intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh nạo va bằng kỹ thuật coblation kết hợp nội soi qua mũi và nạo va kinh điển

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

32
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm đánh giá hiệu quả và các ưu khuyết điểm của phương pháp (PP) nạo VA bằng coblation kết hợp với nội soi ống cứng qua đường mũi có so sánh với phương pháp nạo VA bằng Moure, La Force kinh điển. Mời các bạn cùng tham khảo đề tài qua bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh nạo va bằng kỹ thuật coblation kết hợp nội soi qua mũi và nạo va kinh điển

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011<br /> <br /> SO SÁNH NẠO VA BẰNG KỸ THUẬT COBLATION KẾT HỢP NỘI SOI<br /> QUA MŨI VÀ NẠO VA KINH ĐIỂN<br /> Trần Anh Tuấn*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đặt vấn đề: Coblation là một phương pháp (pp) phẫu thuật dùng điện mới được thế giới đưa vào áp dụng<br /> trong phẫu thuật tai mũi họng từ năm 1998 với nhiều ưu điểm như hệ thống cắt đốt lưỡng cực (bipolar) sử dụng<br /> đầu đốt lạnh, nhiệt độ cắt đốt thấp nên ít tổn thương mô lành xung quanh. Tại Việt Nam từ năm 2003 Bệnh viện<br /> Đại học Y Dược TPHCM (cơ sở 2) là đơn vị đầu tiên trong cả nước đưa phương pháp này vào phẫu thuật trong<br /> một số bệnh lý vùng tai mũi họng: cắt amiđan, đốt cuốn mũi dưới và điều trị ngủ ngáy, nạo VA.<br /> Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả và các ưu khuyết điểm của phương pháp (PP) nạo VA bằng<br /> Coblation kết hợp với nội soi ống cứng qua đường mũi có so sánh với phương pháp nạo VA bằng Moure, La Force<br /> kinh điển.<br /> Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ngẫu nhiên tiến cứu có can thiệp lâm sàng. 113 bệnh nhân tuổi từ 1<br /> đến 20 có viêm VA mạn tính tái đi tái lại nhiều lần, VA quá phát gây tắc nghẽn hoặc viêm tai giữa tràn dịch được<br /> chỉ định nạo VA bằng hệ thống Coblator II (61bệnh nhân) và bằng La forte, Moure (52 bệnh nhân). Thực hiện tại<br /> Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM Cơ sở 2. Tất cả bệnh nhân được gây mê nội khí quản. thời gian phẫu thuật<br /> được tính từ lúc đặt banh miệng cho đến lúc tháo banh miệng. ghi nhận số lượng máu mất trên mỗi bệnh nhân.<br /> Sau mổ cho kháng sinh (Augmentine), giảm đau (Efferalgan). Theo dõi tình trạng bệnh nhân sau mổ dựa vào tái<br /> khám định kỳ và bảng trả lời câu hỏi của bệnh nhân.<br /> Kết quả: lượng máu mất trong mổ trung bình nhóm Coblator: 4,34 ml (2 - 10ml; SD 1,353), nhóm La Force<br /> mù: 36,94 ml (30 - 60ml; SD 6,427); Thời gian phẫu thuật trung bình nhóm Coblator: 10,62 phút (6-18phút; độ<br /> lệch chuẩn 2,62) nhóm La Force mù: 6,58 phút (4 - 10phút; độ lệch chuẩn 1,433); tỷ lệ chảy máu sớm phải can<br /> thiệp: Nhóm Coblator: 0% (0/61), Nhóm La Force: 1,9% (1/52); tỷ lệ chảy máu muộn sau mổ phải can thiệp cả hai<br /> nhóm là 0%; Thời gian ăn uống bình thường (như trước khi phẫu thuật): Nhóm nạo bằng coblator: trung bình là<br /> 2,26 (1-5 ngày, SD 1,069). Nhóm nạo bằng La Force mù: trung bình là 2,48 (1-6, SD 1,111) ; Thời gian trở lại<br /> làm việc bình thường: Nhóm nạo bằng coblator: 1,31 ngày (1-3; SD 0,614), nhóm nạo bằng La Force mù: 1,76<br /> ngày (1-4; SD 0,951) ; Và tình trạng bỏ sót mô VA nhóm nạo bằng coblator: 0%, nhóm nạo bằng La Force mù:<br /> 96,2%<br /> Kết luận: Nạo VA bằng phương pháp coblation kết hợp với nội soi ống cứng qua mũi an toàn, hiệu quả với<br /> thời gian cắt nhanh, không bỏ sót bệnh tích, ít mất máu trong mổ, ít đau sau mổ, thời gian lành thương nhanh và<br /> ít chăm sóc hậu phẫu.<br /> Từ khóa: Nạo VA bằng Coblation kết hợp với nội soi, nạo VA kinh điển.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> ENDOSCOPIC TRANSNASAL ADENOID ABLATION (COBLATION) COMPARED WITH<br /> TRADITIONAL ADENOIDECTOMY<br /> Tran Anh Tuan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 110 - 117<br /> * Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh<br /> Tác giả liên lạc: TS. BS.Trần Anh Tuấn<br /> <br /> 110<br /> <br /> ĐT: 0903731120<br /> <br /> Email: tuantranent@yahoo.com.vn<br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Introduction: Coblation is a rather new electrosurgical technique that has applied to ORL surgery since<br /> 1998 in the world. This method have many high technologies such as bipolar probe systems, cool probe (Plasma<br /> Wand) with a low temperature molecular disintegration. The result is volumetric tissue removal with minimal<br /> collateral tissue necrosis. In Việt-Nam, the University Medical Center 2 is the first unit which has applied<br /> coblation to some ORL surgical procedures such as tonsillectomy, inferior turbinate interventions to treat mucosal<br /> hypertrophy, UVPP soft palate interventions for snoring and adenoidectomy.<br /> Objective: To assess the morbidity and efficacy of radiofrequency thermal ablation adenoidectomy (coblation)<br /> compared with traditional adenoidectomy<br /> Study design and setting: Prospective, randomized, controlled clinical study of 113 patients aged 1 to 20<br /> years admitted for adenoidectomy therein 61 patients by Coblator II system and 52 patients by La Force, all with<br /> recurrent or chronic adenoiditis, obstructive adenoid hypertrophy or otitis media with effusion. This operation<br /> were carried out in University Medical Center 2. All of them used a general anesthetic technique. Operative time<br /> was recorded as the number of minute from insertion of the mouth gag to removal of the mouth gag. Estimated<br /> blood loss was recorded for each patient. After operation, all patients took antibiotics (Augmentin®) and analgesic<br /> (Efferalgan®). All patients were asked to fill out a postoperative diary.<br /> Results: Intraoperative blood loss: Group of Coblator 4.34 ml (2 - 10ml; SD 1.353), group of La Force: 36.94<br /> ml (30 - 60ml; SD 6.427); Operating time: Group of Coblator:10.62 minute (6-18; SD 2.62) group of La Force:<br /> 6.58 minute (4 - 10; SD 1.433). Rate of primary bleeding need to manage: Group of Coblator: 0% (0/61), group of<br /> La Force: 1.9% (1/52). Rates of secondary bleeding after the first 24 hours postoperatively with need to manage in<br /> the two groups 0%. Time of return to a normal diet (as the preoperation): Group of Coblator 2.26 (1-5 ngày, SD<br /> 1.069). group of La Force 2.48 (1-6, SD 1.111). the day each patient return to work normaly: Group of Coblator:<br /> 1.31 ngày (1-3; SD 0.614), group of La Force: 1.76 ngày (1-4; SD 0.951); And Rates of omission VA tissue:<br /> Group of Coblator: 0%, group of La Force: 96.2%.<br /> Conclusion: Endoscopic transnasal adenoid ablation by coblation is a safe and effective method, with short<br /> surgery time, decrease in blood loss, have not omission VA tissue, less postoperative pain, faster healing and<br /> reduced home care.<br /> Key words: Endoscopic transnasal adenoid ablation by coblation, traditional adenoidectomy.<br /> đang giảm nhanh, từ 19% cách nay 15 năm, nay<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> chỉ còn 4,3% sử dụng (Walner 2007)(10).<br /> Phẫu thuật nạo VA rất thường được áp dụng<br /> Dao điện đơn cực đang được sử dụng phổ<br /> trong tai mũi họng. Có nhiều phương pháp nạo<br /> biến với tỷ lệ sử dụng là 25,9%. Lý do cho sự lựa<br /> VA khác nhau đã được áp dụng trên thế giới<br /> chọn phương pháp là thời gian mổ nhanh, ít mất<br /> trong đó có 4 phương pháp chính đang được<br /> máu và giá thành rẻ. (Walner 2007)(10) nhưng vì<br /> dùng phổ biến là dùng currette hoặc LaForce,<br /> nhiệt độ cắt đốt cao nên gây tổn thương nhiều<br /> dao điện đơn cực, microdebrider và coblation<br /> đến mô lành xung quanh.<br /> (Walner 2007)(10).<br /> Nạo VA bằng Currette hoặc LaForce là<br /> những phương pháp được sử dụng sớm nhất và<br /> đến nay vẫn còn được dùng nhưng do lượng<br /> mất máu trong mổ khá nhiều và có thể làm tổn<br /> thương một số cấu trúc kế cận (Shambaugh,<br /> 1945; Talbot, 1965)(5,9). nên xu hướng hiện nay<br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> <br /> Microdebrider cũng là một phương pháp<br /> phổ biến với 19,8% sử dụng nhưng một biến<br /> chứng thường gặp đó là mất máu nhiều (Walner<br /> 2007, Rodriguez 2002)(10,4).<br /> Từ năm 1998, trên thế giới đã đưa vào áp<br /> dụng một phương pháp phẫu thuật mới gọi là<br /> phương pháp Coblation. Với những ưu điểm về<br /> <br /> 111<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011<br /> <br /> nhiệt độ cắt đốt thấp (40-70oC) nó đang thu hút<br /> được sự quan tâm của giới y học nói chung và tai<br /> mũi họng nói riêng. Phương pháp phẫu thuật<br /> này hiện nay đã được áp dụng trong nhiều<br /> chuyên khoa khác nhau như tai mũi họng, tim<br /> mạch, thần kinh, da liễu, thẩm mỹ, vv.. Trong tai<br /> mũi họng, người ta có thể dùng nó để cắt<br /> amiđan, đốt cuốn mũi dưới, điều trị ngủ ngáy,<br /> nạo VA….<br /> <br /> PHƯƠNGPHÁPVÀ VẬT LIỆU NGHIÊNCỨU<br /> <br /> Về nguyên tắc, phẫu thuật Coblation cũng là<br /> một dạng phẫu thuật điện lưỡng cực nên về<br /> nguyên lý hoạt động cơ bản giống như các<br /> phương pháp phẫu thuật điện trước đây, nhưng<br /> do hệ thống Coblation có sử dụng đầu đốt lạnh<br /> (dùng nước lưu thông trong điện cực để làm mát<br /> và làm môi trường đệm truyền dẫn nhiệt) nên<br /> điện áp và nhiệt độ cắt đốt của chúng khá thấp<br /> (40-70oC) từ đó giảm thiểu được hiện tượng tổn<br /> thương mô lành xung quanh do nhiệt và điện.<br /> <br /> bệnh nhân đến khám tại Bệnh viện Đại học Y<br /> <br /> Cơ chế hoạt động đó là nước trong điện cực<br /> sẽ tạo một lớp dịch nằm giữa điện cực và mô,<br /> qua trung gian lớp dịch này dưới tác dụng của<br /> điện trường. Các nguyên tử trong lớp dịch này<br /> biến đổi thành các ion (sự ion hóa) tạo thành một<br /> lớp plasma<br /> Hạt tích điện trong lớp plasma được gia tốc<br /> dưới tác dụng của điện trường và đạt được đủ<br /> năng lượng để bẻ gãy cầu nối phân tử của tế bào.<br /> Sản phẩm phụ của quá trình này là các phân tử<br /> cấu thành và khí nhẹ thay vì những mô bị cháy.<br /> Từ năm 2003 Bệnh viện đại học Y Dược Cơ<br /> sở 2 là đơn vị đầu tiên trong cả nước đã đưa kỹ<br /> thuật Coblation vào phẫu thuật tai mũi họng.<br /> Sau một thời gian sử dụng chúng tôi nhận thấy<br /> đây là một phương pháp phẫu thuật an toàn,<br /> hiệu quả. Bệnh nhân ít mất máu, ít đau sau mổ<br /> và thời gian lành nhanh.<br /> <br /> Phương pháp nghiên cứu<br /> Nghiên cứu tiến cứu mô tả, có can thiệp từng<br /> ca theo một quy trình định sẵn cho từng nhóm<br /> nghiên cứu.<br /> <br /> Đối tượng nghiên cứu<br /> Cỡ mẫu: 61ca nạo bằng pp Coblator; 52 ca nạo<br /> bằng pp kinh điển được chọn ngẫu nhiên trong số<br /> Dược Cơ sở 2 từ 10/2004 đến 4/2009 có chỉ định<br /> nạo VA không hạn chế tuổi và giới. Chỉ định nạo<br /> VA giống như chỉ định trong các phương pháp<br /> nạo VA khác theo AAO-HNS 2000.<br /> <br /> Phương tiện nghiên cứu<br /> Hệ thống coblator II của hãng ArthroCare<br /> Mỹ, đầu đốt Evac 70 cải tiến, hệ thống gây mê<br /> nội khí quản<br /> <br /> Thiết kế nghiên cứu<br /> Đánh giá tình trạng bệnh nhân trước mổ<br /> Đánh giá lâm sàng: hỏi kỹ bệnh sử và thăm<br /> khám lâm sàng tổng quát. Đánh giá VA qua nội<br /> soi mũi và hoặc X quang sọ nghiêng.<br /> Đánh giá cận lâm sàng: làm các xét nghiệm<br /> trước mổ đánh giá tình trạng tổng quát của bệnh<br /> nhân (công thức máu, chức năng đông máu,<br /> chức năng gan, thận, đường huyết, tổng phân<br /> tích nước tiểu…); chụp phim phổi, đo điện tim.<br /> Phương pháp vô cảm: gây mê toàn thân<br /> đường nội khí quản đặt qua miệng.<br /> Tư thế bệnh nhân: bệnh nhân nằm ngửa,<br /> phẫu thuật viên đứng bên phải bệnh nhân.<br /> <br /> Tư thế bệnh nhân và phẫu thuật viên (hình<br /> trái); mô hình phương pháp nạo VA bằng<br /> Coblation (cải tiến) kết hợp nội soi qua mũi (hình<br /> phải)<br /> <br /> 112<br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011<br /> Chuẩn bị thiết bị<br /> Hệ thống nội soi: sử dụng hệ thống nội soi<br /> ống cứng, loại 4x180mm, 0o hoặc 2.7x180mm, 0o<br /> đặt monitor phía đầu bệnh nhân mặt đối mặt với<br /> phẫu thuật viên.<br /> Hệ thống coblator: lắp chai dịch Nacl 9‰,<br /> gắn điện cực vào hệ thống (sử dụng loại đầu<br /> điện cực Evac70 cải tiến) máy tự động đặt ở chế<br /> độ cắt 7, đốt 3 (chế độ mặc định), gắn hệ thống<br /> hút và dây dịch truyền vào điện cực, vận hành<br /> thử xem tình trạng điện cực, máy hút, tưới nước.<br /> Cải tiến đầu điện cực Evac70: Bẻ cong điện<br /> cực tại điểm cách đầu điện cực khoảng 3cm tạo<br /> một góc 45 độ so với trục điện cực sao cho diện<br /> mặt cắt hướng theo hướng bẻ cong.<br /> <br /> Phương pháp phẫu thuật<br /> * Kỹ thuật nạo VA bằng Coblator cải tiến dưới nội soi<br /> qua mũi<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Rhinex 0,5% (người lớn) trong 5 phút để làm co<br /> niêm mạc mũi giúp đưa ống nội soi qua hốc mũi<br /> dễ dàng cho tới họng mũi.<br /> Tay trái cầm ống soi đưa vào từng bên mũi<br /> của bệnh nhân để kiểm tra khối VA, hút sạch<br /> dịch nếu có để phẫu trường sạch và rõ ràng. Mở<br /> miệng bệnh nhân bằng banh miệng David, đưa<br /> điện cực nạo VA cải tiến qua đường miệng<br /> hướng đầu điện cực lên nóc vòm. Đưa ống soi<br /> qua mũi sao cho thấy rõ khối VA và đầu điện<br /> cực. Bắt đầu cắt VA từ dưới lên, áp nhẹ mặt cắt<br /> của đầu điện cực vào khối VA bắt đầu từ rìa khối<br /> VA, đạp pedal cắt (pedal màu vàng). Mô VA bị<br /> phân cắt và hút vào điện cực. Cắt dần từ ngoài<br /> vào trong, từ dưới lên trên theo từng lớp cho tới<br /> khi hết khối VA mà ta thấy được. Nạo VA vòi<br /> nếu có. Chuyển ống soi sang hốc mũi kế bên nạo<br /> tương tự. Trong khi cắt nếu có điểm chảy máu<br /> thì đốt cầm máu ngay để tạo phẫu trường sạch<br /> và giảm mất máu.<br /> <br /> Bệnh nhân nằm ngửa, đặt mỗi bên hốc mũi 1<br /> đoạn mèche có tẩm Otrivin 0,05% (trẻ em) hoặc<br /> * Kỹ thuật nạo VA bằng La Force<br /> <br /> * Nạo VA vòm và VA vòi theo lối kinh điển (nạo mù)<br /> Bệnh nhân nằm ngửa, đầu để thẳng. Dùng<br /> banh miệng David mở miệng; Dùng La Force<br /> đưa thẳng dọc vào miệng, xoay ngang khi qua<br /> eo họng và hướng dọc lên vùng họng mũi; đè La<br /> Force áp sát vào nóc vòm và bờ sau cửa mũi sau;<br /> mở lưỡi La Force để VA chui vào; bóp mạnh để<br /> <br /> Chăm sóc hậu phẫu (chung cho cả hai phương<br /> pháp)<br /> Sau khi hồi tỉnh đặt bệnh nhân nằm ngửa,<br /> đầu nghiêng sang một bên, đùa dịch nếu có<br /> trong họng ra ngoài để theo đi. Khi bệnh nhân<br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> <br /> lưỡi La Force cắt đứt VA vòm. Đưa chếch La<br /> Force sang 2 bên một góc khoảng 15°, làm tương<br /> tự để nạo VA vòi. Chèn 1 cục bông cầu lên nóc<br /> vòm cầm máu trong 3-5 phút.<br /> Nạo VA vòm, vòi còn sót bằng La Force và<br /> Moure dưới sự hướng dẫn của nội soi.<br /> <br /> nhả nước bọt trong và tỉnh táo hoàn toàn có thể<br /> cho bệnh nhân uống sữa lạnh. Theo dõi tình<br /> trạng bệnh nhân (đau, chảy máu, nhiễm trùng,<br /> ăn uống, mất nước,…).<br /> <br /> 113<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011<br /> <br /> Bệnh nhân xuất viện vào ngày hôm sau.<br /> Cung cấp và hướng dẫn hoàn thành bảng theo<br /> dõi đánh giá sau mổ theo mẫu. Yêu cầu bệnh<br /> nhân tái khám sau mỗi tuần trong tháng đầu và<br /> 3 tháng sau mổ.<br /> <br /> Các tham số cần đánh giá<br /> Thời gian phẫu thuật (tính từ lúc bắt đầu đặt<br /> banh miệng cho đến khi tháo banh miệng).<br /> <br /> Lượng máu mất trong mổ<br /> Nhóm Coblator: 4,34 ml (2 - 10ml; SD 1,353);<br /> nhóm La Force mù: 36,94 ml (30 - 60ml; SD<br /> 6,427). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (Phép<br /> kiểm Student, P0,05).<br /> <br /> Thời gian phẫu thuật<br /> Nhóm coblator: 10,62 phút (6 - 18phút; SD<br /> 2,32); nhóm La Force: 6,58 phút (4 - 10phút; SD<br /> 1,433). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (phép<br /> kiểm Student, P 0,05).<br /> <br /> Tình trạng toàn thân<br /> Ngày trở lại sinh hoạt, học tập bình thường<br /> - Nhóm nạo bằng coblator: 1,31 ngày (1-3; SD<br /> 0,614).<br /> <br /> Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2