng thiện tích cực,. . . dù tất cả đã được thể hiện<br />
khá sắc nét và đã góp phần làm dày thêm ý nghĩa cho các tiểu thuyết viết về nông thôn (từ Đổi mới<br />
đến 2010). Trên con đường mưu cầu hạnh phúc chính đáng, người nông dân Việt Nam cuối thế kỉ<br />
XX, đầu thế kỉ XXI đã có những nỗ lực (chúng tôi nhấn mạnh) rất tuyệt vời trong cả nhận thức lẫn<br />
hành động nhằm tự quyết số phận, tương lai của chính mình.<br />
Chúng ta thấy một sự nỗ lực lớn trong nhận thức của người nông dân. Bị kìm kẹp là thế,<br />
tưởng cả đời phải sống trong nhu nhược, nhưng rồi Sài (Thời xa vắng) cũng đã nhìn rõ sai lầm<br />
của mình. Anh “rút từ ruột mình ra” những lời tâm sự: “Giá ngày ấy em cứ sống với tình cảm của<br />
chính mình, mình có như thế nào cứ sống như thế, không sợ một ai, không chiều theo ý ai, sống hộ<br />
ý định của người khác, cốt để cho đẹp mặt mọi người, chứ không phải cho hạnh phúc của mình.<br />
(. . . .) Nửa đời người phải yêu cái người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có, đến bây<br />
giờ mới biết mình là thế nào thì lại. . . ”. Có thể nói, những chia sẻ đó vừa thể hiện sự thức tỉnh của<br />
con người cá nhân, vừa là sự tỉnh ngộ trong nhận thức về mục đích sống, đối tượng yêu của Sài.<br />
Anh đã thấy được nguồn cơn chính của mọi bất hạnh đời mình để rồi từ đó cương quyết đoạn tuyệt<br />
tất cả: li dị với Châu, bỏ đất Hà thành để về với cái làng Hạ Vị quen thuộc. Tuy có phần hơi muộn<br />
màng song việc “nhận thức lại” của Sài không chỉ thể hiện một nhân sinh quan mới mẻ và tiến bộ<br />
mà còn hàm chỉ cho cả tư tưởng của người cầm bút. Cụ thể hơn là xu hướng “nhận thức lại” trong<br />
phản ánh hiện thực xã hội Việt Nam thời kì trước 1986 của nhiều nhà văn sau này.<br />
Người đọc được chứng kiến một anh Khuê bộ đội xuất ngũ (Dòng sông mía) đã toàn tâm,<br />
toàn lực cố gắng phục hồi nghề làm đường mía của dòng họ; một anh Thanh dám tổ chức và dám<br />
nhận trách nhiệm về việc khoán sản phẩm ở hợp tác xã Thanh Bình (Thủy hỏa đạo tặc); một Hai<br />
Thìn chia tập đoàn thành tổ đánh bắt có giao sản lượng và được quyền chủ động thời gian, ngư<br />
trường (Lời nguyền hai trăm năm),. . . Điểm chung trong họ là đều đã nhận ra những ngăn sông<br />
cấm chợ, kịp kẹp phi lí dẫn đến hiệu quả lao động thấp, cái tiêu cực, cái đói khổ bủa vây khắp nơi<br />
ở thời bao cấp. Bên cạnh phẩm chất siêng năng, cần cù và tình yêu lao động, tinh thần “dám nghĩ<br />
dám làm” của một bộ phận người nông dân kể trên đã vượt lên trên tư duy của không ít cán bộ<br />
đương thời.<br />
Ngoài ra, cũng cần nói đến lòng vị tha, nỗ lực “bước qua lời nguyền” để vươn lên của người<br />
nông dân. Tạ Bông (Lão Khổ ), một người đã tự cắt tay uống rượu thề “không đội trời chung với<br />
Tạ Khổ” nhưng rồi cuối cùng cũng tha thứ cho tất cả: “Ai chả có một thời dại dột đến lầm lỗi”.<br />
Bởi rõ ràng, càng gây thù, chuốc oán thì chỉ càng thấy cảnh “máu đổ nhà tan, anh em li tán”. Chỉ<br />
79<br />
<br />