Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2014<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
SO SÁNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA CÁC NGHỀ CÁ XA BỜ<br />
TRƯỜNG HỢP NGHỀ CÂU CÁ NGỪ ĐẠI DƯƠNG VÀ NGHỀ LƯỚI RÊ<br />
TẠI THÀNH PHỐ NHA TRANG<br />
A COMPARISION OF THE ECONOMIC EFFICIENCY OF THE OFFSHORE FISHERIES,<br />
THE CASE OF TUNA LONGLINE AND GILLNET FISHERIES IN NHA TRANG CITY<br />
Cao Thị Hồng Nga1<br />
Ngày nhận bài: 10/9/2013; Ngày phản biện thông qua: 15/11/2013; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu so sánh hiệu quả kinh tế của các nghề cá xa bờ, trường hợp nghề câu cá ngừ đại dương và nghề lưới rê<br />
tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa năm 2008. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng nghề câu cá ngừ đại dương đạt hiệu<br />
quả kinh tế hơn nghề lưới rê khi có trợ cấp và không có trợ cấp xăng dầu của Chính phủ. Khi không có trợ cấp chi phí xăng<br />
dầu của Chính phủ, lợi nhuận biên của một tàu nghề câu cá ngừ đại dương trung bình là 11,3%, trong khi tỷ số này của<br />
nghề rê chỉ đạt đến 2,04%; tỷ suất thu hồi vốn của một tàu nghề câu cá ngừ đại dương trung bình là 24%, tỷ số này của<br />
nghề lưới rê chỉ đạt 2,48%. Ngược lại, khi có trợ cấp chi phí của Chính phủ, lợi nhuận biên và tỷ suất thu hồi vốn của hai<br />
nghề này cũng tăng theo. Cụ thể, lợi nhuận biên của một tàu nghề câu cá ngừ đại dương trung bình tăng lên đến 14,28%<br />
và của nghề rê là 4,84%; tỷ suất thu hồi vốn của một tàu nghề câu cá ngừ đại dương trung bình đạt 31,56% và nghề rê là<br />
5,86%. Bên cạnh đó, thu nhập của mỗi ngư dân làm việc trong nghề câu cá ngừ đại dương bình quân là khoảng 1,8 triệu<br />
đồng/tháng, trong khi thu nhập trung bình của ngư dân làm việc trong nghề rê chỉ là 1,65 triệu đồng/tháng. Nghiên cứu<br />
này cũng cho thấy sự trợ cấp xăng dầu của Chính phủ chưa làm thay đổi hành vi đánh bắt của các tàu tại thời điểm nghiên<br />
cứu, vì thế chính sách trợ cấp chi phí xăng dầu đã được bãi bỏ chỉ sau một năm.<br />
Từ khóa: nghề câu, nghề rê, hiệu quả kinh tế<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Studying on comparision of the economic efficiency of the offshore fisheries, case of tuna longline and gillnet fisheries<br />
in Nha Trang city, Khanh Hoa provine in 2008. The result show that tuna longline fishery is more economically efficient<br />
than gillnet fishery in subsized and non-subsidized fuel of government. When non-subsidized fuel of government, a average<br />
profit margin of a tuna longline vessel is 11.3% while this rate for a gillnet vessel is only 2.04%; the return on investment<br />
of a tuna longline vessel is 24% while this rate for a gillnet vessel is only 2.48%. On other hand, while there is subsized<br />
fuel of government, a average profit margin and the return on investment also go up. In specially, a profit margin of<br />
a tuna longline and gillnet vessel are 14.28% and 4.84% respectively; the return on investment of a longline vessel is<br />
31.56% and a gillnet vessel is 5.86%. Besides, the average income of a crew in tuna longline fishery is about 1.8 million<br />
VND/month, while the average income of a crew in gillnet fishery is about 1.65 million VND/month. This study also indicates that<br />
subsized fuel of government do not change the vessels behaviors at the reasearching time, so the subsized fuel of<br />
government was be abolished after only a year.<br />
Keywords: longline, gillnet, economic efficiency<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải thuộc Nam<br />
Trung Bộ, Việt Nam. Với bờ biển dài 385 km, hơn<br />
200 hòn đảo và diện tích hơn 5.197 km2 [1] đã đem<br />
lại nhiều thuận lợi cho việc phát triển ngành du lịch<br />
và nghề cá. Vào những năm 1990, Chính phủ Việt<br />
Nam đã có chính sách phát triển đánh bắt cá xa bờ,<br />
nhằm làm giảm áp lực khai thác ở vùng ven biển<br />
1<br />
<br />
cũng như gia tăng sản lượng sản phẩm thủy sản<br />
cho việc tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Nhờ đó<br />
mà sản lượng đánh bắt toàn Tỉnh trong những năm<br />
gần đây dao động từ 65 đến 75 ngàn tấn [11], với<br />
tổng số tàu thuyền đánh bắt toàn Tỉnh đã được nâng<br />
lên đến 10.535 chiếc (12/2010). Trong đó, số lượng<br />
tàu đánh bắt xa bờ (≥ 90 HP) chỉ chiếm hơn 7%<br />
và có khoảng 92,8% tổng số tàu thuyền đánh bắt<br />
<br />
ThS. Cao Thị Hồng Nga: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
26 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
vừa và nhỏ hoạt động trong các khu vực ven bờ. Tuy<br />
nhiên, hầu hết số lượng tàu đánh bắt xa bờ đều tập<br />
trung tại thành phố Nha Trang, chiếm khoảng 97%,<br />
2,8% còn lại tập trung ở Cam Ranh, Ninh Hòa [1]. Vì<br />
thế cần có một cuộc nghiên cứu về hiệu quả kinh tế<br />
giữa các nghề cá xa bờ tại Nha Trang, tỉnh Khánh<br />
Hòa, cụ thể là nghề câu cá ngừ đại dương và nghề<br />
lưới rê, là một việc làm hết sức cần thiết cho các chủ<br />
tàu, cho những nhà làm chính sách và những nhà<br />
đại diện quan tâm khác để biết được thực trạng về<br />
kinh tế của các nghề cá cũng như biết được nghề cá<br />
nào mang lại hiệu quả kinh tế hơn. Đồng thời nghiên<br />
cứu này sẽ giúp cho các nhà làm chính sách đưa ra<br />
những chính sách hợp lý để quản lý nghề cá tốt hơn<br />
cũng như thu hút được sự quan tâm của các nhà<br />
đầu tư cho nghề cá trong tương lai gần.<br />
Mục tiêu của nghiên cứu này là: so sánh hiệu<br />
quả kinh tế giữa hai nghề cá đánh bắt xa bờ tại Nha<br />
Trang, tỉnh Khánh Hòa, thông qua việc so sánh các<br />
chỉ tiêu kinh tế như doanh thu và chi phí: doanh thu<br />
thuần, giá trị gia tăng thuần, dòng tiền mặt thuần, lợi<br />
nhuận biên, và tỷ suất thu hồi vốn (ROI). Đồng thời<br />
nghiên cứu này cũng muốn tìm hiểu chính sách trợ<br />
cấp xăng dầu của Chính phủ có ảnh hưởng như thế<br />
nào đối với hai nghề cá này.<br />
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu<br />
Nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của nghề câu<br />
cá ngừ đại dương và nghề lưới rê đánh bắt xa bờ<br />
được thực hiện trên phạm vi địa bàn thành phố Nha<br />
Trang, tỉnh Khánh Hòa vào năm 2008.<br />
<br />
Số 2/2014<br />
có công suất từ 90 HP trở lên. Tuy nhiên, thực tế thì<br />
vẫn có một số ít ngư dân sử dụng tàu dưới 90 HP<br />
để đánh bắt xa bờ. Năm 2009, tổng số lượng tàu<br />
câu đánh bắt xa bờ tại Nha Trang là 107 tàu, trong<br />
đó 37 tàu câu được chọn làm mẫu, chiếm tỷ trọng là<br />
34,6%, và 58 tàu lưới rê đánh bắt xa bờ được chọn<br />
từ 225 tàu, chiếm tỷ trọng là 25,8 % [1]. Cả hai bộ<br />
dữ liệu của nghề câu và nghề lưới rê này đều được<br />
kiểm định và nó mang tính đại diện cho tổng thể của<br />
hai nghề cá tại Nha Trang [2], [5].<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
- Các chỉ tiêu kinh tế được tính: Hiệu quả kinh<br />
tế của tàu khai thác thủy sản [6] được đo lường và<br />
thể hiện ở bảng 1.<br />
Bảng 1. Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả kinh tế<br />
của tàu khai thác thủy sản<br />
STT<br />
<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
6<br />
7<br />
8<br />
9<br />
10<br />
11<br />
12<br />
13<br />
<br />
Chỉ tiêu<br />
<br />
Tổng doanh thu<br />
Chí phí hoạt động (chi phí biến đổi và cố định)<br />
Giá trị gia tăng thuần (3) = (1) - (2)<br />
Chi phí lao động<br />
Dòng tiền mặt thuần (5) = (4) - (3)<br />
Khấu hao<br />
Lãi vay<br />
Lợi nhuận (8) = (5)- (6) - (7)<br />
Lãi vay vốn chủ sở hữu<br />
Lợi nhuận ròng (10) = (8) - (9)<br />
Giá trị tính trên tổng tài sản<br />
Lợi nhuận biên (12) = (8)/(1)*100<br />
Tỷ suất thu hồi vốn (ROI) (13) = (8)/(11)*100<br />
<br />
- Phương pháp so sánh: so sánh tuyệt đối và so<br />
sánh tương đối.<br />
<br />
2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
2.1. Dữ liệu nghiên cứu<br />
Tất cả dữ liệu được thu thập từ giữa tháng 8<br />
1. Một số thống kê cho các tàu câu cá ngừ đại<br />
đến tháng 10 năm 2008 thông qua phỏng vấn trực<br />
dương và tàu lưới rê đánh bắt xa bờ tại Nha Trang<br />
tiếp các hộ ngư dân. Đây được xem như là một mùa<br />
Một số chỉ tiêu thống kê cho các tàu được thể<br />
vụ cá năm 2008. Đối với nghề cá xa bờ thì tàu phải<br />
hiện ở bảng 2.<br />
Bảng 2. Một số thống kê cho 37 tàu câu và 58 tàu lưới rê đánh bắt xa bờ tại Nha Trang năm 2008<br />
<br />
Đvt: triệu đồng<br />
<br />
STT<br />
<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
6<br />
7<br />
8<br />
9<br />
10<br />
11<br />
12<br />
<br />
Tiêu chí<br />
<br />
Động cơ (HP)<br />
Chiều dài (m)<br />
Số ngày đánh bắt (ngày)<br />
Doanh thu thuần từ đánh bắt<br />
Trợ cấp chi phí xăng dầu của Chính phủ<br />
Chi phi biến đổi<br />
Chi phí cố định (sữa chữa và bảo hiểm)<br />
Chi phí nhân công<br />
Khấu hao<br />
Lãi vay<br />
Lãi vay tính theo vốn chủ sở hữu<br />
Giá trị tính của tổng tài sản<br />
<br />
Nghề câu (1) (N = 37)<br />
Trung bình<br />
Độ lệch chuẩn<br />
<br />
126,08<br />
15,32<br />
99,57<br />
845,12<br />
29,78<br />
460,71<br />
31,79<br />
192,21<br />
51,04<br />
13,85<br />
32,17<br />
396,92<br />
<br />
45,47<br />
0,77<br />
31,56<br />
152,27<br />
0,91<br />
166,61<br />
15,09<br />
54,77<br />
19,05<br />
11,87<br />
19,19<br />
230,61<br />
<br />
Nghề lưới rê (2) (N = 58)<br />
Trung bình<br />
Độ lệch chuẩn<br />
<br />
249,57<br />
16,43<br />
231,24<br />
1.044,60<br />
29,20<br />
604,40<br />
89,40<br />
184,10<br />
136,40<br />
8,90<br />
68,90<br />
862,80<br />
<br />
149,30<br />
1,55<br />
28,64<br />
341,20<br />
1,60<br />
174,50<br />
30,10<br />
78,40<br />
45,80<br />
13,90<br />
39,20<br />
454,70<br />
<br />
Nguồn: [1] tác giả và [2], [5]<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 27<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Chiều dài trung bình của một con tàu nghề câu<br />
trong mẫu nghiên cứu là khoảng 15,32m trong khi<br />
đó nghề lưới rê thì chiều dài trung bình của một tàu<br />
là khoảng 16,43m. Công suất đánh bắt của tàu câu<br />
và nghề rê trung bình lần lượt là khoảng 128,08 HP<br />
và 249,57 HP. Số ngày trung bình đánh bắt của tàu<br />
câu là 99,57 ngày trong khi đó số ngày trung bình<br />
đánh bắt của tàu lưới rê là 231,24 ngày. Doanh<br />
thu thuần trong năm của những tàu câu trung bình<br />
là 845,12 triệu đồng/năm trong khi đó nghề lưới<br />
rê là 1.044,60 triệu đồng/năm. Trợ cấp xăng dầu<br />
trực tiếp từ Chính phủ tính trung bình cho một tàu<br />
câu là khoảng 29,78 triệu đồng và nghề lưới rê là<br />
29,20 triệu đồng. Chi phí biến đổi trung bình cho<br />
một tàu đối với nghề câu và nghề lưới rê lần lượt là<br />
460,17 triệu đồng và 604,40 triệu đồng. Chi phí cố<br />
định của mỗi tàu câu trung bình là 31,79 triệu đồng<br />
và con số này chỉ cho nghề lưới rê là 89,40 triệu<br />
đồng. Giá trị tính của tổng tài sản bình quân của một<br />
tàu câu là 396,92 triệu đồng và của tàu lưới rê là<br />
862,80 triệu đồng.<br />
2. So sánh một số chỉ tiêu kinh tế của tàu câu<br />
cá ngừ đại dương và lưới rê đánh bắt xa bờ tại<br />
Nha Trang<br />
- Trường hợp 1: Không có trợ cấp chi phí xăng<br />
dầu của Chính phủ.<br />
Bảng 3 chỉ cho thấy một số chỉ tiêu kinh tế quan<br />
trọng trong năm 2008 đại diện trung bình cho một<br />
tàu của hai nghề cá. Cụ thể, giá trị gia tăng thuần,<br />
dòng tiền mặt thuần, lợi nhuận, và lợi nhuận ròng<br />
<br />
Số 2/2014<br />
của nghề câu cá ngừ đại dương đều mang số<br />
dương; trong khi đó, các chỉ tiêu này của nghề lưới<br />
rê cũng đều mang dấu dương, ngoại trừ lợi nhuận<br />
ròng. Có thể thấy rằng giá trị gia tăng thuần trung<br />
bình của một con tàu câu là 352,62 triệu đồng trong<br />
khi đó giá trị này của nghề lưới rê là 350,80 triệu<br />
đồng, thấp hơn so với nghề câu là 1,82 triệu đồng,<br />
tương đương là thấp hơn 0,51%. Tuy nhiên, dòng<br />
tiền mặt trung bình của một con tàu của nghề lưới<br />
rê lại cao hơn nghề câu là 6,28 triệu đồng, tức là cao<br />
hơn 3,91%. Nguyên nhân là do chi phí lao động của<br />
nghề rê thấp hơn của nghề câu là 8,11 triệu đồng.<br />
Lợi nhuận trung bình của tàu nghề câu và nghề<br />
lưới rê lần lượt là 95,52 triệu đồng và 21,40 triệu<br />
đồng. Điều này cũng cho thấy lợi nhuận trong một<br />
năm hoạt động đánh bắt của nghề câu cao hơn<br />
nghề lưới rê là 74,13 triệu đồng, tức là cao hơn<br />
77,60%. Nguyên nhân là do chi phí khấu hao của<br />
nghề lưới rê cao hơn nghề câu là 85,36 triệu đồng.<br />
Hơn thế nữa, nếu tính lãi vay tính theo vốn chủ sở<br />
hữu vào nghề cá như là một chi phí cơ hội, thì lợi<br />
nhuận ròng trung bình của một con tàu của nghề<br />
câu là con số dương, đạt 63,35 triệu đồng trong khi<br />
đó chỉ tiêu này của nghề lưới rê lại mang con số âm,<br />
với -47,50 triệu đồng. Tuy nhiên, chi phí lãi vay tính<br />
theo vốn chủ sở hữu không được các chủ tàu tính<br />
vào đầy đủ vào tổng chí phí cho một năm hoạt động<br />
giống như những chi phí bình thường. Do vậy, nó<br />
được xem như là một chi phí chìm và dường như<br />
các chủ tàu không quan tâm tới.<br />
<br />
Bảng 3. So sánh các chỉ tiêu kinh tế của nghề câu và nghề lưới rê tại Nha Trang năm 2008<br />
không bao gồm trợ cấp xăng dầu của Chính phủ<br />
<br />
ĐVT: triệu đồng<br />
<br />
Nghề cá<br />
STT<br />
<br />
1<br />
<br />
Các chỉ tiêu<br />
<br />
Doanh thu thuần<br />
<br />
Chênh lệch (2) và (1)<br />
<br />
Nghề câu<br />
(1)<br />
<br />
Nghề rê<br />
(2)<br />
<br />
Tuyệt đối<br />
(+/-)<br />
<br />
Tương đối<br />
(%)<br />
<br />
845,12<br />
<br />
1.044,60<br />
<br />
199,48<br />
<br />
23,60<br />
<br />
2<br />
<br />
Chi phí hoạt động<br />
<br />
492,50<br />
<br />
693,80<br />
<br />
201,30<br />
<br />
40,87<br />
<br />
3<br />
<br />
Giá trị gia tăng thuần (3) = (1) - (2)<br />
<br />
352,62<br />
<br />
350,80<br />
<br />
-1,82<br />
<br />
-0,51<br />
<br />
4<br />
<br />
Chi phí lao động<br />
<br />
192,21<br />
<br />
184,10<br />
<br />
-8,11<br />
<br />
-4,21<br />
<br />
5<br />
<br />
Dòng tiền mặt thuần (5) = (4) - (3)<br />
<br />
160,41<br />
<br />
166,70<br />
<br />
6,28<br />
<br />
3,91<br />
<br />
6<br />
<br />
Khấu hao<br />
<br />
51,04<br />
<br />
136,40<br />
<br />
85,36<br />
<br />
167,24<br />
<br />
7<br />
<br />
Lãi vay<br />
<br />
13,85<br />
<br />
8,90<br />
<br />
-4,95<br />
<br />
-35,73<br />
<br />
8<br />
<br />
Lợi nhuận (8) = (5) - (6) - (7)<br />
<br />
95,52<br />
<br />
21,40<br />
<br />
-74,13<br />
<br />
-77,59<br />
<br />
9<br />
<br />
Lãi vay tính theo vốn chủ sở hữu<br />
<br />
32,17<br />
<br />
68,90<br />
<br />
36,73<br />
<br />
114,18<br />
<br />
10<br />
<br />
Lợi nhuận ròng (10) = (8 )- (9)<br />
<br />
63,35<br />
<br />
-47,50<br />
<br />
-110,86<br />
<br />
-174,96<br />
<br />
11<br />
<br />
Giá trị tính của tổng tài sản<br />
<br />
396,92<br />
<br />
862,80<br />
<br />
465,88<br />
<br />
117,37<br />
<br />
12<br />
<br />
Lợi nhuận biên (12) = (8)/(1)*100<br />
<br />
11,30<br />
<br />
2,04<br />
<br />
-9,26<br />
<br />
-81,87<br />
<br />
13<br />
<br />
Tỷ suất thu hồi vốn (ROI) (13) = (8)/(11)*100<br />
<br />
24,00<br />
<br />
2,48<br />
<br />
-21,52<br />
<br />
-89,69<br />
<br />
28 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Lợi nhuận biên của nghề câu là 11,30% trong<br />
khi tỷ số này của nghề rê chỉ đạt đến 2,04%, tức là<br />
thấp khoảng 9,26%. Tương tự đối với tỷ suất thu<br />
hồi vốn, tỷ suất này của nghề câu là 24% và nghề<br />
lưới rê chỉ đạt 2,48%. Có một sự khác nhau rất lớn<br />
giữa các tỷ suất giữa hai nghề cá trên là do sự khác<br />
nhau về lợi nhuận. Nguyên nhân là do, nghề câu cá<br />
ngừ đại dương là một nghề theo mùa vụ (đánh bắt<br />
từ tháng 10 đến tháng 4 và tháng 5 của năm sau),<br />
bình quân là khoảng 4,5 chuyến trong một năm, mỗi<br />
chuyến kéo dài từ 20 đến 25 ngày. Tuy nhiên, giá trị<br />
của cá ngừ đại dương rất lớn thường khoảng từ 130<br />
ngàn đồng/kg đến 150 ngàn đồng/kg nếu chủ tàu<br />
bán tại bến. Theo kết quả điều tra của tác giả đối với<br />
các chủ tàu thì năm 2008 là năm mà nghề câu đạt<br />
được cả sản lượng và giá bán cao hơn so với mọi<br />
năm. Vì vậy, doanh thu trung bình vào năm 2008<br />
của nghề câu là đạt 845,12 triệu đồng. Tuy nhiên, số<br />
ngày đánh bắt cũng như số chuyến đánh bắt trung<br />
bình trong một năm của nghề lưới rê cao gấp hơn<br />
2,5 lần so với nghề câu (bảng 2) nhưng doanh thu<br />
trung bình trong một năm đánh bắt của nghề rê chỉ<br />
cao hơn so với nghề câu là 23,60% vì loài cá mà<br />
nghề lưới rê đánh bắt chủ yếu là cá ngừ sọc dưa<br />
và cá dưa gang - giá bán trung bình của các loại<br />
cá này vào thời điểm năm 2008 là khoảng từ 15<br />
ngàn đồng đến 20 ngàn đồng/kg. Bên cạnh đó, chi<br />
phí hoạt động trong một năm đánh bắt của nghề rê<br />
cũng cao hơn so với nghề câu là 40,87%. Vì những<br />
lý do này mà giá trị gia tăng thuần của nghề rê thấp<br />
hơn nghề câu, mặc dù sự chênh lệch này không lớn<br />
lắm chỉ có 0,51%. Đồng thời chi phí khấu hao của<br />
<br />
Số 2/2014<br />
nghề rê cũng cao hơn so với nghề câu đã dẫn đến<br />
lợi nhuận của nghề rê thấp hơn nhiều so với nghề<br />
câu. Nhìn chung, chúng ta có thể thấy rằng, chủ tàu<br />
hoạt động trong nghề câu và nghề lưới rê xa bờ<br />
không chỉ bù đắp được các khoản chi phí mà còn<br />
thu được lợi nhuận trong một năm hoạt động của<br />
mình. Tuy nhiên, hiệu quả đánh bắt của nghề câu<br />
cao hơn so với nghề lưới rê.<br />
Số lao động làm việc trên một tàu đánh bắt<br />
xa bờ là khoảng từ 8 đến 10 người và tổng chi phí<br />
bình quân phải trả cho người lao động của nghề<br />
câu là 192,21 triệu đồng/năm và 184,10 triệu đồng/<br />
năm cho nghề rê. Như vậy, mức thu nhập bình quân<br />
của một người lao động trong một năm làm việc<br />
trong nghề câu là 21,33 triệu đồng. Mức thu nhập<br />
này cao hơn mức thu nhập của một lao động làm<br />
trong nghề lưới rê là 4,23 triệu đồng/năm. Hay nói<br />
một cách khác, thu nhập trung bình trong một tháng<br />
của người lao động làm việc trong nghề câu là<br />
1,8 triệu đồng trong khi đó thu nhập trung bình<br />
của một người lao động làm trong nghề rê là<br />
1,65 triệu đồng/ tháng.<br />
- Trường hợp 2: Có trợ cấp chi phí xăng dầu của<br />
Chính phủ<br />
Năm 2008 sự trợ cấp cho chi phí xăng dầu của<br />
Chính phủ cho các ngư dân [3] có thể được xem<br />
như là một sự trợ cấp cho mức nỗ lực đánh bắt,<br />
nhưng thực tế nó là sự trợ cấp về thu nhập cho các<br />
ngư dân, vì thế mức trợ cấp này được tính thêm<br />
vào doanh thu từ hoạt động đánh bắt thay vì trừ nó<br />
ra khỏi tổng chi phí hoạt động trong cuộc nghiên<br />
cứu này.<br />
<br />
Bảng 4. So sánh các chỉ tiêu kinh tế của nghề câu và nghề rê tại Nha Trang năm 2008<br />
khi tính trợ cấp xăng dầu của Chính phủ<br />
<br />
Đơn vị tính: triệu đồng<br />
<br />
STT<br />
<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
6<br />
7<br />
8<br />
9<br />
10<br />
11<br />
12<br />
13<br />
14<br />
15<br />
<br />
Các chỉ tiêu<br />
<br />
Doanh thu thuần<br />
Trợ cấp<br />
Tổng doanh thu (3) = (1) + (2)<br />
Chi phí hoạt động<br />
Giá trị gia tăng thuần (5) = (3) -(4)<br />
Chi phí lao động<br />
Dòng tiền mặt thuần (7) = (5) - (6)<br />
Khấu hao<br />
Lãi vay<br />
Lợi nhuận (10) = (7) - (8) - (9)<br />
Lãi vay tính theo vốn chủ sở hữu<br />
Lợi nhuận ròng (12) = (10) - (11)<br />
Giá trị tính theo tổng tài sản<br />
Lợi nhuận biên (14) = (9)/(3)*100<br />
Tỷ suất thu hồi vốn (ROI) (15) = (9)/(13)*100<br />
<br />
Nghề cá<br />
<br />
Chênh lệch (2) và (1)<br />
<br />
Nghề câu<br />
(1)<br />
<br />
Nghề rê<br />
(2)<br />
<br />
Tuyệt đối<br />
( +/-)<br />
<br />
Tương đối<br />
( %)<br />
<br />
845,12<br />
29,78<br />
874,90<br />
492,50<br />
382,40<br />
192,21<br />
190,19<br />
51,04<br />
13,85<br />
125,30<br />
32,17<br />
93,13<br />
396,92<br />
14,82<br />
31,56<br />
<br />
1.044,60<br />
29,20<br />
1073,80<br />
693,80<br />
380,00<br />
184,10<br />
195,90<br />
136,40<br />
8,90<br />
50,60<br />
68,90<br />
-18,30<br />
862,80<br />
4,84<br />
5,86<br />
<br />
199,48<br />
-0,55<br />
198,93<br />
201,30<br />
-2,37<br />
-8,11<br />
5,73<br />
85,36<br />
-4,95<br />
-74,68<br />
36,73<br />
-111,41<br />
465,88<br />
-9,98<br />
-25,70<br />
<br />
23,60<br />
-1,84<br />
22,73<br />
40,87<br />
-0,62<br />
-4,21<br />
3,01<br />
167,24<br />
-35,73<br />
-59,61<br />
114,18<br />
-119,65<br />
117,37<br />
-67,32<br />
-81,41<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 29<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Bảng 4 cho thấy với sự trợ cấp chi phí xăng dầu<br />
của Chính phủ thì tổng doanh thu của hai nghề cá<br />
tăng lên tương ứng lần lượt là 3,52 % đối với nghề<br />
câu và 2,79% đối với nghề lưới rê. Nhờ có sự trợ<br />
cấp này mà lợi nhuận ròng của nghề câu đã tăng<br />
lên đến 93,13 triệu đồng, tương đương tốc độ tăng<br />
46,95%. Còn đối với nghề lưới rê, lợi nhuận ròng<br />
vẫn mang dấu âm nhưng con số này đã nhỏ hơn<br />
nếu so sánh với trường hợp không có nhận sự trợ<br />
cấp của Chính phủ. Hơn thế nữa các tỷ suất của hai<br />
nghề cá này cũng tăng theo. Cụ thể lợi nhuận biên<br />
của nghề câu tăng lên đến 14,82% và của nghề rê là<br />
4,84%. Còn đối với tỷ suất thu hồi vốn thì nghề câu<br />
đạt 31,56% và nghề rê là 5,86%.<br />
Nhìn chung, trợ cấp chi phí xăng dầu của Chính<br />
phủ đã làm gia tăng lợi nhuận của hai nghề cá trên.<br />
Đây là một phần hỗ trợ cho việc gia tăng chi phí<br />
xăng dầu vào năm 2007 giúp ngư dân tiếp tục bám<br />
biển cũng như đảm bảo công ăn việc làm cho các<br />
ngư dân trong nghề cá [12]. Tuy nhiên,việc trợ cấp<br />
này cho nghề cá có thể được xem xét như là một<br />
sự trợ cấp không có lợi cho nghề cá trong dài hạn.<br />
Điều này có thể dẫn tới sự gia tăng về mức nỗ lực<br />
đánh bắt, và tất nhiên là dẫn đến sự hủy hoại về trữ<br />
lượng đàn cá. Do đó, các nhà làm chính sách của<br />
Việt Nam đã có quyết định bãi bỏ chính sách trợ<br />
cấp chi phí xăng dầu này chỉ sau có một năm. Như<br />
vậy, chính sách trợ cấp xăng dầu của Chính phủ<br />
chưa làm thay đổi hành vi của các tàu tại thời điểm<br />
nghiên cứu.<br />
Nguồn vốn đầu tư vào tàu và các thiết bị đánh<br />
bắt của nghề cá xa bờ là tương đối cao. Sự khắc<br />
nghiệt của điều kiện thời tiết và ngư trường đánh bắt<br />
xa làm cho nghề cá xa bờ mang tính rủi ro cao. Vì<br />
thế những rủi ro về người và cũng như tàu và thiết<br />
bị đánh bắt cũng được tính vào chi phí của hai nghề<br />
cá trong cuộc nghiên cứu này đó là chi phí bảo hiểm<br />
và chi phí sửa chữa và bảo quản.<br />
Tóm lại, năm 2008, lợi nhuận biên của nghề<br />
câu cao hơn lợi nhuận biên của nghề rê là khoảng<br />
9% bao gồm cả trợ cấp và không trợ cấp của Chính<br />
phủ. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư tính bình<br />
quân cho một tàu câu cao hơn tàu lưới rê là 21,52%<br />
nếu không có trợ cấp và 25,70% bao gồm trợ cấp<br />
của Chính phủ.<br />
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
1. Kết luận<br />
Nghiên cứu này so sánh hiệu quả kinh tế của<br />
nghề câu cá ngừ đại dương và nghề lưới rê ở thành<br />
phố Nha Trang vào năm 2008. Nhìn chung, nghề câu<br />
<br />
30 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 2/2014<br />
đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn so với nghề lưới<br />
rê. Năm 2008, tỷ suất lợi nhuận biên không bao gồm<br />
trợ cấp của Chính phủ cho một tàu trung bình của<br />
nghề câu là 11,3%, trong khi đó tỷ số này của nghề<br />
rê chỉ đạt đến 2,04%, tức thấp hơn so với nghề câu<br />
khoảng 9%. Điều này cũng tương tự đối với tỷ suất<br />
thu hồi vốn. Tỷ suất này của nghề câu là 24% và<br />
nghề lưới rê chỉ đạt 2,48%. Hơn thế nữa các tỷ suất<br />
của hai nghề cá này cũng tăng theo sự trợ cấp của<br />
Chính phủ. Cụ thể, lợi nhuận biên của nghề câu<br />
tăng lên đến 14,28% và của nghề rê là 4,84% và tỷ<br />
suất thu hồi vốn của nghề câu và nghề rê lần lượt<br />
đạt là 31,56% 4 và 5,86% vào năm 2008. Tỷ suất<br />
thu hồi vốn của nghề câu không chỉ cao hơn tỷ suất<br />
thu hồi vốn của nghề lưới rê mà còn cao hơn lãi suất<br />
bình quân ngân hàng vào năm 2008 (lãi suất ngân<br />
hàng bình quân 2008 là 9%) [4]. Một lần nữa có thể<br />
khẳng định rằng, nghề câu đạt hiệu quả hơn nghề<br />
lưới rê vào năm 2008.<br />
Mặc dù lợi nhuận cuối cùng của nghề lưới rê<br />
mang dấu âm khi tính chi phí lãi vay của vốn chủ sở<br />
hữu vào nhưng các chủ tàu vẫn tiếp tục hoạt động<br />
đánh bắt của mình vì họ xem chi phí này giống như<br />
là chi phí chìm và các chủ tàu dường như không<br />
quan tâm đến chi phí này vào kết quả một năm hoạt<br />
động của họ. Bên cạnh đó, thu nhập trung bình của<br />
một thuyền viên nghề câu cá ngừ đại dương là 1,8<br />
triệu đồng/tháng vào năm 2008, cao hơn so với thu<br />
nhập khi làm việc trong nghề lưới rê, cụ thể là 1,65<br />
triệu đồng/người/ tháng. Kết quả này có thể được<br />
giải thích bởi 5 lý do trong nghề cá tiếp cận mở: rủi<br />
ro nghề cá cao, chi phí hoạt động và chi phí đầu tư<br />
lớn, nhu cầu về sản phẩm cá ngừ đại dương và cá<br />
thu ngừ cao và sự trợ cấp của Chính phủ. Điều này<br />
có thể chỉ cho thấy rằng nghề câu cá ngừ đại dương<br />
cũng như nghề lưới rê tại Nha Trang có thể tiếp<br />
tục phát triển cũng như có thể thu hút thêm nguồn<br />
vốn đầu tư trong khu vực tư nhân trong tương lai<br />
gần đây.<br />
Nghiên cứu này chỉ ra rằng hỗ trợ trực tiếp từ<br />
Chính phủ trong đánh bắt xa bờ như thế này có thể<br />
được gọi là trợ cấp theo quan điểm sinh học tại thời<br />
điểm nghiên cứu [9] vì nếu có trợ cấp các tàu sẽ<br />
có nhiều lợi nhuận hơn khi không có trợ cấp (ROI<br />
tăng). Việc này dễ dẫn đến việc gia tăng công suất<br />
và mức nỗ lực đánh bắt từ ngư dân trong dài hạn.<br />
Vì thế quyết định trợ cấp xăng dầu cho ngư dân đã<br />
được chính phủ bãi bỏ chỉ sau có một năm và sự trợ<br />
cấp này chưa làm thay đổi hành vi của các tàu tại<br />
thời điểm nghiên cứu.<br />
Nghiên cứu trong tương lai cần thu thập thêm<br />
một số nhân tố về kinh tế xã hội học của ngư dân<br />
<br />