intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường tự nhiên kinh tế xã hội ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế

Chia sẻ: Vương Tâm Lăng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

52
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày về những tác động của biến đổi khí hậu đến các yếu tố liên quan môi trường tự nhiên, kinh tế và xã hội ở huyện Phú Vang như: hệ sinh thái và môi trường, hoạt động kinh tế, đời sống dân cư,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của biến đổi khí hậu đến môi trường tự nhiên kinh tế xã hội ở huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế

  1. TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN MÔI TRƢỜNG TỰ NHIÊN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở HUYỆN PHÖ VANG, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ Lê Thị Nguyện10 Đại học Khoa học Huế 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang ngày càng trở thành một trong những vấn đề thách thức lớn nhất của nhân loại ở thế kỉ XXI và dƣới tác động của BĐKH toàn cầu, Việt Nam cũng đã có những sự biến đổi rõ rệt về các yếu tố khí hậu. Trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ không khí trên lãnh thổ Việt Nam đã tăng khoảng 0,70C, mực nƣớc biển dâng lên khoảng 20cm [1]. Hiện tƣợng Elnino và Lanina ngày càng tác động mạnh mẽ đến Việt Nam và đã gây ra nhiều thiệt hại nặng nề. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, Việt Nam nói chung và dải ven biển miền Trung Việt Nam nói riêng là một trong khu vực sẽ bị tác động nghiêm trọng nhất của BĐKH và đây chính là nguyên nhân sẽ gây khó khăn rất nhiều cho công tác xóa đói giảm nghèo, cũng nhƣ việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỉ và sự phát triển bền vững của đất nƣớc [1]. Phú Vang là một huyện thuộc vùng đầm phá, nằm ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế. Phú Vang có một hệ thống thủy văn khá phức tạp, bao gồm cả dòng chảy sông, biển và hệ đầm phá Tam Giang - Cầu hai. Điều kiện tự nhiên này đã tạo cho Huyện một tiềm năng rất lớn về khai thác và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, cũng chính vị trí địa lý này đã khiến Huyện thƣờng xuyên phải gánh chịu những thiệt hại lớn do các yếu tố thời tiết cực đoan gây ra. Ngƣời dân ở đây lại chủ yếu sống dựa vào hoạt động nông nghiệp – thủy sản, nhƣng thu nhập thấp, bấp bênh, trình độ dân trí không cao, sức khỏe thì luôn bị đe dọa..., vì thế Phú Vang đƣợc xem là một trong những huyện của tỉnh Thừa Thiên Huế phải gánh chịu những tác động nặng nề nhất bởi sự BĐKH chung của toàn cầu. 2. NỘI DUNG 2.1. Biểu hiện của BĐKH ở lãnh thổ nghiên cứu Phú Vang có vị trí gần kề trung tâm thành phố Huế, vì thế không có trạm quan trắc Khí tƣợng – Thủy văn nào đƣợc bố trí tại Phú Vang. Do đó, trên cơ sở phân tích nguồn số liệu quan trắc của một số trạm Khí tƣợng – Thủy văn ở Thừa Thiên Huế, sự biểu hiện về BĐKH ở huyện Phú Vang cũng nằm trong phạm vi biểu hiện BĐKH của Tỉnh và những biểu hiện đó đƣợc thể hiện qua các yếu tố sau: 2.1.1. Nhiệt độ không khí Nhiệt độ không khí trung bình năm (TN) từ 1940 đến nay hầu nhƣ không tăng, nhƣng nhiệt độ các tháng mùa hè có xu hƣớng tăng rõ rệt với tốc độ tăng 0,10C/ thập kỉ. Nhiệt độ trung bình mùa đông có xu hƣớng tăng, giảm rõ rệt và các mùa đông rét đậm xuất hiện nhiều hơn trong 30 năm qua với các kỉ lục nhiệt độ tối thấp tuyệt đối thấp hơn so với 30 năm qua. 10 Trƣởng Bộ môn Địa lý Tài nguyên – Môi trƣờng, Khoa Địa lý – Địa chất, Đại học Khoa học, Đại học Huế 91
  2. Bảng 1. Sự biến đổi của nhiệt độ qua các thập kỉ ở trạm Huế Đơn vị: 0C Thời kì TN TI TVII Tn TX 1931 – 1940 25,1 19,8 29,0 8,8 (1933) 39,9 (1936) 1941 – 1950 25,3 20,8 29,3 11,8 (1949) 39,3 (1949) 1951 – 1960 25,2 20,1 29,2 11,1 (1953) 40,0 (1952) 1961 – 1970 25,3 19,9 29,2 11,4 (1964) 40,0 (1969) 1971 – 1980 25,1 20,1 29,3 10,7 (1976) 39,2 (1977) 1981 – 1990 25,1 19,8 29,4 10,7 (1986) 41,3 (1983) 1991 – 2000 25,1 20,2 29,5 9,5 (1999) 39,5 (1998) 2001 - 2010 25,0 19,9 29,1 - - Nguồn [Trung tâm KT-TVTTH] Ghi chú: TN: Nhiệt độ trung bình năm, TI: nhiệt độ trung bình tháng I, TVII: Nhiệt độ trung bình tháng VII, Tn: Nhiệt độ tối thấp tuyệt đối, TX: nhiệt độ tối cao tuyệt đối 2.1.2. Mƣa, lũ Trong gần một trăm năm qua, lƣợng mƣa trung bình năm có sự biến động mạnh. Lƣợng mƣa tăng trong các tháng IX, X, XI và lƣợng mƣa ngày lớn nhất có xu hƣớng tăng rõ, lƣợng mƣa trong các tháng mùa khô giảm dần trong ba thập kỉ gần đây (Bảng 2). Do lƣợng mƣa tăng dần và đặc biệt lƣợng mƣa ngày lớn nhất cũng tăng nên đã gây ra những trận lũ rất lớn, nhƣ trận lũ năm 1959, 1983, đặc biệt lƣợng mƣa ngày 02/ 11/ 1999 là 978mm và lƣợng mƣa tháng 11/ 1999 là 2452mm, đã gây ra trận lũ lịch sử trong 100 năm qua. Bảng 2. Sự biến động của lƣợng mƣa qua các thập kỉ ở trạm Huế Đơn vị: mm Thời kì RN Rtmax Rnmax 1911 – 1920 2817 1568 (11/ 1917) 283 (13/ 10/ 1916) 1921 – 1930 3008 1241 (11/ 1930) 360 (13/ 11/ 1930) 1931 – 1940 2631 1166 (10/ 1932) 433 (25/ 11/ 1939) 1941 – 1950 3230 1547 (10/ 1949) 440 (23/ 10/ 1949) 1951 – 1960 2751 1078 (10/ 1960) 277 (27/ 11/ 1960 1961 – 1970 2824 1792 (10/ 1969) 550 (05/ 11/ 1969) 1971 – 1980 2666 1564 (10/ 1983) 470 (23/ 10/ 1973) 1981 – 1990 2575 1572 (10/ 1983) 582 (10/ 10/ 1981) 1991 – 2000 3093 2452 (11/ 1999) 978 (02/ 11/ 1999) 2001 - 2010 3327,7 1544 (10/ 2007) - Nguồn [Trung tâm KT-TVTTH] 92
  3. RN: Lƣợng mƣa trung bình năm, Rtmax: Lƣợng mƣa tháng lớn nhất, Rnmax: Lƣợng mƣa ngày lớn nhất. 2.1.3. Bão và âp thấp nhiệt đới (ATNĐ) Số cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hƣởng trực tiếp đến Thừa Thiên Huế tăng mạnh trong thập kỉ 70, 80 và có xu hƣớng giảm trong thập kỉ 90 nhƣng cƣờng độ bão lại mạnh hơn. Theo số liệu theo dõi bão từ 1952 đến 2005 (54 năm) đã có 32 cơn bão và ATNĐ ảnh hƣởng đến Thừa Thiên Huế, trong đó có 5 cơn bão mạnh và rất mạnh chiếm tỷ lệ 9,4%, gồm có bão ngày 30/X/1952 vào Huế sức gió cấp 12 (122km/giờ), bão BABS ngày 16/IX/1962: cấp 12(118km/giờ), bão TILDA ngày 22/IX cấp 13 (137km/giờ), bão PATSY ngày 15/X/1973 cấp 11 (104km/giờ) và bão CECIL ngày 16/X/1985 cấp 11 (104km/giờ). Mùa bão ở Thừa Thiên Huế bắt đầu từ tháng V và kết thúc vào tháng XI mỗi năm, trong đó tháng IX chiếm tần suất cao nhất với 31%, sau đó đến tháng X chiếm 19%, còn lại các tháng khác chiếm từ 9,4 đến 12,5%. Trung bình hàng năm có 0,6 cơn bão ảnh hƣởng trực tiếp đến Thừa Thiên Huế, năm nhiều bão nhất là 3 cơn( 1971), năm ít bão nhất không có cơn nào. Tần suất không có bão chiếm trên 50%. [6] Tốc độ gió bão trung bình ở Thừa Thiên Huế là 76 km/giờ tƣơng đƣơng với cấp 9, mạnh nhất có thể lên tới cấp 13 (137km/gi). Theo tính toán thì cứ 10 năm sẽ xuất hiện bão cấp 10 và 20 năm thì mới có bão cấp 12. Từ năm 1991 đến nay chƣa có bão mạnh đổ bộ vào Thừa Thiên Huế. điều này khác với tình hình chung của cả nƣớc. Bên cạnh tác hại do gió mạnh gây ra, bão và ATNĐ còn gây ra lũ lụt do mƣa lớn. Bão kết hợp lũ là hình thế thời tiết rất nguy hiểm gây nhiều thiệt hại nhƣ cơn bão năm 1985 Đƣờng đi của các cơn bão ảnh hƣởng đến TTH từ năm 1954-2005 93
  4. 2.2. Dự báo BĐKH và những thiên tai ở lãnh thổ nghiên cứu Đối với tình hình nƣớc biển dâng thì theo báo cáo lần thứ tƣ của IPCC, ƣớc tính mực nƣớc biển dâng khoảng 26 – 59cm vào năm 2100. Tuy nhiên tính toán của IPCC về nƣớc biển dâng vẫn còn thấp so với số liệu thực đo tại các trạm và ảnh chụp từ vệ tinh. Một số nghiên cứu gần đây cho rằng mực nƣớc biển toàn cầu có thể tăng 50 – 140cm vào năm 2100. Các kịch bản nƣớc biển dâng cho Việt Nam đƣợc tính toán theo kịch bản phát thải thấp nhất (B1), kịch bản phát thải trung bình (B2) và kịch bản phát thải cao nhất (A1). Theo kịch bản này cho thấy vào giữa thế kỉ XXI mực nƣớc biển có thể dâng thêm 28 – 33cm và đến cuối thế kỉ XXI, mực nƣớc biển có thể dâng thêm từ 65 – 100cm so với thời kì 1980 – 1999 [1]. - Đối với tỉnh Thừa Thiên Huế Với kịch bản phát thải trung bình thì đến cuối thế kỉ XXI nhiệt độ trung bình năm ở Thừa Thiên Huế có thể tăng 2,5 – 2,60C, nhƣng sẽ tăng đáng kể trong các tháng I và II, dự đoán từ 2,6 – 2,70C, các tháng VI và VII sẽ tăng từ 2,4 – 2,50C. Lƣợng mƣa trung bình năm có thể tăng 3,16% vào năm 2050, tăng 7,74% vào năm 2100. Lƣợng mƣa tháng VII – VIII có thể giảm 7% vào năm 2050 và giảm 14% vào năm 2100. Ngƣợc lại lƣợng mƣa mùa mƣa (IX – XI) tăng 8% vào năm 2050 và tăng 15% vào năm 2100. Với kịch bản phát thải cao, nhiệt độ trung bình năm có thể tăng 3,90C và trong các tháng III, IV, V có thể tăng 4,70C. Năm 2050 lƣợng mƣa trung bình năm có thể tăng lên 5,1%, lƣợng mƣa tháng IX – XI sẽ tăng 12,3%. Vào cuối thế kỉ XXI, lƣợng mƣa trung bình năm có thể tăng đến 11% và trong tháng IX - XI tăng đến 24,7%, nhƣng trong tháng III – V có thể giảm 23,4%. - Đối với huyện Phú Vang Hiện tƣợng nƣớc biển dâng sẽ tràn qua các cửa biển vào trong phá Tam Giang – Cầu Hai và sẽ tiến sâu vào lục địa. Phú Vang là huyện chiếm diện tích phá lớn nhất, vì thế khi mực nƣớc biển dâng 1m thì toàn bộ khu vực đầm phá thuộc Huyện sẽ trở thành bể nƣớc mặn, nghĩa là mức độ nhiễm mặn ở Huyện sẽ nặng nề hơn các nơi khác (theo tính toán khoảng 8.532ha). Phần lớn lãnh thổ Phú Vang nằm trong tiểu vùng khí hậu 1a, với đặc điểm có số tháng thiếu ẩm nhiều nhất Tỉnh là 6 tháng, tổng lƣợng mƣa năm và tổng lƣợng mƣa từ tháng I – VIII thấp nhất Tỉnh, chịu ảnh hƣởng gay gắt của gió Tây Nam khô nóng. Chính vì thế Phú Vang đƣợc xem là một trong hai huyện có mức độ hạn hán cao nhất Tỉnh. Với những kịch bản BĐKH ở Thừa Thiên Huế, lƣợng mƣa mùa khô (tháng III – V) có thể giảm 7% vào năm 2050 và trên 14% vào năm 2100, làm cho mức độ hạn hán ở Huyện sẽ càng nghiêm trọng hơn. Trong những thập kỉ gần đây, tần suất các cơn bão đổ bộ vào Thừa Thiên Huế có xu hƣớng tăng lên. Trong đó huyện Phú Vang từ năm 1951 đến năm 2000 trung bình mỗi năm có khoảng 0,89 cơn bão so với trƣớc năm 1950 là 0,87 cơn/ năm. Hệ thống sông Hƣơng có diện tích lƣu vực sông lớn nhất Tỉnh, trong đó hơn 80% diện tích đồi núi, độ cao lƣu vực trung bình là 330m, độ dốc trung bình là 28,5%. Thừa Thiên Huế là một trong những vùng có lƣợng mƣa lớn nhất Việt Nam, với lƣợng mƣa trung bình năm của khu vực ven biển thuộc lƣu vực sông Hƣơng khoảng 2.500mm, vùng 94
  5. đầu nguồn khoảng 3.500mm. Bên cạnh đó do địa hình của lƣu vực sông thay đổi đột ngột, từ vùng núi cao ở thƣợng nguồn đổ xuống đồng bằng và ra hệ thống đầm phá, gần nhƣ không có vùng chuyển tiếp nên mùa mƣa có tốc độ dòng chảy càng lớn, gây lũ và ngập lụt trên diện rộng. Huyện Phú Vang gần nhƣ nằm trong lƣu vực sông Hƣơng, lại có diện tích đầm phá lớn và có cửa biển Thuận An nên hằng năm chịu thiệt hại nhiều hơn các khu vực khác trong Tỉnh do từ lũ lụt gây ra. Với kịch bản BĐKH, lƣợng mƣa tăng 15% từ tháng IX – XI vào cuối thế kỉ XXI sẽ gây ra cƣờng độ lũ trên sông Hƣơng ngày càng mạnh hơn và thiệt hại ngày càng nặng nề hơn cho khu vực huyện Phú Vang. 2.3. Những tác động của BĐKH đến các yếu tố liên quan môi trƣờng tự nhiên, kinh tế và xã hội ở huyện Phú Vang 2.3.1. Tác động đến hệ sinh thái và môi trƣờng Hệ sinh thái chủ đạo ở huyện Phú Vang là hệ sinh thái đầm phá và hệ sinh thái ven biển, bao gồm các thảm thực vật tự nhiên, rừng ngập mặn, động - thực vật thủy sinh nƣớc ngọt, nƣớc lợ. BĐKH đang đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của các hệ sinh thái này. - Với kịch bản BĐKH khi nƣớc biển dâng, hiện tƣợng nƣớc mặn sẽ xâm nhập sâu vào đất liền, sẽ phá hủy các trảng cây bụi, trảng cỏ thứ sinh ven biển. Đồng thời khi nhiệt độ tăng cao, mức độ hạn hán, lũ lụt càng nặng nề hơn, làm cho độ mặn trong nƣớc lên xuống đột ngột ảnh hƣởng đến sự tồn tại của các loài động thực vật thủy sinh và một số loài không chịu đƣợc sự thay đổi của các yếu tố sinh thái có thể bị tiêu diệt. Hiện tƣợng nhiệt độ tăng cao cùng với ô nhiễm môi trƣờng nƣớc ngày càng gia tăng sẽ làm suy giảm số lƣợng các loài sinh vật nƣớc lợ, đe dọa đến mật độ đa dạng sinh học của khu hệ đầm phá này [3,4,5]. - Theo thống kê [5], năm 2009 Phú Vang có khoảng 500ha rừng, chủ yếu là phi lao và keo lá tràm, tập trung ở các xã ven biển. Dải rừng này có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ bờ và chắn gío. Diện tích rừng ngập mặn của Huyện cũng rất ít, chỉ còn lại một số mảng ven đầm phá và khu vực nghỉ mát gần cầu Thuận An. Nếu nƣớc biển dâng và nƣớc mặn xâm nhập sâu thì nguy cơ rừng ngập mặn này sẽ bị thu hẹp dần, thậm chí bị phá hủy hoàn toàn. Bờ biển thuộc huyện Phú Vang đã bị xâm thực mạnh mẽ, nhất là ở xã Phú Diên, Vinh Xuân, Vinh An... bãi biển bị thu hẹp dần, nƣớc biển đang tiến vào phá hủy dần dải rừng ngập mặn ven biển. Ngoài ra do hoạt động khai thác cát trên biển đã làm cho bãi biển càng dễ bị xói lở hơn. - BĐKH cũng đã góp phần (gián tiếp) gia tăng mức độ ô nhiễm môi trƣờng nƣớc, suy thoái môi trƣờng đất. Cụ thể tại huyện Phú Vang với hoạt động nuôi trồng thủy sản ở thị trấn Thuận An, xã Phú An, Phú Mỹ, Phú Xuân... nhƣ nuôi tôm chắn sáo, nò sáo với mật độ dày đặc do đặc điểm thủy văn ở đây tƣơng đối khép kín, trao đổi dòng chảy yếu, chủ yếu là ở trạng thái tù đọng. Vì thế khi nhiệt độ tăng cao, hạn hán kéo dài thì lƣu lƣợng dòng chảy ở trong đầm, sông càng giảm mạnh, nồng độ chất hữu cơ sẽ tăng lên, hiện tƣợng phú dƣỡng quá mức sẽ xảy ra càng nghiêm trọng hơn. Đối với môi trƣờng đất, từ việc làm giảm sản lƣợng lúa, dịch bệnh xuất hiện nhiều hơn nên nông dân phải tăng cƣờng sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, điều này đã làm cho môi trƣờng đất bị ô nhiếm. Ngoài ra, hiện tƣợng hạn hán và ngập lụt kéo dài cũng đã làm gia tăng mức độ suy thoái môi trƣờng đất. Khi bị hạn hán, độ ẩm trong đất giảm mạnh, các keo Fe và keo Al bị mất nƣớc tạo thành các oxit có liên kết vững chắc, nguy cơ hình thành các khối đá ong, điều này sẽ ảnh hƣởng đến canh tác. Còn khi lƣợng mƣa tăng, sẽ gây ngập úng trong thời gian dài và sẽ làm biến đổi tính chất đất. Đồng thời, do ven vùng đầm phá 95
  6. thƣờng đƣợc che phủ bởi các trảng cỏ có bộ rễ yếu nên khi lƣợng mƣa tăng, kéo dài, lũ lụt xảy ra thì lớp đất ở khu vực này rất dễ bị xói lở, sạt lở 2.3.2. Tác động của BĐKH đến hoạt động kinh tế a. Đối với ngành nông nghiệp – thủy sản: Đây là ngành sản xuất chính của huyện Phú Vang, chiếm gần 45% GDP của Huyện và thu hút gần 89% lao động. Tuy nhiên đây cũng là ngành chịu tác động trực tiếp rất lớn của BĐKH [3,4,5]. - Hoạt động khai thác thủy sản tập trung ở các xã Phú Thuận, Thuận An, Phú Hải, Phú Diên, Vinh Thanh, Vinh An. Khai thác thủy sản của Huyện chủ yếu là khai thác trực tiếp trên biển chiếm 96% sản lƣợng đánh bắt, còn khai thác trên sông, vùng đầm phá chỉ chiếm 4% [5]. Tuy nhiên phƣơng tiện khai thác còn lạc hậu, các trang thiết bị liên lạc của các thuyền còn thô sơ, nên mỗi khi có bão xuất hiện, huyện Phú Vang là một trong những huyện bị thiệt hại lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ năm 1951 đến nay, tần suất các cơn bão đổ bộ vào Thừa Thiên Huế ngày càng tăng, trong đó huyện Phú Vang là một trong những huyện bị tổn thất rất nặng nề về ngƣời và tài sản, nhất là đối với những gia đình sống ven vùng đầm phá và có thuyền khai thác thủy sản trên biển. - Hoạt động nuôi trồng thủy sản của Huyện chủ yếu là nuôi trong môi trƣờng nƣớc lợ, chiếm 91% diện tích nuôi thủy sản, nghĩa là nuôi trồng thủy sản nƣớc ngọt chỉ chiếm 9% và hiện đang thu hẹp dần diện tích do mức độ xâm nhập mặn ngày càng tăng bởi nƣớc biển dâng và nhiệt độ tăng cao. Trong 20 năm gần đây, từ 1991 – 2009, do thiên tai và dịch bệnh liên tục xảy ra, các đợt hạn hán nghiêm trọng năm 1991, 1994, 1997... làm nguồn nƣớc bị nhiễm mặn nên tôm chết hàng loạt. Bình thƣờng nƣớc ở vùng đầm phá thuộc Huyện thƣờng bị nhiễm mặn vào tháng V – VII, nhƣng những năm gần đây tình trạng này xảy ra ngày càng sớm, nhƣ năm 2009, 2010 mới tháng III mà nguồn nƣớc đã bị nhiễm mặn nặng khiến cho tôm sú chết sạch. Đặc biệt với trận lũ lịch sử năm 1999, 90% hộ nuôi trồng thủy sản đã bị thiệt hại nặng nề. Cơn bão năm 2006 đã cuốn trôi 82 lồng cá, 24,1 tấn tôm, 216,6 tấn cá và 691 vạn con cá giống. Trận bão 2009 đã cuốn trôi 43 lồng bè cá, 17,2 tấn tôm, 204,9 tấn cá và 631,8 vạn con cá giống. Ngoài ra dịch bệnh từ năm 2002 – 2005 đã làm cho các hộ nuôi tồng thủy sản điêu đứng, nhiều gia đình mất trắng, nợ nần chồng chất đến nổi không thể mua con giống để nuôi trở lại, nghĩa là tình trạng tái nghèo lại xuất hiện với họ [3,4,5]. - Hoạt động nông nghiệp ở huyện Phú Vang chủ yếu trồng lúa, hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày và tập trung ở các xã phía Bắc và phía Tây của Huyện. Vì thế nếu mực nƣớc biển dâng thêm 1m thì diện tích đất nông nghiệp sẽ không bị ảnh hƣởng nhiều nhƣng do tình trạng nƣớc biển dâng và nhiệt độ tăng cao làm cho đất canh tác và nguồn nƣớc tƣới bị nhiễm mặn, vì thế sẽ ảnh hƣởng đến năng suất và sản lƣợng thu hoạch. Theo dự báo đến năm 2050 nhiệt độ không khí trung bình năm ở Thừa Thiên Huế tăng 1,40C, lƣợng mƣa từ tháng III – V sẽ giảm xuống 5 – 8%, kết hợp với nƣớc biển dâng làm cho mức độ nhiễm mặn sẽ trầm trọng hơn, biên độ mặn trên 4%0 và ăn sâu từ 30 – 40km. Diện tích đất nhiễm mặn sẽ lớn hơn rất nhiều so với 300ha đất đang bị nhiễm mặn nhƣ hiện nay. Ngoài ra lƣợng mƣa trung bình năm tăng khoảng 3,16%, lƣợng mƣa từ tháng IX – XI tăng 8% sẽ làm gia tăng cƣờng độ lũ tiểu mãn, lũ chính vụ và cùng với bão hoạt động sẽ cuốn trôi gia súc, gia cầm và phá hủy mùa màng [3,4,5]. Bão thƣờng kèm theo mƣa lớn, gây lũ lụt trong vùng đã cuốn trôi gia súc, gia cầm. Trận bão năm 2006 hoạt động nông nghiệp ở huyện Phú Vang đã bị thiệt nặng nề, cụ thể có 143 con gia súc và 21.046 con gia cầm chết, làm mất 9ha sắn, 28ha khoai, 903 tấn 96
  7. nấm rơm, 61,45ha hoa màu, 800 cây ăn quả bị đổ, ngập 263ha lúa nƣớc và mất 101 tấn hạt giống [4]. BĐKH khiến cho dịch bệnh xuất hiện nhiều và dễ lây lan, ảnh hƣởng đến khả năng thâm canh, tăng chi phí sản xuất. Từ năm 2007 đến nay dịch bệnh trên gia súc, gia cầm đã xảy ra liên tục nhƣ dịch lở mồm, long móng, dịch heo tai xanh, cúm gia cầm... đã gây thiệt hại lớn cho hoạt động chăn nuôi của Huyện. Bệnh rầy nâu, cuốn lá, đạo ôn trong những năm qua bùng phát mạnh ở cả hai vụ đã ảnh hƣởng đến năng suất cây lúa rất nhiều. BĐKH còn liên quan đến hiện tƣợng rét kéo dài, đầu năm 2008 trận rét kéo dài 38 ngày đã làm hơn 2.300ha lúa và 200ha mạ bị chết [5]. b. Đối với hoạt động dịch vụ du lịch: Đối với hoạt động này BĐKH tác động ở cả hai mặt, nghĩa là vừa có lợi, vừa gây hại. Nhiệt độ tăng cao là cơ hội khiến cho lƣợng du khách đến các bãi tắm ở biển Thuận An tăng lên. Nhƣng ngƣợc lại, mực nƣớc biển dâng lại làm cho mặt bằng bãi biển bị thu hẹp, thậm chí có nhiễu bãi tắm bị “xóa sổ” nếu mực nƣớc biển dâng cao theo kịch bản A1, B1. Ngoài ra nƣớc biển dâng còn gây xói lở bờ biển, phá hủy mảng rừng ngập mặn, làm mất cảnh quan bãi biển, giảm độ hấp dẫn đối với du khách. 2.3.3. Tác động của BĐKH đến đời sống dân cƣ - Rõ ràng BĐKH đã tác động tiêu cực đến hoạt động nông nghiệp – thủy sản, là nghề chính của phần lớn cƣ dân trong Huyện. Thiên tai xảy ra liên tiếp, ngày càng dữ dội đã khiến nhiều hộ gia đình không thoát đƣợc đói nghèo, nợ nần chồng chất. Cơn lốc ngày 25/ 09/ 1997 với sức gió cấp 10 tràn qua huyện Phú Vang đã phá hủy nhà cửa, cây cối, mùa màng... làm thiệt hại hơn 8 tỷ đồng. Trận lũ năm 1999 đã cuốn trôi 64 căn hộ ở làng Hòa Duân thuộc vùng cồn cát đầm phá, khiến trên 100 ngƣời bị chết và mất tích [3]. - BĐKH cùng với tình trạng khan hiếm nƣớc ngọt do hạn hán kéo dài đã ảnh hƣởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt và hoạt động sản xuất. Ngƣợc lại mùa mƣa lũ đã gây ngập lụt kéo dài, cùng với nhiệt độ tăng đã dẫn tới nguy cơ bùng phát dịch bệnh cho ngƣời cũng nhƣ gia súc, gia cầm. - Cơ sở hạ tầng của Huyện hiện nay vẫn còn thấp kém. Diện tích đê sông, đê biển rất ít, giao thông đƣờng bộ liên thôn, liên xã chủ yếu là đƣờng đất và đƣờng cấp phối, đƣờng nhựa chiếm khoảng 4,8% nhƣng chất lƣợng kém nên rất dễ bị hƣ hỏng khi xảy ra lũ lụt. Do lƣợng mƣa ngày càng tăng, kết hợp với hoạt động của bão càng làm trầm trọng thêm tình trạng ngập lụt trong mùa mƣa, càng gây xói lỡ, sạt lỡ đê bao, phá hỏng cơ sở hạ tầng ven biển, nhƣ cảng Thuận An, bến cá, bến thuyền... Ngoài ra do hệ thống kênh mƣơng chƣa đƣợc nâng cấp nên đã gây khó khăn cho việc cung cấp và tiêu thoát nƣớc, điều này đã làm ảnh hƣởng đến sinh hoạt và hoạt động kinh tế của cƣ dân trong Huyện rất rõ. - Khi mực nƣớc biển dâng, đối tƣợng bị tác động mạnh nhất ở huyện Phú Vang là cộng đồng dân cƣ thủy diện trên đầm phá. Mặc dù các hộ dân thủy diện đã đƣợc đƣa lên bờ để định cƣ, đƣợc vay vốn để nuôi tôm sú, nhƣng kết quả đều bị thất thu do các yếu tố tác động nhƣ trên đã phân tích, vì thế họ phải quây trở lại với sông nuớc, tìm cách đánh bắt thủy sản để kiếm kế sinh nhai, con cái lại không đƣợc học hành, cuộc sống của họ trở nên bấp bênh. Ngoài ra sức khỏe của cƣ dân thủy diện luôn bị đe dọa bởi nguồn nƣớc sinh hoạt của họ không đảm bảo chất lƣợng do chủ yếu lấy từ vùng đầm phá, trình độ dân 97
  8. trí lại rất thấp vì thế tỉ lệ mắc các bệnh liên quan đến đƣờng tiêu hóa chiếm tỉ lệ cao nhất Tỉnh. 3. KẾT LUẬN Phú Vang là một huyện đầm phá, có một hệ thống thủy văn rất phức tạp, kết hợp cả dòng chảy sông, biển và hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Điều kiện tự nhiên này đã tạo cho Huyện một tiềm năng rất lớn về khai thác và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, cũng chính vị trí địa lý này đã khiến cho huyện Phú Vang đƣợc xem là một trong những huyện của tỉnh Thừa Thiên Huế sẽ bị tác động nặng nề nhất bởi sự BĐKH chung của toàn cầu. Nhằm giảm thiểu sự thiệt hại và nâng cao khả năng thích ứng trƣớc sự BĐKH, huyện Phú Vang cần sớm xây dựng và phát triển các mô hình quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng, nâng cao năng lực quản lý thiên tai cho cán bộ địa phƣơng, kiên cố hóa cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống cảnh báo thiên tai, nâng cấp công trình thủy lợi nhằm đảm bảo vấn đề cấp, thoát nƣớc kịp thời, tiến hành quy hoạch lại các vùng nuôi trồng thủy sản ở các xã Phú An, Phú Mỹ, Thuận An là những nơi trực tiếp chịu thiệt hại nặng nề bởi hiện tƣợng nhiệt độ không khí tăng và nƣớc biển dâng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2008), Chƣơng trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu. [2]. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2009), Kịch bản BĐKH và nƣớc biển dâng cho Việt Nam. [3]. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phú Vang (1999), Báo cáo tổng hợp tình hình thiệt hại về nông, ngƣ nghiệp do trận lũ năm 1999. [4]. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phú Vang (2006), Báo cáo tổng hợp tình hình thiệt hại về nông, ngƣ nghiệp do bão năm 2006. [5]. Phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Phú Vang (2009), Báo cáo tổng hợp tình hình thiệt hại về nông, ngƣ nghiệp do bão năm 2009. [6] Nguyễn Việt, Thiên tai ở Thừa Thiên Huế và các biện pháp phòng tránh, Tham luận Hội thảo khoa học về Giải pháp phòng chống thiên tai ở Thành phố Huế năm 2012 98
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2