Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 52, Phần B (2017): 103-112<br />
<br />
DOI:10.22144/ctu.jvn.2017.130<br />
<br />
TÁC ĐỘNG VỀ MẶT TÀI CHÍNH VÀ DỰ ĐOÁN KHẢ NĂNG XUẤT HIỆN DỊCH BỆNH<br />
CỦA MÔ HÌNH NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG THÂM CANH Ở TỈNH SÓC TRĂNG<br />
Nguyễn Thị Kim Quyên, Huỳnh Văn Hiền và Lê Thị Ngọc Anh<br />
Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ<br />
Thông tin chung:<br />
Ngày nhận bài: 16/01/2017<br />
Ngày nhận bài sửa: 15/07/2017<br />
Ngày duyệt đăng: 31/10/2017<br />
<br />
Title:<br />
Impact of diseases on financial<br />
efficiency and probability of<br />
disease occurence of intensive<br />
white leg shrimp farming<br />
model in Soc Trang province<br />
Từ khóa:<br />
Dịch bệnh, kỹ thuật và tài<br />
chính, tôm thẻ chân trắng<br />
Keywords:<br />
Disease, financial and<br />
technical, white leg shrimp<br />
<br />
ABSTRACT<br />
This study was conducted from January 2016 to December 2016 through<br />
interviewing directly 100 shrimp farming farmers, including 50 farmers<br />
who have diseased ponds and 50 farmers who have no diseased ponds in<br />
order to evaluate financial impact of diseases on this model in Soc Trăng<br />
province. Results showed that harvesting productivity of diseased ponds<br />
(1.35±0.96 tons/ha/crop) was much lower than that of another group<br />
(7.75±4.19 tons/ha/crop). The households with disease ponds lost an<br />
average amount of 142±107 million VND/ha/crop, while households with<br />
no desease ponds had an average profit of 465±235 million<br />
VND/ha/crop. Binary logistic model, three factors affecting possibility of<br />
disease occurrence included water level of pond, stocking density, fry<br />
test. The most typical difficulty of the model was shrimp diseases.<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01/2016 đến 12/2016 thông qua<br />
phỏng vấn trực tiếp 100 hộ nuôi tôm thẻ chân trắng (TTCT) thâm canh<br />
gồm 50 hộ có ao tôm không bị bệnh và 50 hộ có ao tôm bị bệnh nhằm<br />
đánh giá tác động về mặt tài chính của dịch bệnh trong mô hình nuôi<br />
TTCT thâm canh ở tỉnh Sóc Trăng. Kết quả nghiên cứu cho thấy năng<br />
suất thu hoạch của những hộ có ao tôm bị bệnh (1,35±0,96 tấn/ha/vụ)<br />
thấp hơn nhiều so với những hộ có ao tôm không bị bệnh (7,75±4,19<br />
tấn/ha/vụ). Những hộ có ao tôm bị bệnh lỗ trung bình 142±107 triệu<br />
đồng/ha/vụ, trong khi những hộ có ao tôm không bị bệnh có lợi nhuận<br />
trung bình là 465±235 triệu đồng/ha/vụ. Qua phân tích hồi quy Binary<br />
Logistic xác định được ba yếu tố ảnh hưởng đến khả năng xuất hiện dịch<br />
bệnh là mực nước ao nuôi, mật độ thả, xét nghiệm con giống. Khó khăn<br />
điển hình nhất của mô hình này vẫn là dịch bệnh.<br />
<br />
Trích dẫn: Nguyễn Thị Kim Quyên, Huỳnh Văn Hiền và Lê Thị Ngọc Anh, 2017. Tác động về mặt tài chính<br />
và dự đoán khả năng xuất hiện dịch bệnh của mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh ở tỉnh<br />
Sóc Trăng. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 52b: 103-112.<br />
1 GIỚI THIỆU<br />
1.1 Đặt vấn đề<br />
<br />
kể. Xuất khẩu thuỷ sản của cả nước năm 2015 ước<br />
đạt 6,7 tỷ USD (Tổng cục Thống kê, 2015). Đồng<br />
bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm hơn 93%<br />
diện tích và đóng góp hơn 82% tổng sản lượng tôm<br />
nuôi của cả nước. Trong đó, diện tích nuôi tôm thẻ<br />
chân trắng (TTCT) đạt 67 nghìn ha, với sản lượng<br />
đạt 245 nghìn tấn (Tổng cục Thống kê, 2015).<br />
<br />
Ngành thuỷ sản Việt Nam ngày càng mở rộng<br />
và có vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế<br />
đất nước. Từ năm 1995 đến nay, sản lượng nuôi<br />
trồng thuỷ sản (NTTS) của cả nước tăng lên đáng<br />
<br />
103<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 52, Phần B (2017): 103-112<br />
<br />
về tác động của dịch bệnh lên hiệu quả tài chính<br />
của mô hình, đề tài “Tác động của dịch bệnh lên<br />
hiệu quả tài chính của mô hình nuôi tôm thẻ<br />
chân trắng thâm canh ở tỉnh Sóc Trăng” được<br />
thực hiện nhằm đánh giá tác động về mặt tài chính<br />
của dịch bệnh trong mô hình nuôi TTCT thâm canh<br />
ở tỉnh Sóc Trăng, tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến<br />
khả năng xuất hiện dịch bệnh trên mô hình nuôi<br />
TTCT thâm canh; từ đó đề xuất một số giải pháp<br />
nhằm hạn chế các tác động của dịch bệnh và nâng<br />
cao hiệu quả tài chính của mô hình nuôi TTCT<br />
thâm canh.<br />
<br />
Sóc Trăng là một tỉnh trong khu vực ĐBSCL,<br />
nằm ở hạ lưu sông Hậu, tiếp giáp biển Đông nên có<br />
lợi thế rất lớn về NTTS. Tỉnh Sóc Trăng có diện<br />
tích mặt nước NTTS là 68,4 nghìn ha, sản lượng<br />
đạt 148,324 nghìn tấn (Tổng cục Thống kê, 2015);<br />
trong đó diện tích nuôi TTCT là 27.146 ha, với sản<br />
lượng đạt 65.900 tấn. Hiện nay, nghề nuôi tôm<br />
nước lợ nói chung và TTCT nói riêng đang gặp<br />
khó khăn do dịch bệnh trên tôm bùng phát mạnh.<br />
Thời tiết biến động và không thuận lợi, nắng nóng<br />
bất thường ở các tỉnh ĐBSCL do đó dịch bệnh tôm<br />
xảy ra ở nhiều vùng nuôi, gây thiệt hại lớn cho<br />
người nuôi. Các bệnh như đốm trắng, đầu vàng,<br />
gan tụy, phân trắng, đỏ thân là các bệnh phổ biến<br />
chưa được kiểm soát tốt. Sóc Trăng là tỉnh bị thiệt<br />
hại lớn do dịch bệnh trên tôm. Năm 2015, diện tích<br />
thiệt hại của tỉnh là gần 14 nghìn ha, trong đó thiệt<br />
hại mất trắng là hơn 11 nghìn ha, chủ yếu là do<br />
bệnh đốm trắng và đỏ thân (Sở Nông nghiệp và<br />
Phát triển nông thôn Sóc Trăng, 2015). Để hiểu rõ<br />
<br />
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
2.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu<br />
Đề tài được thực hiện từ tháng 1/2016 đến<br />
tháng 12/2016, tại huyện Trần Đề và Mỹ Xuyên<br />
(Hình 1). Đây là hai huyện đại diện cho mô hình<br />
nuôi TTCT thâm canh của tỉnh.<br />
<br />
Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Sóc Trăng chỉ địa bàn thu mẫu<br />
(Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng, 2016)<br />
<br />
2.2 Phương pháp thu số liệu<br />
<br />
Số liệu sơ cấp: Được thu thập bằng cách phỏng<br />
vấn trực tiếp các hộ nuôi TTCT thâm canh tại<br />
huyện Trần Đề và Mỹ Xuyên – hai huyện có diện<br />
tích nuôi TTCT lớn của tỉnh - sử dụng bảng câu hỏi<br />
soạn sẵn, chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên<br />
từ danh sách hộ nuôi được cung cấp từ Phòng<br />
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, số liệu<br />
vụ 1 năm 2016. Việc tiếp cận các hộ nuôi được hỗ<br />
trợ bởi cán bộ thủy sản tại huyện được chọn khảo<br />
sát. Theo ý kiến từ cán bộ quản lý và kinh nghiệm<br />
<br />
Số liệu thứ cấp: Các số liệu thứ cấp được thu<br />
thập thông qua các báo cáo, bản tin thuỷ sản của<br />
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Nông<br />
nghiệp và Phát triển nông thôn, các báo cáo định<br />
kỳ, tổng kết hàng năm của các cơ quan chuyên<br />
ngành, Tổng cục Thuỷ sản, Tổng cục Thống kê.<br />
Nội dung thu thập gồm các số liệu về diện tích, sản<br />
lượng, dịch bệnh, thuận lợi, khó khăn của mô hình<br />
nuôi.<br />
104<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 52, Phần B (2017): 103-112<br />
<br />
kỹ thuật chủ yếu giữa hộ nuôi có bệnh và hộ nuôi<br />
không bệnh.<br />
<br />
của người dân, tôm nuôi chỉ được thu hoạch sớm<br />
khi có bệnh và nếu tôm được thu hoạch từ sau 60<br />
ngày nuôi thì hộ nuôi sẽ không bị thua lỗ về mặt tài<br />
chính, do đó, cơ sở để phân chia nhóm hộ có ao<br />
tôm bị bệnh và không bị bệnh sẽ lấy thời điểm thu<br />
hoạch làm mốc để xác định hộ có ao tôm bị bệnh<br />
(thu trước 60 ngày nuôi) và hộ có ao tôm không bị<br />
bệnh (thu hoạch sau 60 ngày nuôi). Tổng cỡ mẫu là<br />
356, sau đó dựa vào tiêu chí thời điểm thu hoạch để<br />
lựa chọn ra 100 hộ, trong đó gồm 50 hộ có ao tôm<br />
không bị bệnh (có thời gian nuôi đến khi thu hoạch<br />
> 60 ngày) và 50 hộ có ao tôm bị bệnh (thời điểm<br />
thu hoạch < 60 ngày nuôi). Các thông tin được<br />
phỏng vấn bao gồm: thông tin chung về chủ hộ<br />
(tên, tuổi, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn,<br />
loại hình, quy mô sản xuất), thông tin về hoạt động<br />
nuôi (diện tích nuôi, số ao nuôi, độ sâu mực nước,<br />
số vụ nuôi, mật độ thả, kích cỡ con giống, thời gian<br />
nuôi, hệ số FCR, tổng sản lượng), thông tin về dịch<br />
bệnh (loại bệnh, diện tích nuôi, diện tích bị thiệt<br />
hại), thông tin về tài chính (chi phí cố định, chi phí<br />
biến đổi, doanh thu, lợi nhuận), những thuận lợi và<br />
khó khăn của mô hình nuôi TTCT.<br />
2.3 Phương pháp xử lý và phân tích số liệu<br />
Số liệu điều tra sau khi thu thập được hiệu<br />
chỉnh, mã hoá và nhập vào máy tính, sử dụng phần<br />
mềm Excel và SPSS 18.0 để xử lý bằng các<br />
phương pháp.<br />
Phương pháp thống kê mô tả: Qua việc tính<br />
toán các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị<br />
lớn nhất, giá trị nhỏ nhất, tần xuất xuất hiện, tỷ lệ<br />
phần trăm. Nhằm mô tả đặc điểm của hộ nuôi, các<br />
thông tin về chủ hộ, thông tin về hoạt động nuôi<br />
TTCT thâm canh.<br />
Phương pháp kiểm định thống kê independent<br />
sample T-test: Dùng để kiểm định sự khác biệt các<br />
giá trị trung bình của một số chỉ tiêu tài chính và<br />
<br />
Phương pháp phân tích hồi qui Binary logistic:<br />
Dùng để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả<br />
năng xuất hiện dịch bệnh trên mô hình nuôi TTCT<br />
thâm canh. Phương trình hồi quy Binary Logistic<br />
như sau:<br />
P(Y=1)/P(Y=0) = e^ bo<br />
<br />
⋯<br />
<br />
Trong đó:<br />
P(Y=1)/P(Y=0): khả năng (xác suất) dịch bệnh<br />
xảy ra (có giá trị từ 0= không có bệnh đén 1= có<br />
bệnh); P(Y=1): Xác suất xảy ra bệnh; P(Y=0): Xác<br />
suất không xảy ra bệnh<br />
Xi : Các biến độc lập.<br />
Bi : Các hệ số.<br />
e : Log của cơ số e (e=2.714)<br />
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1 Những thông tin chung về chủ hộ<br />
Tuổi trung bình của hộ nuôi TTCT là 48,3±12,3<br />
tuổi, chủ yếu là độ tuổi trung niên. Đa số các hộ<br />
nuôi sử dụng lao động gia đình, chỉ có 31% hộ có<br />
ao tôm không bị bệnh và 18% hộ có ao tôm bị<br />
bệnh thuê lao động. Những hộ có ao tôm bị bệnh<br />
thuê lao động nhiều hơn do có diện tích nuôi lớn,<br />
nhiều ao nuôi hơn nên cần nhiều lao động để có thể<br />
chăm sóc và quản lý ao nuôi (Bảng 1). Số năm<br />
kinh nghiệm nuôi tôm trung bình của người nuôi là<br />
10,8±4,15 năm. Kinh nghiệm nuôi TTCT của hộ có<br />
ao tôm không bị bệnh cao hơn so với những hộ có<br />
ao tôm bị bệnh. Tuy nhiên, các chỉ tiêu giữa hộ có<br />
ao tôm bị bệnh và không bị bệnh cũng không quá<br />
khác biệt vì khảo sát này được thực hiện ở cùng<br />
một vùng.<br />
<br />
Bảng 1: Thông tin về tuổi, lao động và kinh nghiệm của các hộ nuôi<br />
Không bệnh<br />
TB±ĐLC<br />
48,7±13,0a<br />
2,16±1,04a<br />
1,94±2,14a<br />
10,7±4,44a<br />
3,72±1,13a<br />
<br />
Nội dung<br />
Tuổi của chủ hộ nuôi TTCT (tuổi)<br />
Số lao động tham gia mô hình (người/hộ)<br />
Số lao động thuê thường xuyên (người/hộ)<br />
Số năm kinh nghiệm nuôi tôm (năm)<br />
Số năm kinh nghiệm nuôi TTCT (năm)<br />
<br />
Có bệnh<br />
TB±ĐLC<br />
47,9±11,5a<br />
2,12±1,12a<br />
4,00±2,28b<br />
10,9±3,89a<br />
3,62±1,14a<br />
<br />
Tổng chung<br />
TB±ĐLC<br />
48,3±12,3<br />
2,14±1,07<br />
2,75±2,38<br />
10,8±4,15<br />
3,67±1,13<br />
<br />
Ghi chú: Có cùng chữ cái trong cùng một hàng thì có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)<br />
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2016)<br />
<br />
Về trình độ học vấn, các chủ hộ có ao tôm<br />
không bị bệnh có trình độ cao hơn các hộ có ao<br />
tôm bị bệnh với 18% số hộ có trình độ đại học/cao<br />
đẳng trong khi có đến 42% hộ có ao tôm bị bệnh có<br />
trình độ cấp 2 (Bảng 2). Trình độ học vấn cao có<br />
thể là một trong những nguyên nhân giúp các hộ<br />
<br />
nuôi dễ dàng tiếp thu và áp dụng các tiến bộ khoa<br />
học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất,<br />
phòng chống dịch bệnh trên tôm nuôi (Nguyễn Thị<br />
Kim Quyên và ctv., 2012; Nguyễn Thị Kim Quyên<br />
và Lê Phương Trúc, 2016).<br />
<br />
105<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 52, Phần B (2017): 103-112<br />
<br />
Bảng 2: Thông tin về trình độ học vấn của chủ hộ<br />
Trình độ<br />
Cấp 1<br />
Cấp 2<br />
Cấp 3<br />
Đại học/Cao đẳng<br />
<br />
Không bệnh<br />
N<br />
14<br />
15<br />
12<br />
9<br />
<br />
%<br />
28<br />
30<br />
24<br />
18<br />
<br />
Có bệnh<br />
N<br />
16<br />
21<br />
9<br />
4<br />
<br />
%<br />
32<br />
42<br />
18<br />
8<br />
<br />
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2016)<br />
<br />
nước trước khi đưa vào ao nuôi (Nguyễn Thanh<br />
Phương và Trần Ngọc Hải, 2004). Diện tích ao<br />
lắng trung bình của hộ có ao tôm không bị bệnh là<br />
2.257±1.320 m2/hộ, cao hơn so với những hộ có ao<br />
tôm bị bệnh (1.874±888 m2/hộ). Ao lắng dùng để<br />
chứa, xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi, nhằm<br />
hạn chế, ngăn ngừa các tác nhân có hại cho ao nuôi<br />
như mầm bệnh, tôm cá tạp. Những hộ có ao tôm<br />
không bị bệnh đã ý thức được tầm quan trọng của<br />
ao lắng nên đã đầu tư nhiều hơn vào ao lắng. Kết<br />
quả khảo sát từ Bảng 3 cho thấy độ sâu ao nuôi<br />
trung bình của hộ có ao tôm không bị bệnh và hộ<br />
có ao tôm bị bệnh tương ứng là 1,46±0,12 m và<br />
1,22±0,22 m. Độ sâu ao nuôi càng lớn thì tôm càng<br />
ít khả năng bị bệnh do tôm có không gian rộng để<br />
sống và hoạt động, không bị chèn ép nhau.<br />
<br />
3.2 Khía cạnh kỹ thuật của mô hình nuôi<br />
TTCT ở tỉnh Sóc Trăng<br />
Quy mô sản xuất của hộ có ao tôm không bị<br />
bệnh nhỏ hơn các hộ có ao tôm bị bệnh. Diện tích<br />
thả nuôi càng lớn thì việc chăm sóc và quản lý gặp<br />
nhiều khó khăn, dễ bị nhiễm bệnh hơn qui mô nuôi<br />
nhỏ. Hơn nữa, diện tích ao nuôi quá lớn sẽ gây khó<br />
khăn cho người nuôi trong khâu chăm sóc và quản<br />
lý sức khỏe tôm nuôi (Phạm Minh Tiến và Trương<br />
Hoàng Minh, 2010). Các chỉ tiêu về tổng diện tích<br />
đất, diện tích mặt nước và diện tích ao thì hộ có ao<br />
tôm không bị bệnh đều nhỏ hơn hộ có ao tôm bị<br />
bệnh. Tuy nhiên, sự khác biệt không có ý nghĩa<br />
thống kê (p>0,05) (Bảng 3). Ao lắng là điều kiện<br />
bắt buộc trong các hệ thống nuôi thâm canh và bán<br />
thâm canh, ao lắng có chức năng giữ nước và xử lý<br />
Bảng 3: Kết cấu hệ thống ao nuôi TTCT<br />
Chỉ tiêu<br />
Tổng diện tích đất của chủ hộ (m2/hộ)<br />
Diện tích mặt nước nuôi TTCT của hộ (m2/hộ)<br />
Diện tích trung bình ao của hộ (m2/ao)<br />
Số ao trung bình của hộ (ao/hộ)<br />
Diện tích ao lắng của hộ (nếu có) (m2/hộ)<br />
Số ao lắng của hộ (ao/hộ)<br />
Độ sâu mực nước (m)<br />
<br />
Không bệnh<br />
TB±ĐLC<br />
11.990±3.966a<br />
9.340±3.212a<br />
3.869±987a<br />
2,50±0,93a<br />
2.257±1.320a<br />
1,04±0,64a<br />
1,46±0,12a<br />
<br />
Có bệnh<br />
TB±ĐLC<br />
13.906±6.571a<br />
10.470±5.173a<br />
3.960±1.151a<br />
2,60±1,14a<br />
1.874±888a<br />
0,98±0,56a<br />
1,22±0,22b<br />
<br />
Tổng (N=100)<br />
TB±ĐLC<br />
12.948±5.485<br />
9.905±4.322<br />
3.913±1.067<br />
2,55±1,04<br />
2.083±1.153<br />
1,01±0,61<br />
1,34±0,22<br />
<br />
Ghi chú: Có cùng chữ cái trong cùng một hàng thì có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)<br />
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2016)<br />
<br />
Hiện nay, TTCT được nuôi quanh năm, nhưng<br />
được thả giống chủ yếu vào tháng 1, 5, 10 dương<br />
lịch theo lịch thời vụ của địa phương và theo thời<br />
tiết. Hộ có ao tôm bị bệnh có thời gian nuôi ngắn<br />
hơn do việc nhiễm bệnh dẫn đến yêu cầu thu hoạch<br />
sớm (34,9±10,2 ngày/vụ) hoặc bỏ ao. Thời gian<br />
nuôi trung bình của hộ có ao tôm không bị bệnh là<br />
83,2±11,1 ngày/vụ, kết quả này gần bằng với kết<br />
quả nghiên cứu của Nguyễn Thanh Long và Huỳnh<br />
Văn Hiền (2014) ở Cà Mau là 87,4±16,4 ngày/vụ<br />
(Bảng 4).<br />
<br />
Những hộ có ao tôm bị bệnh thường thả giống<br />
với mật độ cao hơn (89,4±19,1 con/m2) so với<br />
những hộ có ao tôm không bị bệnh (71,3±19,7<br />
con/m2). Những hộ có mật độ tôm thả cao hơn có<br />
xu hướng dễ bị bệnh hơn do mất cân bằng trong ao<br />
nuôi, thiếu thức ăn dẫn đến dịch bệnh. Nguồn gốc<br />
con giống TTCT chủ yếu là từ các tỉnh miền Trung<br />
(79%) được các trại kinh doanh giống mua về ương<br />
và bán lại cho người dân, số còn lại mua con giống<br />
có nguồn gốc ở ĐBSCL hoặc trong tỉnh.<br />
<br />
106<br />
<br />
Tạp chı́ Khoa học Trường Đại học Cầ n Thơ<br />
<br />
Tập 52, Phần B (2017): 103-112<br />
<br />
Bảng 4: Thông tin về kỹ thuật của mô hình nuôi TTCT<br />
Không bệnh<br />
TB±ĐLC<br />
83,2a±11,1<br />
71,3a±19,7<br />
8,35a±4,49<br />
6,17a±2,16<br />
1,13a±0,11<br />
53,2a±11,6<br />
7,75a±4,19<br />
<br />
Chỉ tiêu<br />
Thời gian nuôi (ngày/vụ)<br />
Mật độ thả (con/m2)<br />
Lượng nước thay (%)<br />
Lượng thức ăn (tấn/ha/vụ)<br />
Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR)<br />
Kích cỡ thu hoạch (con/kg)<br />
Năng suất (tấn/ha/vụ)<br />
<br />
Có bệnh<br />
TB±ĐLC<br />
34,9b±10,2<br />
89,4b±19,1<br />
9,15a±4,23<br />
2,81b±2,21<br />
1,25a±0,46<br />
152b±37,0<br />
1,35b±0,96<br />
<br />
Tổng (N=100)<br />
TB±ĐLC<br />
59,1±26,5<br />
80,3±21,3<br />
8,75±4,36<br />
4,49±2,75<br />
1,19±0,33<br />
102±56,7<br />
4,55±4,41<br />
<br />
Ghi chú: Có cùng chữ cái trong cùng một hàng thì có sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)<br />
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2016)<br />
<br />
là 56,4±29,8 triệu đồng/ha/vụ, thấp hơn những hộ<br />
có ao tôm bị bệnh (65,0±32,8 triệu đồng/ha/vụ),<br />
chiếm lần lượt là 14,0% và 34,2% trong tổng chi<br />
phí, chủ yếu là chi phí khấu hao cho việc đào ao,<br />
hệ thống quạt nước, xây cống, hệ thống cấp nước<br />
và máy bơm.<br />
<br />
Thức ăn cho TTCT hoàn toàn bằng thức ăn<br />
công nghiệp. Lợi thế của TTCT là yêu cầu về đạm<br />
trong thức ăn không cao (25-35%) tôm vẫn tăng<br />
trưởng tốt (Trần Ngọc Hải và Nguyễn Thanh<br />
Phương, 2009). Hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) trung<br />
bình của hộ có ao tôm không bị bệnh là 1,13 thấp<br />
hơn so với những hộ có ao tôm bị bệnh<br />
(1,25±0,46). Nguyên nhân là do sản lượng tôm thu<br />
hoạch được của những hộ có ao tôm bị bệnh là rất<br />
ít so với lượng thức ăn đã bỏ ra. Tuy nhiên, sự khác<br />
biệt này không có ý nghĩa thống kê. Những hộ có<br />
ao tôm không bị bệnh có thời gian nuôi lâu hơn do<br />
đó kích cỡ tôm thu hoạch (53,2±11,6 con/kg) cũng<br />
lớn hơn nhiều so với hộ có ao tôm bị bệnh<br />
(152±37,0 con/kg). Năng suất của hộ có ao tôm bị<br />
bệnh thấp hơn nhiều so với những hộ có ao tôm<br />
không bị bệnh (thiệt hại hơn 6 tấn/ha/vụ), mức thiệt<br />
hại này là rất lớn (Bảng 4) cho thấy dịch bệnh là<br />
nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thua lỗ đối với<br />
những hộ nuôi TTCT ở Sóc Trăng.<br />
3.3 Một số thông tin tài chính của mô hình<br />
nuôi TTCT thâm canh<br />
<br />
Trong các khoản chi phí biến đổi thì chi phí<br />
thức ăn, chi phí giống và chi phí thuốc là ba khoản<br />
chi phí lớn nhất có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu<br />
quả nuôi tôm cũng như chất lượng tôm nguyên liệu<br />
(Lê Xuân Sinh và ctv., 2006). Chi phí thức ăn của<br />
hộ có ao tôm bị bệnh chiếm tỷ lệ 37,5% thấp hơn<br />
so với những hộ có ao tôm không bị bệnh là<br />
58,6%. Hộ có ao tôm không bị bệnh có thời gian<br />
nuôi lâu hơn nên tốn nhiều chi phí thức ăn vào giai<br />
đoạn sau. Đối với những hộ có ao tôm không bị<br />
bệnh thì chi phí thuốc, hóa chất chỉ chiếm 10,4%<br />
còn những hộ có ao tôm bị bệnh chi phí thuốc, hoá<br />
chất chiếm đến 21,7% trên tổng chi phí biến đổi.<br />
Ngoài ra, còn những chi phí khác như chi phí nhiên<br />
liệu, chi phí cải tạo, những khoản chi phí này<br />
chiếm tỉ lệ không lớn so với tổng chi phí biến đổi<br />
(Hình 2).<br />
<br />
Chi phí cố định của hộ có ao tôm không bị bệnh<br />
<br />
(a)<br />
<br />
(b)<br />
<br />
Hình 2: Cơ cấu chi phí biến đổi của hộ nuôi không bệnh (a) và hộ nuôi có bệnh (b)<br />
(Nguồn: Số liệu khảo sát, 2016)<br />
<br />
107<br />
<br />