intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

37
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết thảo luận về các lợi ích khi người dân tham gia vào QTNS, thực trạng về sự tham gia của người dân, các nguyên nhân dẫn tới sự thờ ơ của người dân với NSNN và đưa ra một số kiến nghị giúp người dân tham gia tích cực, hiệu quả hơn vào QTNS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách

  1. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN VÀO QUY TRÌNH NGÂN SÁCH LươNg Thị Thu hươNg* Trong quy trình ngân sách (QTNS) nhà nước hiện hành ở nước ta, các cơ quan nhà nước vẫn là tác nhân chính, sự tham gia của người dân vào quy trình này còn khá hạn chế, mặc dù họ đóng góp chủ yếu vào ngân sách nhà nước (NSNN). Quyền tham gia của người dân trong QTNS là một chủ đề rất quan trọng và cần được nghiên cứu để thực thi trên thực tế. Tương xứng với quyền thu thuế của Nhà nước thì người dân phải có quyền được biết, được tham gia vào quá trình sử dụng và quản lý NSNN. Bài viết thảo luận về các lợi ích khi người dân tham gia vào QTNS, thực trạng về sự tham gia của người dân, các nguyên nhân dẫn tới sự thờ ơ của người dân với NSNN và đưa ra một số kiến nghị giúp người dân tham gia tích cực, hiệu quả hơn vào QTNS. 1. Khái quát về ngân sách nhà nước và các tổ chức công và tư, nó là quỹ tiền của quy trình ngân sách chủ sở hữu gồm các khoản thu và các khoản Theo Michel Bouvier, Marie-Christine chi nhưng được giới hạn về thời gian áp Esclassan và Jean-Pierre Lassale thì NSNN dụng. Phụ thuộc vào chủ sở hữu, quỹ ngân là một khái niệm có thể hiểu theo nhiều cách sách sẽ được tổ chức và quản lý theo những và luôn biến động cùng với sự phát triển của trình tự và mục đích khác nhau. Nếu với các kinh tế - xã hội1. NSNN thường được thông doanh nghiệp, lợi nhuận là sự tìm kiếm cuối qua dưới dạng văn bản pháp lý, các chỉ số cùng thì với Nhà nước, sử dụng ngân sách thu chi cần được thể hiện dưới một hình nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ3 thức là văn bản pháp lý có hiệu lực bắt buộc của mình mới là đích cần hướng tới. Theo thi hành. đuổi mục tiêu nào phụ thuộc vào bản chất Ngân sách, theo từ điển tiếng Việt, là của mỗi Nhà nước, nhưng “giá trị tăng tổng số thu và chi của một đơn vị trong một thêm” không phải là cách thức sử dụng và thời gian nhất định2. Theo định nghĩa này, quản lý duy nhất của Nhà nước về ngân nội dung về ngân sách gộp chung cho tất cả sách. Như vậy, ngân sách của doanh nghiệp * ThS, GV. Khoa Luật, Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh. 1 Michel Bouvier, Marie - Christine Esclassan và Jean - Pierre Lassale, Tài chính công, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. 2 Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996. 3 Khoản 14 Điều 4 Luật NSNN năm 2015. NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 9
  2. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT là tiền mặt hay các con số trong tài khoản tại tại khoản 14 Điều 4 Luật NSNN năm 2015, các ngân hàng, còn với NSNN thì trước hết là nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà là một loại văn bản được phê chuẩn bởi các nước. Tuy nhiên, ngày nay, thế giới thay đổi chủ thể đại diện cho quyền lực nhà nước4. nhanh chóng, đặc biệt là quá trình toàn cầu Như vậy, có thể coi NSNN là những hóa và hội nhập mau chóng khiến cho các khoản thu và chi được Quốc hội phê chuẩn chức năng truyền thống của NSNN cũng để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội phát triển đa dạng, theo đó, NSNN ngoài của Nhà nước trong thời hạn nhất định. Từ phục vụ cho mục tiêu truyền thống thì còn định nghĩa này, có thể nhận thấy NSNN có có vai trò như một công cụ tình thế để Nhà năm đặc trưng sau đây: nước đối phó với các vấn đề liên quan đến Thứ nhất: QTNS được điều chỉnh bởi hoạt động can thiệp kinh tế vĩ mô. Luật NSNN và bản dự toán đã được cơ quan Về cấu trúc NSNN ở Việt Nam, có ngân quyền lực phê chuẩn. Người ta gọi bản dự sách trung ương (NSTW) và ngân sách địa toán là loại văn bản pháp lý đặc biệt, vì nó phương (NSĐP). Trong đó, NSTW giữ vai được soạn, thảo luận và thông qua bởi các trò chủ đạo, thực hiện nhiệm vụ chi quốc chủ thể và hình thức do luật quy định. Luật gia, hỗ trợ các NSĐP chưa tự cân đối được. này cũng không áp dụng chung cho mọi đối NSĐP gồm ngân sách của các cấp chính tượng như các văn bản pháp luật thông quyền địa phương5. Hội đồng nhân dân cấp thường khác và luôn bị giới hạn về tính hiệu tỉnh giữ vai trò quyết định việc phân cấp NSĐP. Các cấp ngân sách được phân định lực của văn bản. thẩm quyền rất rõ khi pháp luật ghi nhận Thứ hai: NSNN được quản lý và sử nhiệm vụ chi của ngân sách cấp nào thì do dụng chủ yếu bởi các cơ quan trong khối ngân sách cấp đó bảo đảm. Trong trường hành pháp. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết, hợp cơ quan nhà nước cấp trên ủy quyền cho quyền quyết định quan trọng nhất thuộc về cơ quan quản lý nhà nước thuộc ngân sách các cơ quan dân cử. Đây là một đảm bảo cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi của mình chính trị nhằm bảo vệ và duy trì quyền lực thì phải phân bổ và giao dự toán cho cơ quan của cơ quan lập pháp, đồng thời tạo ra thế cấp dưới được ủy quyền để thực hiện nhiệm cân bằng quyền lực giữa các nhánh lập pháp, vụ6. Về cơ bản, việc phân cấp NSNN như hành pháp và tư pháp. hiện nay mang lại kết quả như sau: NSTW Thứ ba: xuất phát từ chức năng và giữ vị trí quan trọng nhất, Chính phủ, cơ nhiệm vụ nên hệ thống cơ quan của Chính quan hành chính nhà nước cao nhất là đại phủ là nơi quản lý và sử dụng chủ yếu diện quản lý và sử dụng NSTW, tập trung NSNN. Mọi sự kiểm soát về NSNN từ phía hầu hết các nguồn thu lớn và quan trọng như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ cơ quan dân cử đều thể hiện trên các văn đặc biệt thu từ hàng hóa nhập khẩu7..., trong bản, chủ yếu mang tính vĩ mô nên việc sử khi đó, NSĐP được hưởng các nguồn thu có dụng NSNN có ổn định và hiệu quả hay giá trị thấp hơn như thuế môn bài, thuế sử không phụ thuộc phần lớn vào khả năng dụng đất nông nghiệp và các loại phụ phí quản trị của Chính phủ và bộ máy trực khác. Hiện trạng này dẫn đến hệ quả là sự thuộc. phụ thuộc rất lớn vào NSTW của các NSĐP, Thứ tư: mục đích của NSNN, như đã nó cũng dẫn đến sự phát triển bất cân xứng trình bày ở phần trên cũng như thể hiện tại ngày càng sâu giữa các địa phương với nhau. 4 Michel Bouvier, Marie - Christine Esclassan và Jean - Pierre Lassale, Tài chính công, Sđd. 5 Điều 6 Luật NSNN năm 2015. 6 Điều 9 Luật NSNN năm 2015. 7 Điều 35 Luật NSNN năm 2015. NGHIÏN CÛÁU 10 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
  3. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Về QTNS, theo quy định của pháp luật, Cũng theo ý này, để công tác quản trị xã hội gồm ba giai đoạn: (i) lập dự toán, (ii) chấp có hiệu quả thì Nhà nước cần phải cởi mở hành và (iii) quyết toán. Mỗi giai đoạn có hơn bằng cách trao quyền cho người dân một vị trí và tầm quan trọng khác nhau. Lập tham gia thực sự vào các quyết định liên dự toán bắt đầu từ ngày 15 tháng 5 và thông quan đến những hành động tập thể vì nó tác thường đến trước ngày 31 tháng 12 các đơn động vô cùng to lớn đến cuộc sống của họ. vị sử dụng ngân sách phải hoàn thành việc Như vậy, việc người dân tham gia vào giao dự toán NSNN8. Chấp hành ngân sách QTNS ở nước ta là hoàn toàn hợp lý vì bắt đầu từ ngày 1 tháng 1 và kết thúc vào 31 những lý do cơ bản sau đây: tháng 12 năm dương lịch9. Quyết toán Thứ nhất, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 NSNN được thực hiện chậm nhất là 14 khẳng định rất rõ Nhà nước là của Nhân dân, tháng sau khi kết thúc năm ngân sách10. do Nhân dân và vì Nhân dân. Đây là tuyên Trong ba giai đoạn của QTNS, lập dự bố hay là sự cam kết thể hiện mọi hoạt động toán ngân sách được coi là giai đoạn quan của Nhà nước phải có sự tham gia của người trọng nhất vì đây là tiền đề quyết định cho dân, với mỗi một lĩnh vực khác nhau sự thì sự vững chắc và ổn định của hai giai đoạn tham gia được thể hiện dưới các hình thức còn lại. Ngoài ra, lập dự toán cũng là khâu khác nhau và Nhà nước phải có nghĩa vụ, duy nhất mà các quốc gia có thể lựa chọn để trách nhiệm tạo ra các cơ chế để người dân thiết lập các cơ chế về mặt pháp lý, giúp thực hiện các quyền của mình một cách hợp người dân có thể tham gia vào quá trình pháp. Nếu Nhà nước dùng sức mạnh của giám sát và quyết định NSNN. mình để hạn chế quyền này dưới bất cứ 2. Sự cần thiết của việc người dân tham phương pháp và cách thức nào thì Nhà nước gia vào quy trình ngân sách nhà nước trở thành lực lượng vi phạm nguyên tắc mà Từ góc nhìn quản lý nhà nước, quan hệ chính họ đã tham gia ký kết. giữa Nhà nước và công dân là mối quan hệ Thứ hai, dưới phương diện của chủ thể giữa người bị quản lý với những người được có nghĩa vụ đóng thuế (trong mối quan hệ chọn ra để quản lý họ. Từ khế ước này làm pháp lý về thu NSNN) thì người dân có xuất hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý, theo những quyền tương ứng sau: một là quyền đó Nhà nước phải đảm bảo các cam kết đã được hưởng các dịch vụ công tương xứng được thiết lập để tạo ra môi trường lý tưởng với tài sản mà họ đã nộp vào NSNN, hai là cho người dân tồn tại và phát triển. Theo quyền được thông tin và can thiệp trong quá Stiglitz (2002), Nhà nước được mong đợi là trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ hành động vì lợi ích của toàn dân. Khi các lên kế hoạch và sử dụng NSNN. chính sách khác nhau ảnh hưởng đến các Thứ ba, theo một số nghiên cứu, ở các nhóm dân cư khác nhau thì cần phải nhận quốc gia Phương Đông, quyền lực nhà nước diện những sự đánh đổi: ai được lợi, ai chịu trên thực tế thường đồng nghĩa với quyền thiệt từ các chương trình đó. Người ta không lực của nền hành pháp. Chính phủ là trung mong đợi Nhà nước sẽ sử dụng quyền lực tâm xoay vần của tất cả các quyền lập pháp, khổng lồ của mình để làm lợi cho giới lãnh hành pháp và tư pháp. Ở Việt Nam, nền đạo hay các nhóm lợi ích đặc biệt với cái giá hành pháp, đứng đầu là Chính phủ, có phải trả dồn lên vai quần chúng nhân dân. truyền thống là trung tâm quyền lực bậc nhất 8 Điều 44 Luật NSNN 2015. 9 Điều 14 Luật NSNN 2015. 10 Khoản 4 Điều 70 Luật NSNN 2015. NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 11
  4. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT trong bộ máy chính quyền Việt Nam11, vì thế ủng hộ các chính sách của Nhà nước hơn, việc tham gia của người dân trong QTNS là dù có thể đó là một khoản thuế mới. Năm một công cụ hỗ trợ cho khối lập pháp cân 2014, Việt Nam quyết định rút quyền đăng bằng quyền lực nhà nước cũng như tạo ra và cai Asiad 18 sau khi cân nhắc vì lý do tài bồi đắp tính minh bạch trong quản trị NSNN chính là một quyết định hợp với ý kiến của của Chính phủ. đại đa số người dân, củng cố uy tín của Thứ tư, theo một số nghiên cứu khác, Chính phủ. ngày nay, đa phần các nguồn lực tài chính 3. Thực trạng sự tham gia của người dân công đều được sử dụng cho việc sản xuất và vào quy trình ngân sách ở Việt Nam cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng. Hầu Như đã trình bày, QTNS nhà nước gồm hết đều do bộ máy công quyền từ trung ba giai đoạn là lập dự toán, chấp hành và ương đến địa phương đảm nhận. Nếu bộ quyết toán. Mỗi một giai đoạn có vai trò máy này thiếu trung thực, không minh bạch khác nhau trong việc tạo sự ổn định và hiệu và tham nhũng thì việc sản xuất và cung cấp quả của một năm ngân sách. Từ trước tới dịch vụ công khó đạt được yêu cầu công nay, các nhà nghiên cứu về tài chính công bằng và hiệu quả12. Như vậy, một đảm bảo luôn đánh giá cao vai trò của quá trình lập giúp cho quá trình phân bổ nguồn lực công dự toán, xuất phát từ nhiều nguyên nhân, ví được công bằng chính là một cơ chế hợp dụ như việc thiết kế phương án sử dụng pháp cho phép người dân được quyền có ngân sách của Nhà nước nếu được tính toán thông tin, được tham gia vào QTNS. Bằng cẩn trọng sẽ đáp ứng được sự ổn định của cách này người dân sẽ biết được tiền thuế có một năm ngân sách. Ngoài ra, đây là khâu được sử dụng hợp pháp và hợp lý hay duy nhất người dân có thể đàm phán với không? Giúp họ đánh giá được các giá trị Nhà nước nhằm tạo ra các cơ chế giúp họ của những dịch vụ công có tương xứng với “chạm” tới QTNS, thứ mà họ đã tạo lập nên nghĩa vụ nộp thuế hay không? Chúng ta nhưng luôn được cố gắng “giáo dục” rằng cũng biết rằng, các dịch vụ công được phuc đó là tài sản của “người khác”. vụ bởi Nhà nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới Những vai trò quan trọng khi người dân đời sống dân chúng, vì thế có những dịch vụ tham gia vào QTNS là không thể chối bỏ, công theo tư duy của Nhà nước thì cần, nhưng ở Việt Nam việc mở cánh cổng này nhưng với những khu vực dân cư nhất định từ phía Nhà nước vẫn còn hạn chế. Xem xét thì lại là thừa, ví dụ như việc xây dựng hàng luật ngân sách của từng thời kỳ, ta thấy hiếm loạt Nhà văn hóa trong một xã để đạt chuẩn có một cơ chế nào được ghi nhận nhằm tạo mô hình nông thôn mới là thật sự lãng phí lập cơ hội cho người dân tham gia vào và có thể người dân sẽ hân hoan hơn khi QTNS. Ngay cả việc tiếp cận thông tin về Nhà nước xây cho họ một cây cầu, và nếu lĩnh vực này cũng trở nên gian nan bởi các người dân được tham vấn trước khi Nhà quy định về việc gánh chịu hậu quả pháp lý nước “phục vụ” công trình nào vì chương nặng nề có thể làm nản chí bất cứ người ham trình gì thì ngân sách được sử dụng sẽ đúng muốn thông tin nào. Điều này là sự thật, bởi mục tiêu hơn. các số liệu dự toán, quyết toán NSNN của Thứ năm, nếu dân chúng được lắng các lĩnh vực chưa được công bố được coi là nghe và chia sẻ thông tin thì sẽ có xu hướng thông tin tuyệt mật13. Ngay cả khi việc công 11 Xem: Phạm Duy Nghĩa, Pháp luật đại cương, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2011. 12 TS. Trần Văn Giao, Cải cách tài chính công ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Cộng sản số 11, 2008. 13 Khoản 5 Điều 5 Pháp lệnh 30/2000/PL- UBTVQH10 ngày 28/12/2000 về bảo vệ bí mật nhà nước. NGHIÏN CÛÁU 12 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
  5. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT khai ngân sách lần đầu được ghi nhận trong tháng 9 năm 2015, Việt Nam đạt 18/100 Luật Ngân sách năm 200214, những tưởng điểm với 8 loại tài liệu ngân sách được đưa giúp dân chúng có cơ hội được tiếp cận về ra làm tiêu chí như sau: tiền thuế của mình, nhưng cũng chỉ là hình Với kết quả khảo sát của IBP, Việt Nam thức khi các số liệu được xuất bản đều đã là một trường hợp khá đặc biệt bởi các chỉ được phê chuẩn. Có nghĩa là việc công khai số về sự tham gia của công chúng (Public này chỉ là công khai cho có. Việc thảo luận, Participation) đạt 42/100 điểm trong khi tham gia ý kiến và can thiệp vào QTNS đối trung bình quốc tế là 25/100. với người dân về cơ bản là không có. Chỉ số giám sát của Quốc hội với Theo khảo sát của IBP (International ngân sách (Oversight by the Legislature) Budget Patnership) về chỉ số công khai ngân đạt 61/100. Trung bình quốc tế là 48/100. sách IBO (Open Budget Index) công bố Chỉ số giám sát ngân sách bởi Kiểm toán Nhà nước (Oversight by the Supreme Theo kết quả này, Việt Nam rơi vào Audit Institution) đạt 75/100, trung bình nhóm danh sách những quốc gia không hoặc quốc tế là 66/100. chỉ công khai một tài liệu ngân sách. Tụt mất Như vậy, mặc dù các chỉ số về sự tham 01 điểm so với khảo sát năm 2012 (19 điểm), thấp hơn các nước như Thái Lan (42 gia của công chúng, sự giám sát của khối lập điểm), Malaysia (46 điểm), Indonesia (59 pháp và Kiểm toán Nhà nước đạt số điểm điểm), Philippines (64 điểm). Nguyên nhân cao hơn mức trung bình quốc tế nhưng cuối chính là do chúng ta có công khai ngân sách, cùng chỉ số công khai ngân sách của Việt nhưng là công khai theo hình thức “thông Nam chỉ đạt 18/100 trong khi trung bình báo”, người dân chỉ biết đến các thông tin quốc tế là 45/100. về ngân sách sau khi chúng được các cơ 14 Điều 3 Luật Ngân sách 2002. NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 13
  6. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Nguồn: Public Particiatio (Regional Comparison) Nguồn: Transparency Budget (Regional Comparison) quan nhà nước có thẩm quyền định đoạt ngành cần hỗ trợ bởi các chuyên gia tài xong, công khai cho có, công khai mang tính chính; số liệu NSNN chưa minh bạch khiến hình thức. Bên cạnh đó, các rào cản pháp lý việc phản biện và đánh giá về ngân sách của được thiết lập bởi Nhà nước khiến người người dân trở nên khó khăn. dân e ngại khi cố gắng tiếp cận thông tin liên Theo quan điểm của Stiglitz, việc tham quan đến NSNN; bản ngân sách dành cho gia của người dân vào các quyết định tập thể công dân ở Việt Nam chưa được xuất bản khiến dân chúng chưa hiểu hết ý nghĩa và có ý nghĩa trong các tiến trình phát triển nhà tầm quan trọng của ngân sách đối với cuộc nước của Nhân dân. Để có được kết quả này sống của họ. Bởi đây là lĩnh vực chuyên đòi hỏi người tham gia phải biết thông tin. NGHIÏN CÛÁU 14 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
  7. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT Chỉ có thông tin mới là công cụ giúp người thông tin, vì muốn rũ bỏ trách nhiệm, vì dân giám sát được các hoạt động của Nhà không phải giải trình và tránh được các áp nước15. Tuy nhiên, nội dung của thông tin và lực khi quản trị không hiệu quả là động cơ thời điểm công bố thông tin lại là cốt lõi cho khiến Nhà nước e ngại khi quyết định cởi phép người dân tham gia giám sát hoạt động mở về thông tin, trong đó có NSNN. Tuy của Nhà nước. Bởi nếu không được tiếp cận nhiên, như đã trình bày ở trên, vấn đề này với sự minh bạch, cụ thể ở đây là minh bạch là không thể bưng bít vì sự công bằng với về quá trình lên kế hoạch, quản lý và sử người nộp thuế cũng như muốn lấy sự ủng dụng NSNN, người dân khó lòng đưa ra hộ của dân chúng với chính quyền. Cho được các góp ý thực tế, nó cũng kéo theo các nên, giải pháp đầu tiên cho phép người dân hệ quả là ngân sách không được sử dụng tham gia quyết định ngân sách chính là thái đúng mục đích, dân chúng không tin tưởng độ cởi mở của Nhà nước, chấp nhận lắng vào chính quyền, điều này đồng nghĩa sự nghe các ý kiến phản biện của người dân và ủng hộ của người dân đối với các chính sách cử tri liên quan đến hoạt động tài chính nhà của Nhà nước cũng hạn chế. Tất cả những nước, đây được coi là một thái độ tích cực vấn đề này là căn nguyên cho sự không ổn từ phía Nhà nước. định của một quốc gia. Giải pháp về công cụ pháp lý: Hiện nay, 4. Thiết lập các cơ chế cho phép người hệ thống pháp luật ngân sách của Việt Nam dân tham gia vào quy trình ngân sách đang từng bước được tạo lập để người dân tham gia vào QTNS. Tuy nhiên, những Việt Nam đã tham gia vào quá trình hội động thái từ phía Nhà nước thể hiện sự dè nhập quốc tế. Vì vậy, sự cởi mở về thông tin dặt, bởi hầu hết các quy định đang có hiệu ngân sách cũng như tạo lập các cơ chế giúp lực mới chỉ dừng lại ở việc “thông báo”. người dân tham gia vào QTNS là một phần Quyền quyết định ngân sách của người dân không thể thiếu trong quản trị nhà nước. Để phải thông qua người đại diện là hệ thống làm được điều này, Việt Nam đang cố gắng cơ quan quyền lực nhà nước. Và thực tế, đối từng bước nới lỏng các rào cản đồng thời với lĩnh vực tài chính, hệ thống cơ quan này thiết lập các cơ sở pháp lý cụ thể. Ghi nhận (gồm Hội đồng nhân dân, Quốc hội) trong về sự tham gia giám sát NSNN lần đầu được thời gian qua chưa thực sự đủ mạnh. Phát trình bày tại Điều 16 Luật NSNN năm 2015, biểu của các đại biểu Quốc hội về thực quy định về phạm vi, nội dung và hình thức trạng quản lý ngân sách: “Không thấy ở đâu công khai ngân sách đã được mở rộng hơn xài tiền ngân sách lãng phí và tùy tiện như rất nhiều so với các bộ luật về ngân sách nước mình”16 cho thấy rõ sự bất lực này. trước đó. Tuy nhiên, để dân chúng tham gia Như vậy, việc trông cậy vào cơ quan đại vào QTNS như thiết kế trong Luật NSNN diện không đảm bảo cho tiền thuế được sử năm 2015 là chưa đủ, bởi hầu hết các quy dụng đúng đắn, nên công cụ hiệu quả nhất định này chỉ mới dừng lại ở mức độ thông mà người dân có thể sử dụng được chính là tin cho biết, trong khi phạm vi về quyền các quy định pháp lý ghi nhận và bảo đảm tham gia ngân sách bao gồm cả quyền can quyền tham gia vào QTNS quốc gia. Theo thiệp và quyền quyết định. ý này, pháp luật nên được thiết kế đồng bộ Nhu cầu giữ bí mật về thông tin liên theo hai hướng: quan đến hoạt động công vụ là luôn hiện Thứ nhất, các quy định của pháp luật hữu, vì các mục đích trục lợi do khan hiếm liên quan phải ghi nhận quyền quyết định 15 Stiglitz, Sự minh bạch trong Chính phủ, Quyền được nói, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2006. 16 Đại biểu Quốc hội Trần Du Lịch, http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/khong-o-dau-xai-tien-nhu-nuoc-minh. NGHIÏN CÛÁU Söë 11(315) T6/2016 LÊÅP PHAÁP 15
  8. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT NSNN của người dân là một chủ thể bắt toán, lúc này, trong cùng một năm ngân sách buộc trong QTNS, hay nói một cách khác, sẽ song song tồn tại hai bản dự toán, việc đạo luật về ngân sách hàng năm sẽ là bất thông tin cho biết cũng như tham gia quyết hợp pháp nếu không có sự tham gia của định điều chỉnh bản dự toán đảm bảo NSNN người dân. Việc tham gia này không chỉ được giám sát kỹ lưỡng, tránh được sự độc dừng lại ở mức độ cơ quan có thẩm quyền quyền về ngân sách của Chính phủ, cũng niêm yết, thông báo trên các phương tiện như hạn chế các rủi do liên quan đến tài truyền thông. Mà phải tiến đến việc lấy ý chính quốc gia. kiến của người dân và phản ánh chúng trong 5. Kết luận bản dự toán ngân sách. Ở những bước đầu NSNN được coi là căn nguyên cho sự tiên, ý kiến tham khảo nên dừng lại ở những vững mạnh của một quốc gia, quyền tự khoản chi lớn của chi đầu tư phát triển, và quyết của một dân tộc sẽ bị hạn chế nếu những công trình để phục vụ người dân nên quỹ tài chính này bị khủng hoảng. Bức có những quy định để người dân quyết định tranh ảm đạm của Hy Lạp và Ukraina đã về sự cần thiết, bởi hơn ai hết họ là người minh chứng điều này. Do vậy, nhu cầu về hiểu chương trình phục vụ của Nhà nước có một hệ thống ngân sách ổn định, mạnh và thật sự cần cho họ hay không. bền vững là mong đợi của cử tri và dân Thứ hai, các vấn đề liên quan đến hoạt chúng. Tuy nhiên, quá trình quản trị nhà động công vụ nói chung và ngân sách nói nước luôn có những động cơ thúc giục riêng phải được tự do truyền thông, nếu việc người quản lý muốn giữ lại những bí mật cố gắng tiếp cận thông tin nhà nước còn là liên quan đến hoạt động công vụ, trong đó một rủi ro pháp lý hẳn sẽ rất ít người đánh có thông tin về NSNN. Trong khi tiêu chí đổi để có được. Vì vậy, chỉ có quyền tự do đánh giá một chính quyền hiệu quả là sự được thông tin và những quyền liên quan tham gia của đông đảo dân chúng vào đến tự do thông tin được Nhà nước ghi nhận những quyết định liên quan đến đời sống rõ ràng mới đảm bảo rằng hành vi công khai của họ, sự tham gia được thể hiện bằng việc có sự minh bạch. Tự do báo chí và tiếp cận được biết và được quyết định. Nhưng mọi thông tin được coi là thứ quyền lực thứ tư, quyền này đều trở nên vô nghĩa khi việc nó khiến cho các cuộc phản biện chính sách tiếp cận thông tin bị hạn chế, hệ thống pháp có tính thực tế và khu vực nhà nước bị buộc luật không rõ ràng. phải hành động để đáp ứng các nhu cầu của Ngân sách của Việt Nam phát triển ngày người dân. càng mạnh, nhưng bên cạnh đó, cũng tiềm Giải pháp hiện thực hóa quy định công ẩn những rủi ro nhất định. Thiết nghĩ, để khai ngân sách từ giai đoạn lập dự toán bằng đảm bảo cho sự bền vững và hiệu quả trong việc tiếp xúc rộng rãi và thảo luận ở cơ sở quá trình sử dụng ngân sách, cần nhiều hơn các nội dung của bản dự thảo dự toán các lực lượng giám sát và quyết định ngân NSNN, đảm bảo rằng bản dự toán cũng như sách như hiện nay. Người dân chính là một quyết định phân bổ ngân sách được ban lựa chọn tối ưu, vì đây là lực lượng chính hành đã dựa trên căn cứ và yêu cầu của hình thành và nuôi dưỡng nguồn tài chính người dân đóng thuế. của Nhà nước, cũng chính từ lực lượng đông Giải pháp về quyền được biết về đề nghị đảo này sẽ đảm bảo sự cân bằng quyền điều chỉnh bản dự toán của Ủy ban nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng của và Chính phủ trong năm ngân sách. Do nhu Nhà nước. Do vậy, tham gia vào QTNS của cầu về kiểm soát NSNN, khi bản dự toán đã người dân luôn là một đòi hỏi chính đáng và được thông qua nhưng do tình thế bắt buộc Nhà nước có trách nhiệm đảm bảo những cơ quan hành pháp phải điều chỉnh bản dự đòi hỏi đó được thực thi trên thực tế n NGHIÏN CÛÁU 16 LÊÅP PHAÁP Söë 11(315) T6/2016
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2