intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc

Chia sẻ: ViNaruto2711 ViNaruto2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

77
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung bài viết đề cập về công tác thủy lợi những năm cuối thế kỉ XIX đến năm 1945 ở đồng bằng Bắc Kì (ĐBBK). Nghiên cứu đã chỉ ra những tiến bộ nhất định trong khoa học kĩ thuật thủy lợi dưới thời Pháp thuộc (1884 – 1945), khi đối sánh với giai đoạn trước năm 1884; kết quả nghiên cứu đồng thời chỉ ra những tồn tại và bài học thiết thực phục vụ cho thực tiễn giải quyết vấn đề thuỷ lợi của đất nước vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Social Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 7, pp. 126-133<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0072<br /> <br /> SỰ TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC KĨ THUẬT THỦY LỢI<br /> Ở ĐỒNG BẰNG BẮC KÌ THỜI PHÁP THUỘC<br /> Hồ Công Lưu<br /> <br /> Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Nội dung bài báo đề cập về công tác thủy lợi những năm cuối thế kỉ XIX đến năm<br /> 1945 ở đồng bằng Bắc Kì (ĐBBK). Nghiên cứu đã chỉ ra những tiến bộ nhất định trong<br /> khoa học kĩ thuật thủy lợi dưới thời Pháp thuộc (1884 – 1945), khi đối sánh với giai đoạn<br /> trước năm 1884; kết quả nghiên cứu đồng thời chỉ ra những tồn tại và bài học thiết thực<br /> phục vụ cho thực tiễn giải quyết vấn đề thuỷ lợi của đất nước vì mục tiêu phát triển kinh tế<br /> - xã hội.<br /> Từ khóa: Khoa học thủy lợi, đồng bằng Bắc Kì, thời Pháp thuộc.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Việt Nam được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn<br /> minh lúa nước tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Ở quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp như nước<br /> ta, thuỷ lợi không chỉ là biện pháp hàng đầu để duy trì phát triển nông nghiệp mà còn có mối quan<br /> hệ với mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội và môi trường sinh thái của đất nước.<br /> Kế thừa một số luận điểm về công tác thủy lợi nói chung trong các công trình của Chassigenux:<br /> L’Irrigation dans le delta du Tonkin (Thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì), năm 1912 [4]; Quốc sử quán<br /> triều Nguyễn: “Đại Nam thực lục”, tập 38, bản dịch của Viện sử học, Nxb Khoa học Xã hội, 1962,<br /> 1978 [8]; Thuỷ lợi Thái Bình 1883 – 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2000 của tác giả<br /> Nguyễn Văn Am [1]... nghiên cứu này của chúng tôi tập trung làm sáng rõ sự chuyển biến nhất<br /> định về khoa học kĩ thuật thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì dưới thời Pháp thuộc (1884 – 1945), nhất<br /> là khi đối sánh với giai đoạn trước năm 1884. Nghiên cứu cũng đồng thời chỉ ra những tồn tại và<br /> bài học thiết thực phục vụ cho thực tiễn giải quyết vấn đề thuỷ lợi của đất nước vì mục tiêu phát<br /> triển kinh tế - xã hội.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Công tác thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì trước năm 1884<br /> <br /> 2.1.1. Khái quát chung<br /> ĐBBK có hình tam giác với đỉnh là Việt Trì (Phú Thọ) và đáy kéo dài từ Quảng Yên đến<br /> Ninh Bình, là sản phẩm vô giá của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Từ xa xưa, phù<br /> Ngày nhận bài: 15/1/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2017<br /> Liên hệ: Hồ Công Lưu, e-mail: congluu8981@hnue.edu.vn<br /> <br /> 126<br /> <br /> Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thủy lợi ở Đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc<br /> <br /> sa sông Hồng, sông Thái Bình đổ ra biển Đông và bù đắp nên những bãi bồi ven biển, làm cho<br /> diện tích ĐBBK được mở rộng. Hạn chế của ĐBBK là đất đai thường chua, mặn nặng. Cùng với<br /> sự phức tạp của địa hình, sự chênh lệch khá lớn của lưu lượng nước trên các dòng sông và sự thất<br /> thường của khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng, đã khiến vấn đề thuỷ lợi nơi đây luôn chiếm vị trí<br /> quan trọng hàng đầu. Điều này được thể hiện cụ thể ngay từ thời kì dựng nước và chạy dọc theo<br /> suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, hầu hết các vương triều và nhân dân đã rất quan tâm đến việc<br /> bảo vệ sản xuất và nâng cao đời sống.<br /> Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên, đã ra đời vào thế kỉ thứ VII trước Công nguyên<br /> trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng. Từ thế kỉ XI – XV, thời Lý - Trần<br /> - Lê, do chính sách khuyến nông và sự quan tâm của nhà nước phong kiến đối với công tác thuỷ<br /> lợi, nên công tác khẩn hoang được đẩy mạnh thêm và đạt được những thành tựu đáng kể so với các<br /> thời kì trước đó. Chẳng hạn vào năm 1077, nhà Lý tổ chức đắp đê sông Như Nguyệt (sông Cầu),<br /> dài 67.380 bộ (khoảng 30 km). Nhà Trần chú trọng đẩy mạnh thuỷ lợi, khai hoang mở rộng diện<br /> tích canh tác và địa bàn cư trú. Ở các Lộ, nhà Trần đặt các chánh, phó sứ đồn điền trông coi việc<br /> khẩn hoang. Thời Lê sơ, nhà nước rất quan tâm đến các chính sách nông nghiệp. Để khai phá các<br /> vùng đất bồi ven biển, nhà Lê đã cho đắp nhiều con đê ngăn mặn có kè đá chắc. Ngày nay, nhiều<br /> đoạn đê được gọi là “đê Hồng Đức” và một số con sông đào mang tên “sông nhà Lê”, hiện vẫn<br /> còn ở một số địa phương vùng Bắc, Trung Bộ.<br /> Đến thời Nguyễn (thế kỉ XIX), được thừa hưởng những thành quả và kinh nghiệm hàng<br /> ngàn năm của các thời đại trước để lại, công việc thuỷ lợi lúc này đã có những thuận lợi nhất định.<br /> Cũng như nhiều triều đại trước, vua quan triều Nguyễn nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của<br /> vấn đề thuỷ lợi. Đồng thời những nguyên nhân về chính trị, kinh tế, xã hội buộc nhà Nguyễn phải<br /> chú trọng giải quyết vấn đề thuỷ lợi. Nhà nước tổ chức lấy ý kiến của quan lại, dân chúng về vấn<br /> đề đắp đê ở ven các sông vào các năm 1803, 1846, 1882, 1883. Triều đình đặt các chức quan Đê<br /> chính Bắc Thành, doanh điền sứ, chuyên trách công việc thuỷ lợi, khai hoang; quy định điều lệ về<br /> việc sử dụng đê, sông một cách chi tiết, chặt chẽ, toàn diện hơn các triều đại trước. Đến mùa mưa,<br /> bão, lũ, triều đình thường cử quan đại thần về kiểm tra, đôn đốc việc canh phòng các đê ven sông.<br /> Đồng thời cử các quan doanh điền sứ có kinh nghiệm, cần mẫn như Nguyễn Công Trứ (thời Minh<br /> Mạng), Doãn Khuê (thời Tự Đức) chăm lo các công việc thuỷ lợi, khai hoang ở Thái Bình, Nam<br /> Định. Với sức lao động bền bỉ của nông dân, việc khẩn hoang, làm thuỷ lợi ở ĐBBK, cũng như cả<br /> nước đạt một số kết qủa.<br /> <br /> 2.1.2. Một số tiến bộ và hạn chế về kĩ thuật thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì trước 1884<br /> - Trong kĩ thuật làm thuỷ lợi, nhân dân vùng ĐBBK lúc này đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Họ<br /> biết kết hợp giữa việc đắp đê, xây dựng kè, cống, đập với việc khơi đào sông để thoát lũ chống vỡ<br /> đê, giải quyết việc tưới tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống; lợi dụng thuỷ triều,<br /> tiết kiệm công sức lao động cho nông dân trong việc tưới tiêu cho ruộng lúa để có thể biến một<br /> vụ thành hai vụ. Không ít ý kiến đánh giá cao các công trình thuỷ lợi ở ĐBBK được xây dựng<br /> trước khi người Pháp tới. Chẳng hạn, khi nhận xét về công trình thuỷ lợi của Thái Bình trước 1883,<br /> P.Pasquier cho rằng: “Những điều kiện địa lí tự nhiên đã làm trỗi dậy trong đầu óc người dân Thái<br /> Bình ý thức đấu tranh kiên trì và liên tục cần thiết để thúc đẩy công cuộc cải tạo thiên nhiên.<br /> Những công trình thuỷ lợi ở Thái Bình là những công trình mạnh dạn. Nhờ các công trình đó mà<br /> người dân Thái Bình có khả năng mở rộng không ngừng phạm vi hoạt động nông nghiệp của họ<br /> bằng cách buộc đất đai phải nổi lên và biển cả phải rút lui” [6;10].<br /> Cuối thế kỉ XIX, chưa bao giờ việc tranh luận về vấn đề thuỷ lợi lại thu hút được nhiều ý<br /> kiến như thời Tự Đức (1848 - 1883). Điều này dễ hiểu, vì trải qua gần 50 năm trực tiếp quản lí<br /> 127<br /> <br /> Hồ Công Lưu<br /> <br /> công việc trị thuỷ ở ĐBBK, những tri thức, kinh nghiệm đã được bổ sung thêm. Hơn nữa lúc này,<br /> một số tri thức người Việt có dịp tiếp xúc với thế giới bên ngoài do vậy những kiến nghị về vấn đề<br /> thuỷ lợi cũng được mở mang hơn. Các bản điều trần đưa ra nhiều lí lẽ quan trọng, đa dạng hơn.<br /> Họ không chỉ bàn đến biện pháp đắp đê hay bỏ đê, đào sông, mà có người còn bước đầu đề cập<br /> đến vấn đề trồng rừng, đập tràn và dùng tàu đồng để vét sông. Trong phạm vi nghiên cứu, chúng<br /> tôi muốn đề cập đến dự án thuỷ lợi và tình hình thực hiện những dự án ấy của Nguyễn Tư Giản,<br /> được ghi trong Đại Nam thực lục Chính biên, đệ tứ kỉ, các tập 28, 29. Trong dự án thứ nhất, ông<br /> đã dâng lên Tự Đức bản điều trần để bảo vệ ý kiến giữ đê của ông và 10 công việc đê sông cần làm<br /> để giữ nước sông. Dự án này mặc dù còn có thiếu sót nhất định, nhưng có những ưu điểm quan<br /> trọng. Ví như ngoài việc đắp đê sông ở nội đồng, ông đã chú ý đến việc đắp đê ở ven biển để ngăn<br /> nước lũ, sóng biển và nước mặn tràn vào, biết làm hồ chứa nước, chú ý đến việc đắp đê và tổ chức<br /> lực lượng chuyên trách bảo vệ đê điều; chú trọng việc dự trù kinh phí, lương thực, chăm lo đến đời<br /> sống và khuyến khích dân công làm đê. Điều mới mẻ ở đây và cũng là đóng góp cho sự tiến bộ<br /> của công việc thuỷ lợi ở nước ta lúc ấy là trong dự án của ông đã biết sử dụng, kết hợp nhiều biện<br /> pháp thuỷ lợi liên hoàn với nhau. Những ưu điểm nói trên làm cho dự án của ông có sức thuyết<br /> phục. Trong dự án thứ hai, ông đề xuất cải tạo sông Thiên Đức để phân lũ sông Hồng. Tất nhiên,<br /> ông không phải là người đầu tiên đưa ra đề án dùng sông Thiên Đức để làm đường thoát lũ cho<br /> sông Hồng. Đã từng có dự án của Lê Đại Cương, Hoàng Quýnh (thời Gia Long), Mai Khắc Mẫn<br /> (thời Minh Mạng), Nguyễn Đình Tân (thời Thiệu Trị). . . Cái mới là ông đã có sự nhìn nhận, đánh<br /> giá một cách cụ thể, hệ thống hơn về vai trò của sông Thiên Đức. Ông không chỉ đưa ra biện pháp<br /> nạo vét, khơi dòng sông mà ông còn có sáng kiến nắn thẳng dòng sông (ở khúc quanh), đào thêm<br /> nhánh sông mới, di dân ở ngoài đê làm cho dòng sông Thiên Đức lưu thông dễ dàng, thoát nước<br /> lũ nhanh hơn. Các dự án của Nguyễn Tư Giản đã thể hiện bước tiến mới quan trọng về trình độ<br /> kiến thức thuỷ lợi của nước ta ở thế kỉ XIX so với những thế kỉ trước đó. Những dự án của ông khi<br /> đưa ra thực hiện đã mang lại hiệu quả nhất định “các dòng sông ở Bắc Kì đã yên sóng”, nhiều lần<br /> Tự Đức còn ban thưởng, khuyến khích Nguyễn Tư Giản [2;61]. Như thế, vào cuối thế kỉ XIX dưới<br /> thời trị vị của triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp chính thức đặt ách thống trị lên toàn Bắc Kì<br /> nói riêng, những biện pháp về thuỷ lợi được đưa ra và thực hiện có số lượng, chất lượng cao hơn so<br /> với thời kì trước đó, “dân chúng và chính quyền” phong kiến đã “có nhiều thiện chí và cố gắng”,<br /> và “Việt Nam thời đó đâu phải cô lập về mặt truyền thống và mặt tri thức” [7;47 – 51].<br /> - Tất nhiên, dù đã có những cố gắng cùng với những thành công nhất định như vậy, nhưng<br /> trong thời kì mà chế độ phong kiến đã quá suy yếu, thiếu năng lực chăm lo sản xuất, không đủ sức<br /> tổ chức công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước, công tác thuỷ lợi ở ĐBBK lúc này đã bộc lộ nhiều<br /> hạn chế, yếu kém. Hầu hết các công trình thuỷ lợi đều được xây dựng và phát triển thiếu đi một<br /> quy hoạch thống nhất, đồng bộ (mang tính chất từng tỉnh, từng thời gian khác nhau). Các dự án,<br /> biện pháp nêu ra là do sáng kiến của từng viên quan, trên từng đoạn đê, từng con sông, vì lợi ích<br /> của một địa phương.<br /> Nhà nước phong kiến cũng thiếu kiến thức mang tính hệ thống về thuỷ văn, khí hậu, thuỷ<br /> lợi hiện đại. Công cuộc thuỷ lợi hoá đòi hỏi phải có những nhà chuyên môn, người tổ chức quản lí<br /> giỏi, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm để thực hiện các dự án thuỷ lợi có kết quả. Nhưng vào thế<br /> kỉ XIX, trình độ khoa học tự nhiên có liên quan đến thuỷ lợi (như địa lí khí hậu, thuỷ văn, toán học,<br /> lí học, sinh thái học. . . ) ở nước ta chưa phát triển cao. Những quan lại lúc bấy giờ không được đào<br /> tạo chuyên trách làm các công việc thuỷ lợi. Vì thế quan lại, ngay cả những viên quan đê chính có<br /> tinh thần trách nhiệm, có năng lực như Nguyễn Tư Giản cũng không thành công trong công việc.<br /> Vào nửa cuối thế kỉ XIX, ở nước ta, nền tài chính của nhà nước phong kiến, sức người, sức<br /> của của nhân dân đã bị khủng hoảng, suy kiệt. Nạn thiên tai, mất mùa, đói kém, dịch bệnh xảy ra<br /> 128<br /> <br /> Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thủy lợi ở Đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc<br /> <br /> thường xuyên. Tình hình chính trị, xã hội rối ren. Cũng lúc đó, thực dân Pháp tiến hành xâm lược.<br /> Nhiều công trình thuỷ lợi phải làm đi làm lại nhiều lần, hoặc kéo dài thời gian thi công. Đê xã<br /> Nhân Tập, huyện Văn Giang (Hưng Yên) đắp đi đắp lại mà vẫn vỡ hàng năm liền.<br /> Nguyên vật liệu xây dựng các công trình chủ yếu bằng vôi, cát, đá, gạch, gỗ lim, tre, chưa<br /> biết sử dụng những nguyên vật liệu có chất kết dính, rắn chắc (xi măng, sắt, thép) để có thể đứng<br /> vững trước những sự tàn phá dữ dội do điều kiện khí hậu và thiên tai gây ra. Khả năng tưới, tiêu,<br /> chống hạn, úng của các công trình chỉ phục vụ trong từng vùng đất nhỏ hẹp. Đê, kè, cống, đập đều<br /> dễ bị sạt, vở. Yếu kém trên đây cần phải được khắc phục bằng sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật để<br /> thuỷ lợi để có thể đáp ứng được yêu cầu về phát triển kinh tế, xã hội của vùng ĐBBK.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc<br /> <br /> 2.2.1. Yêu cầu đặt ra cho công tác thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì<br /> - Xây dựng một quy hoạch thuỷ lợi tổng thể, thống nhất trong toàn vùng ĐBBK. Các công<br /> trình thuỷ lợi ở đây từ trước 1884 đã được xây dựng thành một hệ thống có quy mô rộng lớn với<br /> số lượng khá nhiều, đó là “những công trình mạnh dạn”, giúp cho việc mở rộng đất đai, phát triển<br /> sản xuất nông nghiệp [6;10], hạn chế thiệt hại do thiên tai (úng, lụt, hạn) gây ra. Tuy vậy, các công<br /> trình thuỷ lợi này được xây dựng thiếu một quy hoạch thống nhất, đồng bộ, nên hiệu qủa phục vụ<br /> kém và rất hạn chế. Năm 1859, trong lời dụ của mình, Tự Đức đã nói về nhược điểm này, nhân dịp<br /> bàn về việc đắp đê, đào sông Thiên Đức (sông Đuống) ở Bắc Ninh. “Các quan mới chỉ đem việc<br /> lợi hại của vài huyện mà nói. Còn việc lợi hại của cả con sông thì chưa được tường tận” [6;56].<br /> Yêu cầu trước nhất của công tác thuỷ lợi ở ĐBBK vào những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX<br /> là phải khắc phục được thiếu sót của thuỷ lợi trước 1884, phải xây dựng được quy hoạch thuỷ lợi<br /> đồng bộ, thống nhất trong toàn vùng.<br /> - Cải tạo, hoàn thiện các công trình đã có, đồng thời xây dựng các công trình mới có quy<br /> mô lớn để thực hiện tốt nhiệm vụ chống thiên tai, tưới tiêu, phục vụ nông nghiệp. Các công trình<br /> thuỷ lợi ở ĐBBK có nhiều hạn chế, nhưng không thể huỷ bỏ được, bởi vì “chỉ một chút sơ suất, ví<br /> dụ cắt bỏ một đoạn sông, với một mục đích tốt, cũng có thể dẫn tới việc làm mất đi một diện tích<br /> rất lớn” [6;51]. Từ đó một yêu cầu mới đặt ra là hoàn thiện, cải tiến các công trình sẵn có. Kế thừa<br /> kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam, chính quyền thực dân vẫn thấy cần thiết phải tìm hiểu một số<br /> vấn đề: Chẳng hạn, số lượng các công trình thuỷ lợi đã làm được trước 1884 khá nhiều, nhưng vì<br /> sao “các công trình này lại không bảo đảm đầy đủ được nhiệm vụ chống thiên tai, tưới, tiêu, phục<br /> vụ tốt sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân?” [1;55]. Đáp số mà họ có được là tuy số lượng<br /> nhiều, nhưng lại thiếu những công trình đầu mối có quy mô lớn, có khả năng điều tiết nước theo<br /> yêu cầu của cây trồng. Việc xây dựng tản mạn, manh mún chỉ có thể giải quyết yêu cầu từng vùng<br /> nhỏ, đôi khi vì không đồng bộ mà có tác dụng ngược lại.<br /> - Vận dụng kĩ thuật tiên tiến và có sự giúp đỡ của máy móc trong việc làm thuỷ lợi. Điều<br /> này trước đây ở Việt Nam thời phong kiến không thể thực hiện được vì không có trình độ kĩ thuật<br /> cần thiết mà chủ yếu hoàn thành bằng lao động chân tay và nhiệt tình của nông dân. Đã từ lâu đời,<br /> người nông dân ở ĐBBK đã biết lợi dụng thuỷ triều, dòng nước tự chảy, hoặc dùng sức người với<br /> những công cụ thô sơ (gầu, guồng) để tưới tiêu cho đồng ruộng. Tưới tiêu bằng phương pháp này<br /> là rất cần thiết, thuận lợi và rất kinh tế, nhưng sự điều chỉnh trong chính sách ruộng đất của chính<br /> quyền thực dân, đặc điểm địa hình, khí hậu, thuỷ văn của ĐBBK đã không cho phép chỉ tưới tiêu<br /> bằng trọng lực đơn giản. Phương pháp này “đã không giải quyết đầy đủ được một trong hai vấn đề<br /> tưới hoặc tiêu”, đem lại “kết quả kém” và “hạn chế” [4;95-96].<br /> - Có nguồn tài chính lớn để giải quyết những vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBK (sữa chữa, khôi phục<br /> 129<br /> <br /> Hồ Công Lưu<br /> <br /> các công trình đã có, xây dựng các công trình mới, trang bị cơ sở vật chất, máy móc, kĩ thuật cho<br /> công tác thuỷ lợi, v.v. . . ) Tất nhiên, đầu tư, xây dựng cho thuỷ lợi phải luôn đi liền với công tác<br /> quản lí và bảo vệ nó.<br /> Rõ ràng, vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trong điều kiện hoàn cảnh lịch<br /> sử mới, vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBK được đặt ra đòi hỏi phải giải quyết theo yêu cầu mới cao hơn so<br /> với thời kì trước. Vậy chính quyền thực dân Pháp đã giải quyết những yêu cầu đó như thế nào trên<br /> phương diện khoa học kĩ thuật thuỷ lợi?<br /> <br /> 2.2.2. Tiến bộ về khoa học kĩ thuật thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì<br /> - Quy hoạch thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì: Năm 1884, triều Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt<br /> thừa nhận quyền thống trị của thực dân Pháp. Từ đó, với chức năng của nhà nước thống trị, thực<br /> dân Pháp trực tiếp nắm quyền điều hành công việc thuỷ lợi trong cả nước. Năm 1887, triều Nguyễn<br /> còn cam kết cụ thể hơn việc trao mọi quyền hành, kể cả quyền giải quyết vấn đề thuỷ lợi ở Bắc Kì<br /> cho thực dân Pháp: “Từ nay phàm có gặp ruộng lúa tổn hại và đê lỡ ngập, sâu, cát bồi đổi hạng,<br /> cùng hết thảy chi tiêu các việc công ở tỉnh, đều tư trước lên Nha Kinh lược xét thực, rồi thương<br /> lượng với viên Toàn quyền duyệt y, có đủ giấy tờ trả lời, mới được kê khai tư vào bộ xem xét,<br /> không được tư thẳng” [8;6]. Tất nhiên, kế hoạch thuỷ lợi của thực dân Pháp ở ĐBBK nằm trong<br /> tổng thể chính sách, chủ trương về kinh tế nói chung, về nông nghiệp nói riêng của chúng ở Việt<br /> Nam, nhằm phục vụ cho chính sách bóc lột và bình ổn chính trị. Dù muốn hay không, chính quyền<br /> thực dân vẫn phải một mặt kế thừa các biện pháp kĩ thuật thuỷ lợi ở ĐBBK trước đó, đồng thời bổ<br /> sung những tiến bộ của khoa học kĩ thuật thuỷ lợi mới.<br /> Để thực thi điều hành thủy lợi ở Bắc Kì, chính quyền thuộc địa đã cho tiến hành thành lập<br /> những hội đồng như “Thượng hội đồng đê điều” (Commission superieure des digues, 1896), “Uỷ<br /> ban thuỷ nông” (Comité de L,hydraulique agricole, 1904 – 1905). . . Một số dự án, kế hoạch về<br /> thuỷ lợi do các kĩ sư công chính, thuỷ nông nghiên cứu đã được trình bày. Hàng năm, các công<br /> trình thuỷ lợi được xây dựng trên một số địa điểm ở đồng bằng là theo ý tưởng của công sứ các tỉnh<br /> hoặc theo kế hoạch do một số kĩ sư công chính, thuỷ lợi người Pháp lập ra và điều hành [4;97-100].<br /> Sau Sắc lệnh của chính phủ Pháp ngày 18/1/1905 và Sắc lệnh ngày 9/2/1916 về tổ chức Công chính<br /> Đông Dương, ngày 16/5/1916, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra Nghị định tổ chức cơ<br /> quan công chính một cách cụ thể hơn trước. Hạt công chính Bắc Kì mới được thành lập chịu trách<br /> nhiệm về mặt chuyên môn trong việc tổ chức xây dựng và quản lí các công trình công cộng, trong<br /> đó có các công trình thuỷ lợi chung của toàn vùng ĐBBK.<br /> Từ năm 1930, chính quyền thực dân có kế hoạch tương đối quy mô, tổng thể. Người Pháp<br /> đã phối hợp với quan lại Việt Nam để thực hiện được các nhiệm vụ thuỷ lợi. Bộ máy tổ chức quản<br /> lí được phân thành các cấp: Toàn xứ Bắc Kì ngoài Hạt Công chính Bắc Kì chính quyền thực dân đã<br /> tổ chức các cơ quan nghiên cứu, theo dõi các vấn đề thuỷ lợi. Ở các tỉnh thành lập Ti Công chính<br /> (Subdivision des traveaux publics) gọi là Ti Công chính Nam Định, Ti Công chính Thái Bình. . .<br /> gồm có một kĩ sư trưởng, một vài nhân viên, chuyên môn người Pháp. Điều đáng ghi nhận dù làm<br /> việc với mục đích hay quyền lợi nào cho chính quyền thực dân thì bản thân họ “đã từng hành nghề<br /> một cách lương thiện, đã giành cho thuỷ lợi ở ĐBBK và một số nơi khác ở nước ta” sự gắn bó vì<br /> ham thích và cả tình yêu, trí thông minh, khả năng mọi sức lực của hoạt động nghề nghiệp của họ”<br /> [3;206]. Ti Công chính chịu sự chỉ đạo của Hạt Công chính Bắc Kì và Công sứ tỉnh. Ở các làng<br /> xã, bộ máy tổ chức, quản lí thuỷ lợi dưới triều Nguyễn vẫn được duy trì. Hương hội (Hội đồng tộc<br /> biên, hội đồng lương mục) và lí dịch (Lí trưởng, Phó lí) chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành việc<br /> làm thuỷ lợi ở địa phương.<br /> Ngày 28/12/1934, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cải tổ lại cơ quan công chính.<br /> 130<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2