JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 7, pp. 126-133<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0072<br />
<br />
SỰ TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC KĨ THUẬT THỦY LỢI<br />
Ở ĐỒNG BẰNG BẮC KÌ THỜI PHÁP THUỘC<br />
Hồ Công Lưu<br />
<br />
Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Nội dung bài báo đề cập về công tác thủy lợi những năm cuối thế kỉ XIX đến năm<br />
1945 ở đồng bằng Bắc Kì (ĐBBK). Nghiên cứu đã chỉ ra những tiến bộ nhất định trong<br />
khoa học kĩ thuật thủy lợi dưới thời Pháp thuộc (1884 – 1945), khi đối sánh với giai đoạn<br />
trước năm 1884; kết quả nghiên cứu đồng thời chỉ ra những tồn tại và bài học thiết thực<br />
phục vụ cho thực tiễn giải quyết vấn đề thuỷ lợi của đất nước vì mục tiêu phát triển kinh tế<br />
- xã hội.<br />
Từ khóa: Khoa học thủy lợi, đồng bằng Bắc Kì, thời Pháp thuộc.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Việt Nam được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn<br />
minh lúa nước tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Ở quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp như nước<br />
ta, thuỷ lợi không chỉ là biện pháp hàng đầu để duy trì phát triển nông nghiệp mà còn có mối quan<br />
hệ với mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội và môi trường sinh thái của đất nước.<br />
Kế thừa một số luận điểm về công tác thủy lợi nói chung trong các công trình của Chassigenux:<br />
L’Irrigation dans le delta du Tonkin (Thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì), năm 1912 [4]; Quốc sử quán<br />
triều Nguyễn: “Đại Nam thực lục”, tập 38, bản dịch của Viện sử học, Nxb Khoa học Xã hội, 1962,<br />
1978 [8]; Thuỷ lợi Thái Bình 1883 – 1945, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2000 của tác giả<br />
Nguyễn Văn Am [1]... nghiên cứu này của chúng tôi tập trung làm sáng rõ sự chuyển biến nhất<br />
định về khoa học kĩ thuật thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì dưới thời Pháp thuộc (1884 – 1945), nhất<br />
là khi đối sánh với giai đoạn trước năm 1884. Nghiên cứu cũng đồng thời chỉ ra những tồn tại và<br />
bài học thiết thực phục vụ cho thực tiễn giải quyết vấn đề thuỷ lợi của đất nước vì mục tiêu phát<br />
triển kinh tế - xã hội.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Công tác thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì trước năm 1884<br />
<br />
2.1.1. Khái quát chung<br />
ĐBBK có hình tam giác với đỉnh là Việt Trì (Phú Thọ) và đáy kéo dài từ Quảng Yên đến<br />
Ninh Bình, là sản phẩm vô giá của hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Từ xa xưa, phù<br />
Ngày nhận bài: 15/1/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2017<br />
Liên hệ: Hồ Công Lưu, e-mail: congluu8981@hnue.edu.vn<br />
<br />
126<br />
<br />
Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thủy lợi ở Đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc<br />
<br />
sa sông Hồng, sông Thái Bình đổ ra biển Đông và bù đắp nên những bãi bồi ven biển, làm cho<br />
diện tích ĐBBK được mở rộng. Hạn chế của ĐBBK là đất đai thường chua, mặn nặng. Cùng với<br />
sự phức tạp của địa hình, sự chênh lệch khá lớn của lưu lượng nước trên các dòng sông và sự thất<br />
thường của khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng, đã khiến vấn đề thuỷ lợi nơi đây luôn chiếm vị trí<br />
quan trọng hàng đầu. Điều này được thể hiện cụ thể ngay từ thời kì dựng nước và chạy dọc theo<br />
suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, hầu hết các vương triều và nhân dân đã rất quan tâm đến việc<br />
bảo vệ sản xuất và nâng cao đời sống.<br />
Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên, đã ra đời vào thế kỉ thứ VII trước Công nguyên<br />
trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng. Từ thế kỉ XI – XV, thời Lý - Trần<br />
- Lê, do chính sách khuyến nông và sự quan tâm của nhà nước phong kiến đối với công tác thuỷ<br />
lợi, nên công tác khẩn hoang được đẩy mạnh thêm và đạt được những thành tựu đáng kể so với các<br />
thời kì trước đó. Chẳng hạn vào năm 1077, nhà Lý tổ chức đắp đê sông Như Nguyệt (sông Cầu),<br />
dài 67.380 bộ (khoảng 30 km). Nhà Trần chú trọng đẩy mạnh thuỷ lợi, khai hoang mở rộng diện<br />
tích canh tác và địa bàn cư trú. Ở các Lộ, nhà Trần đặt các chánh, phó sứ đồn điền trông coi việc<br />
khẩn hoang. Thời Lê sơ, nhà nước rất quan tâm đến các chính sách nông nghiệp. Để khai phá các<br />
vùng đất bồi ven biển, nhà Lê đã cho đắp nhiều con đê ngăn mặn có kè đá chắc. Ngày nay, nhiều<br />
đoạn đê được gọi là “đê Hồng Đức” và một số con sông đào mang tên “sông nhà Lê”, hiện vẫn<br />
còn ở một số địa phương vùng Bắc, Trung Bộ.<br />
Đến thời Nguyễn (thế kỉ XIX), được thừa hưởng những thành quả và kinh nghiệm hàng<br />
ngàn năm của các thời đại trước để lại, công việc thuỷ lợi lúc này đã có những thuận lợi nhất định.<br />
Cũng như nhiều triều đại trước, vua quan triều Nguyễn nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của<br />
vấn đề thuỷ lợi. Đồng thời những nguyên nhân về chính trị, kinh tế, xã hội buộc nhà Nguyễn phải<br />
chú trọng giải quyết vấn đề thuỷ lợi. Nhà nước tổ chức lấy ý kiến của quan lại, dân chúng về vấn<br />
đề đắp đê ở ven các sông vào các năm 1803, 1846, 1882, 1883. Triều đình đặt các chức quan Đê<br />
chính Bắc Thành, doanh điền sứ, chuyên trách công việc thuỷ lợi, khai hoang; quy định điều lệ về<br />
việc sử dụng đê, sông một cách chi tiết, chặt chẽ, toàn diện hơn các triều đại trước. Đến mùa mưa,<br />
bão, lũ, triều đình thường cử quan đại thần về kiểm tra, đôn đốc việc canh phòng các đê ven sông.<br />
Đồng thời cử các quan doanh điền sứ có kinh nghiệm, cần mẫn như Nguyễn Công Trứ (thời Minh<br />
Mạng), Doãn Khuê (thời Tự Đức) chăm lo các công việc thuỷ lợi, khai hoang ở Thái Bình, Nam<br />
Định. Với sức lao động bền bỉ của nông dân, việc khẩn hoang, làm thuỷ lợi ở ĐBBK, cũng như cả<br />
nước đạt một số kết qủa.<br />
<br />
2.1.2. Một số tiến bộ và hạn chế về kĩ thuật thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì trước 1884<br />
- Trong kĩ thuật làm thuỷ lợi, nhân dân vùng ĐBBK lúc này đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Họ<br />
biết kết hợp giữa việc đắp đê, xây dựng kè, cống, đập với việc khơi đào sông để thoát lũ chống vỡ<br />
đê, giải quyết việc tưới tiêu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống; lợi dụng thuỷ triều,<br />
tiết kiệm công sức lao động cho nông dân trong việc tưới tiêu cho ruộng lúa để có thể biến một<br />
vụ thành hai vụ. Không ít ý kiến đánh giá cao các công trình thuỷ lợi ở ĐBBK được xây dựng<br />
trước khi người Pháp tới. Chẳng hạn, khi nhận xét về công trình thuỷ lợi của Thái Bình trước 1883,<br />
P.Pasquier cho rằng: “Những điều kiện địa lí tự nhiên đã làm trỗi dậy trong đầu óc người dân Thái<br />
Bình ý thức đấu tranh kiên trì và liên tục cần thiết để thúc đẩy công cuộc cải tạo thiên nhiên.<br />
Những công trình thuỷ lợi ở Thái Bình là những công trình mạnh dạn. Nhờ các công trình đó mà<br />
người dân Thái Bình có khả năng mở rộng không ngừng phạm vi hoạt động nông nghiệp của họ<br />
bằng cách buộc đất đai phải nổi lên và biển cả phải rút lui” [6;10].<br />
Cuối thế kỉ XIX, chưa bao giờ việc tranh luận về vấn đề thuỷ lợi lại thu hút được nhiều ý<br />
kiến như thời Tự Đức (1848 - 1883). Điều này dễ hiểu, vì trải qua gần 50 năm trực tiếp quản lí<br />
127<br />
<br />
Hồ Công Lưu<br />
<br />
công việc trị thuỷ ở ĐBBK, những tri thức, kinh nghiệm đã được bổ sung thêm. Hơn nữa lúc này,<br />
một số tri thức người Việt có dịp tiếp xúc với thế giới bên ngoài do vậy những kiến nghị về vấn đề<br />
thuỷ lợi cũng được mở mang hơn. Các bản điều trần đưa ra nhiều lí lẽ quan trọng, đa dạng hơn.<br />
Họ không chỉ bàn đến biện pháp đắp đê hay bỏ đê, đào sông, mà có người còn bước đầu đề cập<br />
đến vấn đề trồng rừng, đập tràn và dùng tàu đồng để vét sông. Trong phạm vi nghiên cứu, chúng<br />
tôi muốn đề cập đến dự án thuỷ lợi và tình hình thực hiện những dự án ấy của Nguyễn Tư Giản,<br />
được ghi trong Đại Nam thực lục Chính biên, đệ tứ kỉ, các tập 28, 29. Trong dự án thứ nhất, ông<br />
đã dâng lên Tự Đức bản điều trần để bảo vệ ý kiến giữ đê của ông và 10 công việc đê sông cần làm<br />
để giữ nước sông. Dự án này mặc dù còn có thiếu sót nhất định, nhưng có những ưu điểm quan<br />
trọng. Ví như ngoài việc đắp đê sông ở nội đồng, ông đã chú ý đến việc đắp đê ở ven biển để ngăn<br />
nước lũ, sóng biển và nước mặn tràn vào, biết làm hồ chứa nước, chú ý đến việc đắp đê và tổ chức<br />
lực lượng chuyên trách bảo vệ đê điều; chú trọng việc dự trù kinh phí, lương thực, chăm lo đến đời<br />
sống và khuyến khích dân công làm đê. Điều mới mẻ ở đây và cũng là đóng góp cho sự tiến bộ<br />
của công việc thuỷ lợi ở nước ta lúc ấy là trong dự án của ông đã biết sử dụng, kết hợp nhiều biện<br />
pháp thuỷ lợi liên hoàn với nhau. Những ưu điểm nói trên làm cho dự án của ông có sức thuyết<br />
phục. Trong dự án thứ hai, ông đề xuất cải tạo sông Thiên Đức để phân lũ sông Hồng. Tất nhiên,<br />
ông không phải là người đầu tiên đưa ra đề án dùng sông Thiên Đức để làm đường thoát lũ cho<br />
sông Hồng. Đã từng có dự án của Lê Đại Cương, Hoàng Quýnh (thời Gia Long), Mai Khắc Mẫn<br />
(thời Minh Mạng), Nguyễn Đình Tân (thời Thiệu Trị). . . Cái mới là ông đã có sự nhìn nhận, đánh<br />
giá một cách cụ thể, hệ thống hơn về vai trò của sông Thiên Đức. Ông không chỉ đưa ra biện pháp<br />
nạo vét, khơi dòng sông mà ông còn có sáng kiến nắn thẳng dòng sông (ở khúc quanh), đào thêm<br />
nhánh sông mới, di dân ở ngoài đê làm cho dòng sông Thiên Đức lưu thông dễ dàng, thoát nước<br />
lũ nhanh hơn. Các dự án của Nguyễn Tư Giản đã thể hiện bước tiến mới quan trọng về trình độ<br />
kiến thức thuỷ lợi của nước ta ở thế kỉ XIX so với những thế kỉ trước đó. Những dự án của ông khi<br />
đưa ra thực hiện đã mang lại hiệu quả nhất định “các dòng sông ở Bắc Kì đã yên sóng”, nhiều lần<br />
Tự Đức còn ban thưởng, khuyến khích Nguyễn Tư Giản [2;61]. Như thế, vào cuối thế kỉ XIX dưới<br />
thời trị vị của triều Nguyễn trước khi thực dân Pháp chính thức đặt ách thống trị lên toàn Bắc Kì<br />
nói riêng, những biện pháp về thuỷ lợi được đưa ra và thực hiện có số lượng, chất lượng cao hơn so<br />
với thời kì trước đó, “dân chúng và chính quyền” phong kiến đã “có nhiều thiện chí và cố gắng”,<br />
và “Việt Nam thời đó đâu phải cô lập về mặt truyền thống và mặt tri thức” [7;47 – 51].<br />
- Tất nhiên, dù đã có những cố gắng cùng với những thành công nhất định như vậy, nhưng<br />
trong thời kì mà chế độ phong kiến đã quá suy yếu, thiếu năng lực chăm lo sản xuất, không đủ sức<br />
tổ chức công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước, công tác thuỷ lợi ở ĐBBK lúc này đã bộc lộ nhiều<br />
hạn chế, yếu kém. Hầu hết các công trình thuỷ lợi đều được xây dựng và phát triển thiếu đi một<br />
quy hoạch thống nhất, đồng bộ (mang tính chất từng tỉnh, từng thời gian khác nhau). Các dự án,<br />
biện pháp nêu ra là do sáng kiến của từng viên quan, trên từng đoạn đê, từng con sông, vì lợi ích<br />
của một địa phương.<br />
Nhà nước phong kiến cũng thiếu kiến thức mang tính hệ thống về thuỷ văn, khí hậu, thuỷ<br />
lợi hiện đại. Công cuộc thuỷ lợi hoá đòi hỏi phải có những nhà chuyên môn, người tổ chức quản lí<br />
giỏi, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm để thực hiện các dự án thuỷ lợi có kết quả. Nhưng vào thế<br />
kỉ XIX, trình độ khoa học tự nhiên có liên quan đến thuỷ lợi (như địa lí khí hậu, thuỷ văn, toán học,<br />
lí học, sinh thái học. . . ) ở nước ta chưa phát triển cao. Những quan lại lúc bấy giờ không được đào<br />
tạo chuyên trách làm các công việc thuỷ lợi. Vì thế quan lại, ngay cả những viên quan đê chính có<br />
tinh thần trách nhiệm, có năng lực như Nguyễn Tư Giản cũng không thành công trong công việc.<br />
Vào nửa cuối thế kỉ XIX, ở nước ta, nền tài chính của nhà nước phong kiến, sức người, sức<br />
của của nhân dân đã bị khủng hoảng, suy kiệt. Nạn thiên tai, mất mùa, đói kém, dịch bệnh xảy ra<br />
128<br />
<br />
Sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thủy lợi ở Đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc<br />
<br />
thường xuyên. Tình hình chính trị, xã hội rối ren. Cũng lúc đó, thực dân Pháp tiến hành xâm lược.<br />
Nhiều công trình thuỷ lợi phải làm đi làm lại nhiều lần, hoặc kéo dài thời gian thi công. Đê xã<br />
Nhân Tập, huyện Văn Giang (Hưng Yên) đắp đi đắp lại mà vẫn vỡ hàng năm liền.<br />
Nguyên vật liệu xây dựng các công trình chủ yếu bằng vôi, cát, đá, gạch, gỗ lim, tre, chưa<br />
biết sử dụng những nguyên vật liệu có chất kết dính, rắn chắc (xi măng, sắt, thép) để có thể đứng<br />
vững trước những sự tàn phá dữ dội do điều kiện khí hậu và thiên tai gây ra. Khả năng tưới, tiêu,<br />
chống hạn, úng của các công trình chỉ phục vụ trong từng vùng đất nhỏ hẹp. Đê, kè, cống, đập đều<br />
dễ bị sạt, vở. Yếu kém trên đây cần phải được khắc phục bằng sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật để<br />
thuỷ lợi để có thể đáp ứng được yêu cầu về phát triển kinh tế, xã hội của vùng ĐBBK.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì thời Pháp thuộc<br />
<br />
2.2.1. Yêu cầu đặt ra cho công tác thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì<br />
- Xây dựng một quy hoạch thuỷ lợi tổng thể, thống nhất trong toàn vùng ĐBBK. Các công<br />
trình thuỷ lợi ở đây từ trước 1884 đã được xây dựng thành một hệ thống có quy mô rộng lớn với<br />
số lượng khá nhiều, đó là “những công trình mạnh dạn”, giúp cho việc mở rộng đất đai, phát triển<br />
sản xuất nông nghiệp [6;10], hạn chế thiệt hại do thiên tai (úng, lụt, hạn) gây ra. Tuy vậy, các công<br />
trình thuỷ lợi này được xây dựng thiếu một quy hoạch thống nhất, đồng bộ, nên hiệu qủa phục vụ<br />
kém và rất hạn chế. Năm 1859, trong lời dụ của mình, Tự Đức đã nói về nhược điểm này, nhân dịp<br />
bàn về việc đắp đê, đào sông Thiên Đức (sông Đuống) ở Bắc Ninh. “Các quan mới chỉ đem việc<br />
lợi hại của vài huyện mà nói. Còn việc lợi hại của cả con sông thì chưa được tường tận” [6;56].<br />
Yêu cầu trước nhất của công tác thuỷ lợi ở ĐBBK vào những năm cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX<br />
là phải khắc phục được thiếu sót của thuỷ lợi trước 1884, phải xây dựng được quy hoạch thuỷ lợi<br />
đồng bộ, thống nhất trong toàn vùng.<br />
- Cải tạo, hoàn thiện các công trình đã có, đồng thời xây dựng các công trình mới có quy<br />
mô lớn để thực hiện tốt nhiệm vụ chống thiên tai, tưới tiêu, phục vụ nông nghiệp. Các công trình<br />
thuỷ lợi ở ĐBBK có nhiều hạn chế, nhưng không thể huỷ bỏ được, bởi vì “chỉ một chút sơ suất, ví<br />
dụ cắt bỏ một đoạn sông, với một mục đích tốt, cũng có thể dẫn tới việc làm mất đi một diện tích<br />
rất lớn” [6;51]. Từ đó một yêu cầu mới đặt ra là hoàn thiện, cải tiến các công trình sẵn có. Kế thừa<br />
kinh nghiệm của nhân dân Việt Nam, chính quyền thực dân vẫn thấy cần thiết phải tìm hiểu một số<br />
vấn đề: Chẳng hạn, số lượng các công trình thuỷ lợi đã làm được trước 1884 khá nhiều, nhưng vì<br />
sao “các công trình này lại không bảo đảm đầy đủ được nhiệm vụ chống thiên tai, tưới, tiêu, phục<br />
vụ tốt sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân?” [1;55]. Đáp số mà họ có được là tuy số lượng<br />
nhiều, nhưng lại thiếu những công trình đầu mối có quy mô lớn, có khả năng điều tiết nước theo<br />
yêu cầu của cây trồng. Việc xây dựng tản mạn, manh mún chỉ có thể giải quyết yêu cầu từng vùng<br />
nhỏ, đôi khi vì không đồng bộ mà có tác dụng ngược lại.<br />
- Vận dụng kĩ thuật tiên tiến và có sự giúp đỡ của máy móc trong việc làm thuỷ lợi. Điều<br />
này trước đây ở Việt Nam thời phong kiến không thể thực hiện được vì không có trình độ kĩ thuật<br />
cần thiết mà chủ yếu hoàn thành bằng lao động chân tay và nhiệt tình của nông dân. Đã từ lâu đời,<br />
người nông dân ở ĐBBK đã biết lợi dụng thuỷ triều, dòng nước tự chảy, hoặc dùng sức người với<br />
những công cụ thô sơ (gầu, guồng) để tưới tiêu cho đồng ruộng. Tưới tiêu bằng phương pháp này<br />
là rất cần thiết, thuận lợi và rất kinh tế, nhưng sự điều chỉnh trong chính sách ruộng đất của chính<br />
quyền thực dân, đặc điểm địa hình, khí hậu, thuỷ văn của ĐBBK đã không cho phép chỉ tưới tiêu<br />
bằng trọng lực đơn giản. Phương pháp này “đã không giải quyết đầy đủ được một trong hai vấn đề<br />
tưới hoặc tiêu”, đem lại “kết quả kém” và “hạn chế” [4;95-96].<br />
- Có nguồn tài chính lớn để giải quyết những vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBK (sữa chữa, khôi phục<br />
129<br />
<br />
Hồ Công Lưu<br />
<br />
các công trình đã có, xây dựng các công trình mới, trang bị cơ sở vật chất, máy móc, kĩ thuật cho<br />
công tác thuỷ lợi, v.v. . . ) Tất nhiên, đầu tư, xây dựng cho thuỷ lợi phải luôn đi liền với công tác<br />
quản lí và bảo vệ nó.<br />
Rõ ràng, vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, trong điều kiện hoàn cảnh lịch<br />
sử mới, vấn đề thuỷ lợi ở ĐBBK được đặt ra đòi hỏi phải giải quyết theo yêu cầu mới cao hơn so<br />
với thời kì trước. Vậy chính quyền thực dân Pháp đã giải quyết những yêu cầu đó như thế nào trên<br />
phương diện khoa học kĩ thuật thuỷ lợi?<br />
<br />
2.2.2. Tiến bộ về khoa học kĩ thuật thuỷ lợi ở đồng bằng Bắc Kì<br />
- Quy hoạch thủy lợi ở đồng bằng Bắc Kì: Năm 1884, triều Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt<br />
thừa nhận quyền thống trị của thực dân Pháp. Từ đó, với chức năng của nhà nước thống trị, thực<br />
dân Pháp trực tiếp nắm quyền điều hành công việc thuỷ lợi trong cả nước. Năm 1887, triều Nguyễn<br />
còn cam kết cụ thể hơn việc trao mọi quyền hành, kể cả quyền giải quyết vấn đề thuỷ lợi ở Bắc Kì<br />
cho thực dân Pháp: “Từ nay phàm có gặp ruộng lúa tổn hại và đê lỡ ngập, sâu, cát bồi đổi hạng,<br />
cùng hết thảy chi tiêu các việc công ở tỉnh, đều tư trước lên Nha Kinh lược xét thực, rồi thương<br />
lượng với viên Toàn quyền duyệt y, có đủ giấy tờ trả lời, mới được kê khai tư vào bộ xem xét,<br />
không được tư thẳng” [8;6]. Tất nhiên, kế hoạch thuỷ lợi của thực dân Pháp ở ĐBBK nằm trong<br />
tổng thể chính sách, chủ trương về kinh tế nói chung, về nông nghiệp nói riêng của chúng ở Việt<br />
Nam, nhằm phục vụ cho chính sách bóc lột và bình ổn chính trị. Dù muốn hay không, chính quyền<br />
thực dân vẫn phải một mặt kế thừa các biện pháp kĩ thuật thuỷ lợi ở ĐBBK trước đó, đồng thời bổ<br />
sung những tiến bộ của khoa học kĩ thuật thuỷ lợi mới.<br />
Để thực thi điều hành thủy lợi ở Bắc Kì, chính quyền thuộc địa đã cho tiến hành thành lập<br />
những hội đồng như “Thượng hội đồng đê điều” (Commission superieure des digues, 1896), “Uỷ<br />
ban thuỷ nông” (Comité de L,hydraulique agricole, 1904 – 1905). . . Một số dự án, kế hoạch về<br />
thuỷ lợi do các kĩ sư công chính, thuỷ nông nghiên cứu đã được trình bày. Hàng năm, các công<br />
trình thuỷ lợi được xây dựng trên một số địa điểm ở đồng bằng là theo ý tưởng của công sứ các tỉnh<br />
hoặc theo kế hoạch do một số kĩ sư công chính, thuỷ lợi người Pháp lập ra và điều hành [4;97-100].<br />
Sau Sắc lệnh của chính phủ Pháp ngày 18/1/1905 và Sắc lệnh ngày 9/2/1916 về tổ chức Công chính<br />
Đông Dương, ngày 16/5/1916, Toàn Quyền Đông Dương Paul Doumer đã ra Nghị định tổ chức cơ<br />
quan công chính một cách cụ thể hơn trước. Hạt công chính Bắc Kì mới được thành lập chịu trách<br />
nhiệm về mặt chuyên môn trong việc tổ chức xây dựng và quản lí các công trình công cộng, trong<br />
đó có các công trình thuỷ lợi chung của toàn vùng ĐBBK.<br />
Từ năm 1930, chính quyền thực dân có kế hoạch tương đối quy mô, tổng thể. Người Pháp<br />
đã phối hợp với quan lại Việt Nam để thực hiện được các nhiệm vụ thuỷ lợi. Bộ máy tổ chức quản<br />
lí được phân thành các cấp: Toàn xứ Bắc Kì ngoài Hạt Công chính Bắc Kì chính quyền thực dân đã<br />
tổ chức các cơ quan nghiên cứu, theo dõi các vấn đề thuỷ lợi. Ở các tỉnh thành lập Ti Công chính<br />
(Subdivision des traveaux publics) gọi là Ti Công chính Nam Định, Ti Công chính Thái Bình. . .<br />
gồm có một kĩ sư trưởng, một vài nhân viên, chuyên môn người Pháp. Điều đáng ghi nhận dù làm<br />
việc với mục đích hay quyền lợi nào cho chính quyền thực dân thì bản thân họ “đã từng hành nghề<br />
một cách lương thiện, đã giành cho thuỷ lợi ở ĐBBK và một số nơi khác ở nước ta” sự gắn bó vì<br />
ham thích và cả tình yêu, trí thông minh, khả năng mọi sức lực của hoạt động nghề nghiệp của họ”<br />
[3;206]. Ti Công chính chịu sự chỉ đạo của Hạt Công chính Bắc Kì và Công sứ tỉnh. Ở các làng<br />
xã, bộ máy tổ chức, quản lí thuỷ lợi dưới triều Nguyễn vẫn được duy trì. Hương hội (Hội đồng tộc<br />
biên, hội đồng lương mục) và lí dịch (Lí trưởng, Phó lí) chịu trách nhiệm tổ chức và điều hành việc<br />
làm thuỷ lợi ở địa phương.<br />
Ngày 28/12/1934, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cải tổ lại cơ quan công chính.<br />
130<br />
<br />