intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài chính toàn diện và tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo - bằng chứng thực nghiệm tại các nước ASEAN

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

14
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Tài chính toàn diện và tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo - bằng chứng thực nghiệm tại các nước ASEAN trình bày tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo quy mô trong một quốc gia và quy mô các quốc gia; Phân tích thực trạng tài chính toàn diện và đói nghèo tại các nước Asean.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài chính toàn diện và tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo - bằng chứng thực nghiệm tại các nước ASEAN

  1. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 293 TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN TỚI ĐÓI NGHÈO - BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI CÁC NƯỚC ASEAN Trần Thị Thu Hường - Nguyễn Thị Thu Trang - Nguyễn Bích Ngọc Học viện Ngân hàng Tóm tắt Một trong những tác động của tài chính toàn diện mà các quốc gia và khu vực đều quan tâm đó chính là vai trò to lớn mà tài chính toàn diện đem lại giúp xóa đói giảm nghèo. Nghiên cứu phân tích tài chính toàn diện tại các nước Asean thông qua các cấu phần và xây dựng chỉ số tài chính toàn diện dựa trên phương pháp của Sarma (2008). Bên cạnh đó, nghiên cứu phân tích tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo của 8 quốc gia khu vực Asean dựa trên dữ liệu bảng trong giai đoạn 18 năm từ năm 2000 đến năm 2017. Bằng mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên, nghiên cứu cho thấy tài chính toàn diện giúp giảm nghèo tại các quốc gia nghiên cứu. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế, chi tiêu chính phủ cho giáo dục tăng và dân số đông được minh chứng có tác động làm giảm đói nghèo tại các quốc gia nghiên cứu. Từ khóa: Đói nghèo, tài chính toàn diện, Asean FINANCIAL INCLUSION AND ITS IMPACT ON POVERTY - EMPIRICAL EVIDENCE IN ASEAN COUNTRIES Abstract One of the effects of financial inclusion that countries and regions are interested in is the significant role that financial inclusion plays in poverty alleviation. This paper analyzes the current situation of financial inclusion in ASEAN countries through components and building a financial inclusion index based on the method of Sarma (2008). In addition, we analyze the impact of financial inclusion on poverty in eight ASEAN countries based on panel data over the 18-year period from 2000 to 2017. Using a random effects model, the study shows that financial inclusion helps reduce poverty in the researched countries. In addition, economic growth, government spending on education and populations has been shown to have a negative impact on poverty in these countries. Keywords: poverty, financial inclusion, Asean 1. Giới thiệu Tài chính toàn diện là một vấn đề được quan tâm rất lớn ở việt Nam trong giai đoạn gần đây. Tuy nhiên trên thế giới vấn đề này đã được đề cập từ rất sớm từ năm 1995, Leyshon
  2. 294 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán và Thrift (1995) đã xác định “tài chính toàn diện là quá trình một số nhóm xã hội và cá nhân nhất định được tiếp cận với hệ thống tài chính chính thức”. Từ đó đến nay đã có rất nhiều tổ chức quốc tế triển khai phát triển tài chính toàn diện. Cụ thể, tổ chức Liên Hợp quốc (LHQ) đã triển khai các chương trình thông qua Quỹ Đầu tư phát triển LHQ; các nước G20 đã thống nhất bộ nguyên tắc cho tài chính toàn diện, và đây cũng là những trọng tâm của kế hoạch hành động Nhóm G20. Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đã xây dựng các chương trình, dự án để thúc đẩy tài chính toàn diện tại nhiều quốc gia. Có rất nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đã và đang xây dựng khuôn khổ, chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện như Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia,. và bước đầu đạt được những kết quả tích cực. ASEAN coi tài chính toàn diện là một trong ba trụ cột của Tầm nhìn Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) 2025 về hội nhập tài chính và đã thành lập Nhóm công tác về tài chính toàn diện để thúc đẩy lĩnh vực này trong khu vực. Một trong những tác động của tài chính toàn diện mà các quốc gia và khu vực đều quan tâm đó chính là vai trò to lớn mà tài chính toàn diện đem lại giúp xóa đói giảm nghèo. Vai trò này được khẳng định trong nhiều nghiên cứu, điển hình có thể kể đến như: Robinson (2001), Demirguc-kunt và cộng sự (2008), Collins và các cộng sự (2009), Hastak và Gaikwad (2015). Trong đó, nghiên cứu Robinson (2001) chỉ ra rằng, ngoài lợi ích về mặt tiết kiệm thu nhập an toàn và cơ hội vay vốn lớn hơn, tài chính toàn diện cũng mang lại nhiều kết quả tích cực như hạn chế lao động trẻ em và tăng năng suất nông nghiệp từ đó giúp xóa đói giảm nghèo. Demirguc-kunt và cộng sự (2008), Beck và cộng sự (2008) cũng nhận thấy rằng tiếp cận tài chính không chỉ thúc đẩy tăng trưởng mà còn thúc đẩy giảm nghèo cũng như giảm bất bình đẳng thu nhập và cải thiện phúc lợi. Theo các nghiên cứu chuyên sâu về dân tộc học của Collins và các cộng sự (2009) được thực hiện bằng cách theo dõi 'nhật ký tài chính' của tầng lớp dân nghèo ở Bangladesh, Ấn Độ và Nam Phi, kết quả cho thấy tiếp cận các dịch vụ tài chính phù hợp và giá cả phải chăng giúp người nghèo giảm rủi ro ảnh hưởng từ các biến động kinh tế, cải thiện phúc lợi và trong nhiều trường hợp còn tăng thu nhập. Đồng quan điểm trên, nghiên cứu của Hastak và Gaikwad (2015) đã khẳng định tài chính toàn diện là một công cụ quan trọng đối với rất nhiều quốc gia đang phát triển nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của khu vực có thu nhập thấp; qua đó, góp phần xóa đói, giảm nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế. Như vậy tài chính toàn diện đã được các nghiên cứu chứng minh có tác động tích cực đến giảm đói nghèo, tuy nhiên mức độ của tác động này không giống nhau giữa các quốc gia và khu vực, còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố của mỗi nền kinh tế. Nghiên cứu của Park (2018) cho thấy tại các nền kinh tế có thu nhập cao và trung bình cao, tài chính toàn diện tác động mạnh tới giảm đói nghèo, còn tác động như vậy tại các nước có như thập thấp và trung bình thấp thì không có. Ở Việt Nam xóa đói giảm nghèo vẫn đang là mục tiêu quan trọng của Đáng và là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đã có nhiều nghiên cứu về tác động của các chương trình tín dụng nông thôn hoặc tác động của tài chính vi mô tới xóa đói giảm nghèo. Điển hình như nghiên cứu của Nguyễn Kim Anh và cộng sự (2011) sử
  3. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 295 dụng số liệu khảo sát điều tra phân tích về tài chính vi mô Việt Nam năm 2011 đã đánh giá và kiểm định được tác động của tài chính vi mô tới giảm nghèo. Nghiên cứu của Mai Thị Hồng Đào (2016) xem xét tác động của tài chính vi mô đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam thông qua số liệu của khảo sát mức sống dân cư 2012 (VHLSS 2012). Kết quả chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nghèo gồm: độ tuổi quy mô hộ, tỷ lệ phụ thuộc, tổng tài sản, tín dụng vi mô và khu vực. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của nhóm tác giả vẫn chưa có nghiên cứu về mức độ tác động của tài chính toàn diện tới giảm đói nghèo tại Việt Nam. Trong khi đó, kế hoạch chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đã đưa ra mục tiêu rất cụ thể hướng tới đối tượng là những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội. Chính vì vậy, nghiên cứu nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo tại các nước ASEAN; từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam. Bài nghiên cứu được thực hiện như sau: phần 2 tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo quy mô trong một quốc gia và quy mô các quốc gia. Phần 3 phân tích thực trạng tài chính toàn diện và đói nghèo tại các nước Asean. Phân tích tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo tại các nước Asean được trình bày tại phần 4. Cuối cùng phần 5 rút ra một số kết luận sau quá trình nghiên cứu. 2. Tổng quan nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo Nghiên cứu về tài chính toàn diện và đói nghèo tại Peru trong khoảng giai đoạn 2008 – 2010, Schmied và Ana (2016) chỉ ra rằng tài chính toàn diện thực sự có tác động giảm thiểu một số chỉ số phản ánh mức độ nghèo khó. Cụ thể, Viện thống kê và thông tin quốc gia Peru đã chỉ ra ba cách thức đo lường mức độ nghèo khó bao gồm tỷ lệ người nghèo, chỉ số về khoảng cách độ nghèo và chỉ số giảm nghèo. Tuy nhiên, mỗi chỉ số lại có những ưu và nhược điểm khác nhau, và trong phạm vi nghiên cứu này cả ba chỉ số đều được sử dụng để phản ánh rõ nét nhất bức tranh tổng thể về đói nghèo tại Peru. Thứ nhất, đối với chỉ số tỷ lệ người nghèo phản ánh tỉ lệ dân số không có đủ thu nhập để chi trả cho nhu cầu lượng thức ăn tối thiểu bình quân một ngày, hay nói cách khác là dưới chuẩn nghèo. Đây được coi là hệ số trực quan nhất có thể phân loại và phản ánh được đối tượng người nghèo trong xã hội. Song, theo Schmied và Ana (2016), mức độ nghèo của mỗi khách hàng là khác nhau; do đó, nếu chỉ sử dụng tỷ lệ người nghèo để đánh giá thì chưa phản ánh được thực chất mức độ nghèo của người dân. Vì vậy, chỉ số về khoảng cách độ nghèo được giới thiệu và đo lường bởi tỷ lệ giữa độ chênh của giá trị rổ hàng hóa cần thiết tối thiểu với thu nhập của người dân so với chính giá trị của rổ hàng hóa. Trong trường hợp thu nhập người dân lớn hơn chuẩn nghèo thì sẽ được loại bỏ ra khỏi đối tượng người nghèo. Cuối cùng, được tính bằng trung bình của các bình phương của chỉ số khoảng cách nghèo, tỷ lệ giảm nghèo được ưa thích sử dụng hơn cả bởi cân nhắc tới sự bất bình đẳng về mức độ nghèo giữa những người trong nhóm này. Quan trọng hơn, mặc dù có các cách thức đo lường khác nhau nhưng chiều tác động của tài chính toàn diện lên các biến này đều giống nhau và cùng mang dấu (-), phản ánh sự gia tăng trong việc cung cấp tín dụng vi mô cho các cá nhân trước đây chưa từng tiếp cận với vốn vay từ bất
  4. 296 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán kỳ tổ chức chính thức nào sẽ giúp giảm thiểu mức độ đòi nghèo tại Peru. Tuy nhiên, sự tác động này chưa có nhiều ý nghĩa thống kê. Cũng sử dụng dữ liệu thu thập được từ khảo sát để phân tích tác động của tài chính toàn diện lên mức độ giảm đói nghèo như Schmied và Ana (2016); tuy nhiên, thay vì sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu bảng, Hussaini và Chibuzo (2018) đã sử dụng kĩ thuật mô hình đường dẫn PLS, và đặc biệt đo lường tài chính toàn diện cũng như mức độ giảm nghèo thông qua một bộ hệ thống câu hỏi khảo sát. Ví dụ, yếu tố tài chính toàn diện được đo lường thông qua các câu hỏi theo thang đo Likert về mức độ tiếp cận và vay vốn, nguồn vốn tín dụng, giá trị cấp tín dụng; mức độ hiểu biết của khách hàng về các sản phẩm, dịch vụ tài chính gồm tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm và thanh toán; mức độ thuận tiện trong việc tiếp cận tới tổ chức tài chính chính thức gần nhất; khoảng cách từ nơi khác hàng sinh sống đến máy rút tiền tự động gần nhất; sự minh bạch thông tin về các lần giao dịch của khách hàng và sự cải thiện trong chất lượng của dịch vụ sau các buổi gặp mặt trao đổi trực tiếp với khách hàng. Các dữ liệu khảo sát sau khi thu thập sẽ được phân tích và chỉ ra rằng tài chính toàn diện thực sự có tác động rõ nét và giảm thiểu tỷ lệ giảm nghèo tại Nigeria. Thay vì sử dụng bộ ba chỉ số hay nhiều biến số để phản ánh mức độ đói nghèo tại một quốc gia như Schmied và Ana (2016) và Hussaini và Chibuzo (2018), Amadou (2018) chỉ tập trung vào định nghĩa đói nghèo thông qua khai thác tỷ lệ dân số sống dưới mức chuẩn nghèo trong mối quan hệ với tài chính toàn diện tại Mali và ba quốc gia gồm Bangladesh, Bolvia và Nigeria. Tuy nhiên, giống với nghiên cứu trước đó, Amadou (2018) cũng nhận định tài chính toàn diện là một trong các phương pháp hiệu quả nhất để giảm đói nghèo. Cụ thể, tài chính toàn diện sẽ giúp cho các hộ gia đình có thêm cơ hội được tiếp cận với nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống. Minh chứng cho khẳng định này, Amadou đã tiến hành phân tích kết hợp giữa dữ liệu của Bangladesh, Bolvia và Nigeria với dữ liệu khảo sát thu thập được tại Mali từ 235 người trả lời trong giai đoạn từ 1992 đến 2015. Kết quả phân tích mô hình chỉ ra rằng tỉ lệ tín dụng nội địa cung cấp bởi khu vực tài chính trên GDP có tác động tích cực đến giảm thiểu tỷ lệ nghèo tại Mali. Cũng sử dụng tỷ lệ người nghèo làm biến đại diện cho mức độ đói nghèo; tuy nhiên, thay vì chỉ nghiên cứu tác động của tài chính toàn diện tại một hay vài quốc gia, Ibrahim, Manu, Adamu, Jediel, Kasima, Hajara và Yusrah (2019) đã mở rộng quy mô dữ liệu nghiên cứu đến 49 quốc gia châu Phi thuộc khu vực miền Nam sa mạc Sahara trong giai đoạn 1980 đến 2017. Kết quả thu được từ mô hình hồi quy dữ liệu bảng một lần nữa khẳng định tài chính toàn diện là một công cụ hữu hiệu cho giảm nghèo tại các nước châu Phi cận sa mạc Sahara. Cụ thể, các yếu tố đại diện cho tài chính toàn diện như mức độ tiếp cận tiết kiệm, tín dụng và máy rút tiền tự động đều có tác động làm giảm tỷ lệ đói nghèo với tỷ lệ giải thích lần lượt là 32.5%, 11.7% và 27.4%. Điều này cho thấy: tiếp cận tài chính toàn diện tăng lên đồng nghĩa với việc những người nghèo sẽ có nhiều động lực hơn để sử dụng các sản phẩm tài chính từ các tổ chức chính thức trong việc đầu tư vào hoạt động kinh doanh và nâng cao thu nhập. Cùng năm nghiên cứu, Inouse và Takeshi ( 2019) đã nghiên cứu tại Ấn Độ với việc sử dụng
  5. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 297 mô hình GMM cho dữ liệu bảng của 25 khu vực của Ấn Độ trong vòng 7 năm từ năm 1973 đến năm 2004. Với biện phụ thuộc là tỷ lệ đói nghèo, biến phụ thuộc là chỉ số tài chính toàn diện, mức độ phụ thuộc tài chính, biến tương tác, bộ biến kiểm soát cho các ngân hàng khu vực công và tư nhân. Chỉ số FI được đại diện bởi số lượng chi nhánh ngân hàng, số tài khoản ngân hàng. Kết quả thu được từ mô hình hồi quy dữ liệu bảng cho thấy mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và tỷ lệ đói nghèo. Tương tự với Ibrahim và cộng sự, nghiên cứu của Tri Gunarrsih và cộng sự (2018) đã chỉ ra mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và xóa đói giảm nghèo ở Indonesia. Nhóm tác giả chỉ ra rằng tài chính toàn diện có đóng góp quan trọng trong việc cải thiện tình trạng xóa đói giảm nghèo. Dựa trên Khảo sát từ khóa của Ngân hàng Thế giới (2010), chỉ 49% hộ gia đình Indonesia có tiếp cận các tổ chức tài chính chính thức, trong khi Ngân hàng Trung ương Indonesia-Ngân hàng Indonesia (BI) dựa trên khảo sát bảng cân đối hộ gia đình (2011) cho thấy chỉ 48% hộ gia đình tiết kiệm tiền của họ trong các tổ chức tài chính chính thức và các tổ chức phi tài chính. Nghiên cứu chỉ ra vai trò của FI trong việc giảm nghèo, kể từ khi số lượng trung bình của mô hình tăng trưởng nghèo đang giảm. Tỷ lệ tăng trưởng bán nghèo hàng năm từ tháng 3 năm 2012 đến tháng 9 năm 2017 là -0,81%. Con số ở thành thị là -0,30% và ở nông thôn là -1,11%. Những điều này cho thấy rằng vai trò của FI trong cải thiện xóa đói giảm nghèo tại Indonesia. Cụ thể, các chỉ số tài chính toàn diện và số lượng người nghèo tương quan đáng kể là số lượng máy ATM trên 100 nghìn người lớn, số lượng chi nhánh ngân hàng trên 1, 000 km2, số lượng máy ATM trên 1, 000 km2, số tiền của tài khoản thứ ba trên 1.000 người lớn, số lượng chi nhánh ngân hàng, số máy ATM, số tài khoản tín dụng. Trong khi hai chỉ số khác không có tương quan là số chi nhánh ngân hàng trên 100 nghìn người lớn và số tài khoản tín dụng ( tài khoản tiền vay) trên 1,000 người lớn. Điều này cho thấy rằng tài chính toàn diện càng cao thì tỷ lệ nghèo đói càng thấp. Đồng quan điểm trên, trong nghiên cứu của Anthony E.Ageme và cộng sự (2018) cũng chỉ ra mối quan hệ của FI và xóa đói giảm nghèo tại Nigeria. Trong nghiên cứu này, mục tiêu của nhóm tác giả là xác định hiệu quả của tài chính toàn diện tác động đến vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Nigeria. Dữ liệu được thu thập từ nguồn thứ cấp. Nghiên cứu có ba mươi hai quan sát bao gồm tài chính toàn diện hàng quý dữ liệu từ năm 2009 đến 2014 (2009Q1: 2014Q4) được đối chiếu từ ngân hàng trung ương Nigeria. Hơn nữa, nghiên cứu này lựa chọn thông số khả năng tiếp cận tài chính, dựa trên khách quan về công nghệ tài chính đổi mới và các kênh dựa trên ngân hàng khác nhau để tiếp cận tài chính. Những phát hiện tiết lộ rằng máy rút tiền tự động, kênh gửi tiền và kênh tín dụng ngân hàng ở khu vực nông thôn có tác động tích cực đáng kể trong việc giảm nghèo, trong khi kênh ngân hàng trực tuyến / internet và tín dụng tài chính vi mô tác động tiêu cực đến nghèo đói giảm. Các tác động tiêu cực được gán cho kênh ngân hàng internet có thể không được kết nối với trình độ hiểu biết thấp đặc biệt là trong cộng đồng ngân hàng. Các kết quả kiểm tra hợp nhất Johansen cho thấy sự tồn tại của trạng thái cân bằng dài hạn.
  6. 298 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán Nghiên cứu của Park và cộng sự (2015) khi nghiên cứu về Tài chính toàn diện, đói nghèo và bất bình đẳng tại các nước đang phát triển khu vực Châu Á. Sử dụng chỉ số tài chính toàn diện cho 37 nền kinh tế châu Á đang phát triển phần làm biến phụ thuộc và kiểm tra tầm quan trọng của các biến hồi quy khác nhau, theo sau hồi quy Honohan (2008). Nhóm tác giả kiểm tra tác động của việc tài chính toàn diện, cùng với việc khác kiểm soát các biến, về nghèo đói và bất bình đẳng thu nhập. Kết quả cho thấy thấy rằng tài chính toàn diện giảm đáng kể nghèo đói; và cũng có bằng chứng cho thấy giảm bất bình đẳng thu nhập. Trên các thông số kỹ thuật, tác giả đã thêm các biến khác được Honohan (2008) sử dụng vào các biến hồi quy của tỷ lệ nghèo và cũng đã thêm thông số kỹ thuật với thời hạn tương tác giữa thu nhập bình quân đầu người và tài chính toàn diện cũng như tốc độ tăng trưởng và pháp trị. Một số nền kinh tế đã bị loại bỏ khỏi dự toán do không có sẵn dữ liệu. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp thêm bằng chứng cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa tài chính toàn diện và tỷ lệ đói nghèo thấp hơn. Trái ngược với các nghiên cứu trên, nghiên cứu của Simon Neaime (2019) khi nghiên cứu về tài chính toàn diện và sự ổn định tại các nước khu vực Trung Đông lại cho một kết quả ngược lại. Nghiên cứu này Sử dụng dữ liệu Bảng điều khiển, mô hình kinh tế lượng GMM và GLS, và một mẫu gồm 6 quốc gia MED (Algeria, Ai Cập, Jordan, Lebanon, Morocco và Tunisia) trong giai đoạn 2002- 2018. Dữ liệu được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, tùy thuộc vào tình trạng sẵn có. Dữ liệu cụ thể cho số lượng Máy rút tiền tự động (ATM) và ngân hàng thương mại trên 100.000 người trưởng thành cho mỗi quốc gia được lấy từ cơ sở dữ liệu Khảo sát truy cập tài chính của quỹ tiền tệ (IMF). Các biến khác cho mỗi quốc gia được thu được từ cơ sở dữ liệu phát triển tài chính toàn cầu và Phát triển thế giới Các quốc gia MED đang được điều tra là: Ai Cập, Tunisia, Algeria, Morocco, Jordan và Lebanon. Tốc độ tăng trưởng của nghèo đói được xây dựng bằng cách sử dụng chênh lệch log của tỷ lệ nghèo đói ở mức nghèo quốc gia. Điều quan trọng là chỉ ra rằng mô hình không phải là hàm của thời gian và các biến chỉ thay đổi giữa các quốc gia. Tất cả các biến sẽ dựa trên giá trị trung bình của chúng giữa năm 2002 và 2018. Sử dụng ước tính Least Square (GLS) cho các mô hình tuyến tính trong bối cảnh dữ liệu bảng, kết quả thực nghiệm đã chỉ ra rằng tài chính toàn diện làm giảm bất bình đẳng nhưng lại không có ảnh hưởng đáng kể đến nghèo đói. Đưa ra kết luận tương tự, Park và Mercado (2018) khi đánh giá tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo và bất bình đẳng thu nhập của 151 quốc gia đã sử dụng phương pháp phân tích nhân tố chính. Kết quả cho thấy tác động của tài chính toàn diện tới giảm nghèo chỉ đúng với các quốc gia có thu nhập cao và trung bình cao, mà không đúng với các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình thấp, cũng như không tìm thấy mối liên hệ giữa tài chính toàn diện và bất bình đẳng thu nhập. Nghiên cứu về tiếp cận tài chính toàn diện của các nước ASEAN, Lê Thị Khuyên và Bùi Ngọc Mai Phương (2018) đã phân tích thực trạng tiếp cận tài chính toàn diện tại 10 quốc gia ASEAN thông qua các chỉ tiêu như điểm truy cập và mở tài khoản tại các tổ chức tài
  7. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 299 chính, mức độ sử dụng tài khoản, mức độ sử dụng dịch vụ tín dụng, mức độ sử dụng thẻ điện tử, mức độ thanh toán điện tử và mức độ thâm nhập bảo hiểm. Gần đây các nhà nghiên cứu tại Việt Nam cũng quan tâm hơn tới chủ đề về tài chính toàn diện. Các nghiên cứu gần đây như nghiên cứu của Chu Khánh Lân và cộng sự (2018) nghiên cứu về các nhân tố tác động tới tài chính bao trùm, nghiên cứu của Phạm Hoàng Anh và Trần Thị Thắng (2019) về tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu tại Việt Nam về tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo. Hiện đã có một số nghiên cứu gần với chủ đề này như nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ ba cuộc điều tra mức sống của các hộ gia đình tại thời điểm 2004, 2006 và 2008, Chu Minh Hội (2014) chỉ ra rằng tiếp cận tài chính sẽ giúp cho người nghèo gia tăng thu nhập của hộ. Cụ thể, theo như tác giả, tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ tài chính đồng nghĩa với việc người nghèo có thêm cơ hội để đầu tư vào giáo dục, sản xuất, kinh doanh. Do đó, kích thích sự tăng trưởng kinh tế cũng như thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các nhóm người trong xã hội. Bên cạnh đó có nghiên cứu của Nguyễn Kim Anh và cộng sự (2011) và Mai Hồng Đào (2016) đã nghiên cứu về tác động của tài chính vi mô tới giảm nghèo tại Việt Nam. 3. Tài chính toàn diện và đói nghèo tại các nước Asean 3.1 Tài chính toàn diện tại các nước Asean 3.1.1. Tài chính toàn diện thông qua chỉ số cấu phần Theo Ngân hàng Thế giới (WB) “Tài chính toàn diện có nghĩa là các cá nhân và doanh nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng các sản phẩm và dịch vụ tài chính - các giao dịch, thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm - đáp ứng nhu cầu của họ và có mức chi phí hợp lý, được cung cấp theo một cách thức có trách nhiệm và bền vững.”. Khái niệm mà ngân hàng thế giới đưa ra tiếp cận một cách tương đối toàn diện và dễ hiểu. Theo Liên minh Tài chính Toàn diện (AFI). “Tài chính toàn diện là việc cung cấp cho người sử dụng các dịch vụ tài chính sẵn có với mức chi phí hợp lý; làm cho khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính một cách thường xuyên; đưa ra những dịch vụ tài chính được thiết kế phù hợp với nhu cầu của người sử dụng”. Cách tiếp cận trên không chỉ đề cập một cách đa diện, rộng hơn mà nó còn quan tâm đến chất lượng của sản phẩm dịch vụ, quan tâm đến nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính của mọi người dân không chỉ những người có đủ khả năng tiếp cận mà còn cả những người muốn tiếp cận dịch vụ tài chính nhưng khả năng lại hạn chế. Một quan điểm rõ ràng hơn của Tổ chức Hợp tác toàn cầu về Tài chính toàn diện (GPFI) cho rằng “Tài chính toàn diện là một trạng thái mà tất cả mọi người có thể tiếp cận hiệu quả tới dịch vụ tín dụng, tiết kiệm, thanh toán và bảo hiểm từ các nhà cung cấp dịch vụ tài chính. Tài chính toàn diện giúp bộ phận xã hội chưa tiếp cận dịch vụ hoặc đã tiếp cận nhưng không chính thống được tham gia hệ thống tài chính chính thống, qua đó giúp đẩy nhanh quá trình xóa đói giảm nghèo, cải thiện việc làm, cải thiện đời sống và phúc lợi xã hội”. Từ quan điểm về tài chính toàn diện cho thấy tài chính toàn diện có tính chất đa chiều, nó mang đến cho người dân các dịch vụ tài chính chất lượng một cách thuận tiện, mở rộng
  8. 300 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán khả năng tiếp cận cho tất cả các tầng lớp dân cư, đặc biệt là tầng lớp dân cư có thu nhập thấp và tạo cơ hội đồng đều và hạn chế bất bình đẳng trong nền kinh tế. Tài chính toàn diện đã được chứng minh đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính cũng như trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và gia tăng công bằng trong xã hội (Chibba, 2009; Demirgüç -Kunt và cộng sự, 2018; Kumar, 2013; Levine, 2005; Neaime và Gaysset, 2018; Okoye và cộng sự, 2017; Tita và Aziakpono, 2017). Với vai trò được nhận thức ngày càng quan trọng, tài chính toàn diện xuất hiện như một nhân tố cấu thành của 7/17 mục tiêu phát triển bền vững thiên niên kỷ (Demirgüç-Kunt và cộng sự, 2015; Klapper và cộng sự, 2016). Nhiều quốc gia trên thế giới cũng coi tài chính toàn diện là một trong những mục tiêu trung gian cho phát triển và đang tập trung cho mục tiêu này, chính vì vậy có thể thấy tài chính toàn diện đang có xu hướng phát triển nhanh tại hầu hết các quốc gia. Do được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau, tài chính toàn diện có thể được đo lường theo các cách khác nhau, phụ thuộc vào các mục đích nghiên cứu. Trong bài viết này chúng tôi tiến hành đánh giá tài chính toàn diện tại các nước Asean theo ba khía cạnh sau đây: Thứ nhất, khía cạnh về khả năng thâm nhập Cho biết mức độ sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức của người dân, số lượng người sử dụng các dịch vụ ngân hàng càng nhiều thì khả năng tiếp cận tài chính càng cao. Chỉ tiêu được sử dụng để đo lường thành phần 1 là số lượng tài khoản ngân hàng trên 1.000 dân và đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá tài chính toàn diện. Ở mỗi quốc gia có mức độ thâm nhập ngân hàng khác nhau, điển hình như: Malaysia và Thái Lan: Là các quốc gia có số tài khoản ngân hàng cao trên 1.000 người. Tính bình quân trong 1.000 người, mỗi năm Malaysia và Thái lan đạt lần lượt là 2.201,56 tài khoản; 1.421,36 tài khoản; trong đó, Malaysia đạt mức cao nhất vào năm 2013 với 2.490,847 tài khoản. Ở các quốc gia khác có số lượng tài khoản thấp hơn trong 1.000 người (gồm: Campuchia, Indonesia, Lào, Myanmar, Philippine và Việt Nam): Bình quân mỗi năm đạt lần lượt là 198,24 tài khoản; 774,64 tài khoản; 542,56 tài khoản; 162,1 tài khoản; 480,32 tài khoản; 737,24 tài khoản, thấp hơn so với bình quân chung của khối các nước ASEAN. Hiểu cách khác, ở những quốc gia này, cứ 1 người dân thì có chưa đến 1 tài khoản ngân hàng. Trong khi, những con số này ở nhóm quốc gia có số tài khoản ngân hàng cao (gồm: Malaysia và Thái Lan) đều có kết quả cao hơn, vượt trội so với bình quân của cả khối ASEAN, chẳng hạn như Malaysia có kết quả gần gấp đôi. Điều này cũng cho thấy, tốc độ phát triển tài chính toàn diện giữa các quốc gia trong khu vực cũng có sự chênh lệch khá lớn. Thứ hai, khía cạnh về sự sẵn có Khía cạnh này cho biết mức độ sẵn có của các dịch vụ ngân hàng. Chỉ tiêu được sử dụng để đo lường thành phần 2 bao gồm: số lượng máy ATM và số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 dân.
  9. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 301 Hình 1: Số lượng ATMs/ 100.000 người trưởng thành tại nước ASEAN 140 120 100 80 60 40 20 0 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Cambodia India Indonesia Malaysia Myanmar Philippines Thailand Vietnam Nguồn: Worldbank Hình 1 thể hiện số lượng ATMs/ 100,000 người trưởng thành có thể thấy, số lượng ATMs trên 100,000 người tại các nước ASEAN có sự phân hóa rõ ràng. Các quốc gia dẫn đầu có thể kể đến là Thái Lan với tốc độ tăng trưởng rất mạnh khoảng gần 400% từ 30,65 năm 2005 lên 117,28 năm 2017. Những quốc gia có tỷ lệ này thấp nhấp lần lượt là Campuchia và Myanmar lần lượt là 22,06 và 4,4 (năm 2017). Việt Nam chiếm con số thấp hơn so với các nước được so sánh trong khu vực giao động từ 2,89 đến 24,336 năm 2005- 2017, trong khi các quốc gia được đưa ra so sánh đã vượt xa Việt Nam. Hình 2: Số lượng chi nhánh ngân hàng/ 100.000 người trưởng thành tại nước ASEAN 20 18 16 14 12 10 8 6 4 2 0 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Cambodia India Indonesia Malaysia Myanmar Philippines Thailand Vietnam Nguồn: Worldbank Hình 2 thể hiện số lượng chi nhánh ngân hàng, đây là một trong các chỉ tiêu đánh giá một phần độ rộng và độ thâm nhập của hệ thống ngân hàng đến các vùng dân cư trong một quốc gia. Nhìn vào hình 2 có thể thấy, số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người tại Việt Nam chiếm con số thấp hơn so với các nước được so sánh trong khu vực, trung bình là 3.5, trong khi các quốc gia được đưa ra so sánh đã vượt xa Việt Nam. Nhìn chung trong khu vực số lượng chi nhánh ngân hàng tính trên 100.000 người trưởng thành vẫn còn ở mức thấp. Tuy là Myanmar có số lượng chi nhánh ngân hàng tính trên 100.000 người trưởng thành thấp
  10. 302 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán nhất nhưng Việt Nam cũng chỉ hơn Myanmar, Campuchia, lớn hơn Ấn Độ tuy nhiên tỷ lệ chênh lệch không lớn. Thứ ba, khía cạnh về mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng. Hình 3: Tỷ lệ cho vay/GDP ở tại nước ASEAN năm 2000-2017 (%) 140 120 100 80 60 40 20 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Cambodia India Indonesia Malaysia Myanmar Philippines Thailand Vietnam Nguồn: Worldbank Tương tự với tỷ lệ cho vay/GDP, tỷ lệ tiền gửi/GDP tại các nước ASEAN cũng có xu hướng như vậy. Hình 4: Tỷ lệ tiền gửi trên GDP ở các nước ASEAN năm 2000-2017 (%) 140 120 100 80 60 40 20 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Cambodia India Indonesia Malaysia Nguồn: Worldbank Khía cạnh này đo lường sự hữu dụng của hệ thống ngân hàng. Chỉ tiêu được sử dụng để đo lường thành phần 3 là tổng của tỷ lệ tiền gửi và cho vay của hệ thống ngân hàng trên GDP (hình 3 và hình 4). Số liệu cho thấy, chỉ tiêu này ở các quốc gia qua các năm đều có sự tăng trưởng tuy nhiên mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng ở các quốc gia có sự khác nhau khá lớn. Tỷ lệ cho vay/GDP của những quốc gia như Thái Lan, Việt Nam và Malaysia có tỷ lệ bình quân qua các năm khá cao; lần lượt là 124,76%%; 120,79%; 116,36 % so với GDP (năm 2017), tạo khoảng cách rất lớn so với các quốc gia còn lại như Philippines (44,04%), Indonesia (31,41%), Myanmar (21,34%).
  11. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 303 3.1.2. Chỉ sổ tổng hợp về tài chính toàn diện Đo lượng tài chính toàn diện là quá trình đa chiều nên phương pháp tiếp cận đa chiều sẽ phù hợp để xây dựng chỉ số tổng hợp đo lượng mức độ phát triển tài chính toàn diện. Phương pháp đo lường chỉ số tài chính toàn diện- FII (financial inclusion index) lấy ý tưởng theo cách tiếp cận của UNDP về tính toán phát triển chỉ số con người (HDI), chỉ số đói nghèo (HPI), chỉ số phát triển giới (GDI). Tương tự như trong các chỉ số này của UNDP, chỉ số FII được tính bằng cách xây dựng từng chỉ số cấu phần cho mỗi khía cạnh của tài chính toàn diện. Chỉ số tài chính toàn diện là chỉ số phản ảnh nhiều nhất thông tin về khía cạnh tài chính toàn diện. Chỉ số cần có cách tính đơn giản, dễ thực hiện, có thể so sánh được mức độ tài chính toàn diện giữa các quốc gia theo thời gian. Chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp theo cách tính của Sarma (2008) đáp ứng được các tiêu chí này. Cụ thể (i) Được sử dụng để so sánh TCTC giữa các nền kinh tế và giữa các bang / tỉnh trong các quốc gia tại một thời điểm cụ thể; (ii) Có thể theo dõi tiến trình của các sáng kiến chính sách để đưa tài chính vào một quốc gia trong một khoảng thời gian; (iii) Giúp các nhà nghiên cứu để giải quyết các câu hỏi thực nghiệm về mối quan hệ giữa phát triển và TCTC Để đo lường FII chúng tôi sử dụng phương pháp của Sarma (2008) dựa trên 3 khía cạnh cơ bản: mức độ thâm nhập (hay khả năng tiếp cận), sự thuận tiện (hay tính sẵn có) và khả năng sử dụng dịch vụ tài chính. Cụ thể như sau: Khả năng tiếp Tính sẵn có Mức độ sử dụng cận - Tài khoản - Số máy ATM trên 100.000 - Tín dụng ngân hàng trên GDP ngân hàng trên người trưởng thành (%) 1,000 người - Chi nhánh ngân hàng trên - Tiền gửi ngân hàng trên GDP trưởng thành 100.000 người trưởng thành (%) Tất cả các chỉ số đều có nguồn gốc từ Các Chỉ số Phát triển Thế giới của Ngân hàng Thế giới. Tổng cộng dữ liệu của 184 nền kinh tế được thu thập, bao gồm cả các nền kinh tế từ châu Á đang phát triển. Sau đó chúng tôi tính toán chỉ số thứ nguyên, theo đặc điểm kỹ thuật của Sarma (2008) di = wi Trong đó: wi = tỷ trọng của thành phần thứ i Ai = giá trị thực tế của thành phần thứ i Mi = giá trị cao nhất của thành phần thứ i mi = giá trị thấp nhất của thành phần thứ i i là nhân tố của TCTC Điều kiện: 0 ≤ di ≤ 1
  12. 304 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán Với các giới hạn và trọng số được ấn định từ trước, chúng tôi tính được các chỉ số tài chính toàn diện tổng thể của từng quốc gia và so sánh mức độ thành công của mỗi nước trên các khía cạnh khác nhau theo công thức sau: Sau khi tính toàn FII của 184 quốc gia trên thế giới chúng tôi tiến hành lọc ra các nước thuộc khu vực Asean gồm 8 quốc gia thành viên: viên là: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan và Việt Nam. (Brunei và Singapore không có do sự hạn chế trong dữ liệu thống kê). Hình 5: Chỉ số FII của các nước Asean giai đoạn 2000- 2017 0.4 0.35 0.3 0.25 0.2 0.15 0.1 0.05 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Thailand Vietnam Nguồn: Tự tính toán của nhóm tác giả dựa trên số liệu từ World Bank Nhìn vào hình 5 chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng Thái Lan và Malaysia những nước có nền kinh tế phát triển trong khu vực Asean đồng thời là những nước có chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp cao nhất trong khu vực. Các quốc qua có chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp thấp trong khu vực có thể kể đến như Lào, Myanmar và Campuchia. Điều đáng ngạc nhiên là trong khoảng 4 năm trở lại đây nhờ đẩy mạnh phát triển hệ thống tài chính mà Campuchia đã có kết quả vượt bậc, chỉ số tài chính toàn diện đã tăng mạnh từ mức 0,041 năm 2010 lên mức 0,116 vào năm 2017, vượt xa so với Lào hay Myanmar với cùng mức xuất phát điểm năm 2000. So với các quốc gia trong khu vực, Việt nam được xếp hạng khá thấp với chỉ số FII tăng mạnh gấp 3,2 tứ mức 0,035 (2000) lên 0,112 (2017). Nhận định này tương tự kết quả nghiên cứu của Honnohan (2008). Để đạt được chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp cao nhất trong khu vực như vậy là do cả Thái Lan và Malaysia đều có chiến lược tài chính toàn diện từ rất sớm. Điển hình tại Malaysia, chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp của Malaysia tăng đều qua các năm, từ mức 0,1539 (2000) lên 0,256 (2017). Có được điều này là do Chính phủ đã đưa nhiệm vụ về TCTD trong Luật NHTW 2009 và chiến lược tổng thể phát triển khu vực tài chính năm 2011 -
  13. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 305 2020 (Master Plan/Blueprint). Trên cơ sở văn bản pháp luật này, Khuôn khổ TCTD đã được xây dựng với một tầm nhìn rõ ràng và đặt ra các mục tiêu cụ thể. Việc có được một cơ sở pháp luật và sự cam kết của Chính phủ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của chiến lược TCTD ở Malaysia. 3.2 Đói nghèo Về cơ bản, nghèo đói là việc không đủ nguồn lực để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như thực phẩm, nước sạch, chỗ ở và quần áo. Tuy nhiên, khi xã hội càng phát triển thì những nhu cầu thiết yếu ngày một gia tăng, và mở rộng bao gồm cả khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, phương tiện đi lại và thậm chí cả dịch vụ tài chính. Với những tiêu chuẩn nghèo đói thay đổi như vậy, thì khái niệm nghèo đói cũng được chia thành hai ngưỡng “nghèo tuyệt đối” và “nghèo tương đối”. Trong đó, nghèo tuyệt đối đề cập đến những người có thu nhập thấp hơn hẳn so với mức quy định về chuẩn nghèo tại một quốc gia nhất định. Còn nghèo tương đối là những người có thu nhập thấp hơn thu nhập trung bình của một quốc gia ở một tỉ lệ nhất định. Và do thu nhập trung bình của một quốc gia sẽ biến động theo điều kiện kinh tế, nên chuẩn nghèo tương đối cũng sẽ biến động và thay đổi liên tục. Trong thực tế, khi tiến hành nghiên cứu về giảm đói nghèo tại các nước thuộc khu vực Asean, Mirza và cộng sự (2004) đã chỉ ra rằng hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng ngưỡng nghèo tuyệt đối để đánh giá về tình trạng đói nghèo tại các quốc gia nghiên cứu. Chính vì vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu này, mức độ đói nghèo của các quốc gia thuộc khu vực Asean cũng sẽ được đo lường từ khía cạnh nghèo tuyệt đối thông qua chỉ tiêu tỉ lệ đói nghèo (tỉ lệ dân số sống dưới ngưỡng nghèo của quốc gia). Được đánh giá là một khu vực năng động, Asean bao gồm 10 quốc gia thành viên: viên là Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Tuy nhiên, do sự hạn chế trong dữ liệu thống kê về tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo tại Brunei và Singapore, nên nghiên cứu tập trung phân tích dữ liệu người nghèo tại 8 quốc gia còn lại. Hình 6: Tỉ lệ người nghèo tại các quốc gia thuộc khu vực Asean (2000 – 2017) (đ/v:%) 45.00 40.00 35.00 30.00 25.00 20.00 15.00 10.00 5.00 0.00 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippine Thailand Vietnam Nguồn: ADB
  14. 306 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán Dữ liệu từ hình 6 cho thấy trong số các quốc gia được nghiên cứu tại khu vực Asean, tỉ lệ dân số sống dưới ngưỡng nghèo của quốc gia đang có xu hướng suy giảm. Trong đó, Thái Lan là quốc gia chứng kiến tốc độ người nghèo giảm nhanh nhất (từ 42,3% vào năm 2000 xuống còn dưới 1% vào năm 2017). Tiếp sau đó là Philippines với mức độ giảm của tỉ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo của quốc gia trong giai đoạn 2000 – 2017 là 412%. Các quốc gia còn lại cũng có mức độ giảm dao động trong khoảng 70% đến gần 300%. Qua đó cho thấy các quốc gia thuộc khu vực Asean đã rất nỗ lực trong cuộc chiến giảm đói nghèo thông qua gia tăng thu nhập của người dân. Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả cũng khá tương đồng với báo cáo những con số nổi bật của ASEAN (2020) khi khẳng định Thái Lan là một trong những nước có tỷ lệ giảm nghèo ấn tượng. Bên cạnh đó, do giai đoạn nghiên cứu trong báo cáo của ASEAN (2020) là từ 2005 đến 2018, nên Myanmar được nhắc tới là quốc gia có tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo giảm mạnh nhất. Đặc biệt, trong nghiên cứu này, khi so sánh về số tuyệt đối, có thể thấy Malaysia là quốc gia có tỷ lệ nghèo thấp nhất trong số các quốc gia được nghiên cứu tại khu vực Asean. Cụ thể, tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo của Malaysia trong giai đoạn 2000 – 2017 luôn dưới 10%, và liên tục sụt giảm qua các năm. Trái lại, Lào là quốc gia có tỷ lệ người nghèo luôn ở mức cao so với các quốc gia khác (luôn trên 25%), và tốc độ giảm của tỉ lệ này cũng tương đối chậm. Kết quả này cũng hoàn toàn trùng khớp với báo cáo về tỉ lệ người nghèo tại các quốc gia thuộc khu vực Asean do Sumarto và Moselle (2015) thực hiện. Như vậy, có thể thấy các kết luận về tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo tại các quốc gia thuộc khu vực Asean trong nghiên cứu này là hoàn toàn tương đồng với kết quả phân tích được đưa ra bởi các nhà nghiên cứu độc lập và báo cáo của ASEAN. Do đó dữ liệu hoàn toàn đáng tin cậy và là nền tảng tốt để thực hiện các bước phân tích mô hình đánh giá trong phần tiếp theo 4. Tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo tại các nước Asean 4. 1. Phương pháp và dữ liệu mô hình đánh giá tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo tại các nước Asean Để đánh giá tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo tại các nước Asean, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy có dạng như sau: 𝑃𝑂𝑅 𝑖,𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1 𝐹𝐼𝐼 𝑖,𝑡 + 𝛽2 𝐸𝑋𝐸 𝑖,𝑡 + +𝛽3 𝐺𝑂𝑉𝑖,𝑡 + 𝛽2 𝑃𝑂𝑃𝑖,𝑡 + 𝛽2 𝐼𝑁𝐹𝑖,𝑡 + 𝛽2 𝐺𝑃𝐷 𝑖,𝑡 + 𝜃 𝑡 + 𝜀 𝑖,𝑡 Trong đó biến phụ thuộc 𝑃𝑂𝑅 𝑖,𝑡 thể hiện cho đói nghèo của các quốc gia theo các năm, được đo lường thông qua tỷ lệ người dân sống dưới ngưỡng nghèo quốc gia (%). Biến giải thích, 𝐹𝐼𝐼 𝑖,𝑡 , là chỉ số tài chính toàn diện của các quốc gia theo các năm. Chỉ số này được nhóm nghiên cứu tính toán như đã mô tả tại mục 3.1.2. Ngoài ra, mô hình đưa vào các biến kiểm soát để gia tăng khả năng giải thích cho biến phụ thuộc. Các biến kiểm soát bao gồm chi tiêu chính phủ, chi tiêu Chính phủ cho giáo dục, tỷ lệ lạm phát, dân số, tăng trưởng kinh tế. Mô tả về các biến trong mô hình được thể hiện ở bảng 1.
  15. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 307 Bảng 1: Các biến sử dụng trong mô hình Phân loại Biến Mô tả Ký hiệu Biến phụ Tỷ lệ người dân sống dưới ngưỡng nghèo quốc Đói nghèo POR thuộc gia (%) Biến giải thích Tài chính toàn diện Chỉ số Tài chính toàn diện FII Chi tiêu của Chính phủ cho giáo dục trên GDP Chi phí cho giáo dục EXE (%) Chi tiêu chính phủ Chi tiêu Chính Phủ trên GDP (%) GOV Biến kiểm soát Dân số Số dân (triệu dân) POP Lạm phát Tỷ lệ lạm phát (%) INF Tăng trưởng kinh tế GDP bình quân đầu người GDP Giai đoạn nghiên cứu 18 năm và dữ liệu được thu thập theo năm từ năm 2000 đến năm 2017. Nhóm nghiên cứu rất muốn có các dữ liệu cập nhật hơn nhưng hiện dữ liệu liên quan đến tài chính toàn diện do WB cung cấp hiện chỉ đến năm 2017. Dữ liệu nghiên cứu được lấy từ các cơ sở dữ liệu uy tín trên thế giới của WB, ADB bao gồm bộ dữ liệu phát triển thế giới (World development Indicators), dữ liệu về đói nghèo và vốn (Poverty and Equity), dữ liệu về các chỉ số chính của ADB cho các quốc gia. Do dữ liệu đói nghèo của Brunei và Singapore không có poverty line chính thức cả trên dữ liệu quốc gia và dữ liệu WB, do đó 2 quốc gia này cũng bị loại trừ khi nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo của các quốc gia Asean. Như vậy đối tượng nghiên cứu là 8 quốc gia Asean bao gồm: Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thái Lan và Việt nam. Bảng 2: Thống kê mô tả các biến sử dụng trong mô hình Giá trị trung Tên biến Số quan sát Độ lệch chuẩn min max bình Biến phụ thuộc POR 144 19,2114 10,7714 0,01 42,3 Biến giải thích FII 144 0,0917 0,0832 0,0086 0,3551 Biến kiểm soát EXE 144 2,3274 1,6900 0,2564 7,7495 GOV 144 10,2421 3,8658 3,4603 21,3844 POP 144 71,1209 67,3870 5,02 265,27 INF 144 5,0595 4,3778 -1,7 25,1 GDP 144 2402,92 2498,49 110 11140 Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả Với dữ liệu bảng, nghiên cứu lựa chọn mô hình phù hợp giữa các mô hình bình phương nhỏ nhất (Pooled Ordinary Least Squared- POLS), mô hình hiệu ứng cố định (Fixed
  16. 308 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán Effect model- FEM), và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (Random Effect model -REM). Để lựa chọn mô hình phù hợp nhất, nghiên cứu sử dụng kiểm định Breusch-Pagan Lagrange (Kiểm định LM), và Hausman test. Kết quả cho thất mô hình tác động ngẫu nhiên REM là phù hợp. Bảng 3: Kết quả hồi quy theo mô hình OLS, FEM và REM Mô hình Mô hình OLS (1) Mô hình FEM (2) Mô hình REM (3) -44,1265*** -48,7511** -50,3760*** FII (12,8579) (22,3582) (17,63) -0,7251 -2,1455* -1,4372** EXE (0,5299) (1,1332) (0,6973) 0,2034 0,0362 0,0363 GOV (0,175) (0,2977) (0,2386) -0,0379*** -0,03333 -0,0369** POP (0,009) (0,0263) (0,0162) -0,0466 0,064 0,053 INF (0,1493) (0,13) (0,1297) -0,0017*** -0,0013* -0,0012** GDP (0,0005) (0,0007) (0,0005) 30,3573*** 33,9232*** 32,3801*** Constant (2,2022) (3,3215) (3,0435) N 144 144 144 R-square 0,6147 0,5940 0,6035 Prob>F 0,0000 0,0000 0,0000 Số trong ngoặc thể hiện sai số chuẩn của hệ số hồi quy. Ký hiệu ***,**,** thể hiện các mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%. Nguồn: Kết quả tính toán của nhóm tác giả 4.2 Kết quả Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số của biến FII trong mô hình là -50,3760 với mức ý nghĩa 1%, minh chứng về mối quan hệ ngược chiều giữa tài chính toàn diện và đói nghèo. Kết luận này cũng tương đồng với phần lớn kết quả nghiên cứu khi cho rằng nhiều người có thể tiếp cận với các dịch vụ tài chính hơn sẽ giúp người dân tham gia nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế, từ đó giúp giảm đói nghèo (Park và cộng sự, 2015), bên cạnh đó khả năng tiếp cận với tài chính tăng lên sẽ giúp gia tăng đầu tư, tạo công ăn việc làm từ đó gia tăng thu nhập cho xã hội và làm giảm tỷ lệ đói nghèo (Amadou ,2018), hay tài chính toàn diện tăng lên đồng nghĩa với việc những người nghèo sẽ có nhiều động lực hơn để sử dụng các sản phẩm tài chính từ các tổ chức chính thức trong việc đầu tư vào hoạt động kinh doanh và nâng cao thu nhập (Ibrahim và cộng sự 2019) Với các biến kiểm soát, tăng trưởng kinh tế GDP tác động âm và có ý nghĩa thống kê 5% với hệ số tác động (-0,0012) tới đói nghèo, có nghĩa là tăng trưởng kinh tế có tác động
  17. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 309 giúp giảm nghèo. Nhận định này tương đồng với phần lớn các nghiên cứu, như nghiên cứu của Omar (2020) cũng có kết luận tương tự khi cho rằng nền kinh tế phát triển sẽ giúp tạo ra nhiều nhu cầu việc làm hơn, tăng thu nhập thực cho cả các nhân sự có cả kỹ năng thấp, cải thiện chất lượng sống. Bên cạnh đó, hệ thống tài chính phát triển toàn diện, thúc đẩy các cá nhân và họ nghèo đầu tư và quản lý rủi ro tài chính tốt hơn, từ đó giúp giảm nghèo. Hay như nghiên cứu của Mansi và cộng sự (2020) chỉ ra rằng tác động của GDP bình quân đầu người đến đói nghèo là ngược chiều, và có ý nghĩa thống kê. Đặc biệt, tại các quốc gia đang phát triển thì tác động của GDP bình quân đầu người lên tỉ lệ đói nghèo càng rõ nét. Điều này là do sự tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm cũng như nâng cao thu nhập hơn. Chính vì vậy tăng trưởng kinh tế nói chung mà cụ thể là GDP bình quân đầu người sẽ có tác động tích cực đến tỉ lệ đói nghèo tại các quốc gia. Chi tiêu của chính phủ cho giáo dục, EXE, tác động âm và có ý nghĩa thống kê 5% (hệ số tác động -1,4372) tới đói nghèo, có nghĩa là Chính phủ chi tiêu nhiều hơn cho giáo dục sẽ giúp giảm nghèo. Odior (2014) cũng có kết luận tương tự như vậy vì cho rằng Chi tiêu chính phủ cho giáo dục là chính sách giúp gia tăng năng lực và khả năng làm việc của người dân, nhờ đó giúp người dân có được công việc ổn định và thu nhập tốt hơn, nhờ đó giúp giảm nghèo. Jung và Thorbecke (2003) khi nghiên cứu cụ thể tác động của chi tiêu cho giáo dục đối với đói nghèo tại Tanzania và Zambia cũng đưa ra quan điểm tương tự. Theo các tác giả, việc phân phối chi phí cho giáo dục một cách hợp lý sẽ là một công cụ vô cùng hữu hiệu trong công cuộc xóa đói giảm nghèo Kết quả mô hình cho thấy, tuy chi tiêu Chính phủ cho giáo dục, EXE, được minh chứng có tác động ngược chiều đến tỷ lệ đói nghèo nhưng chi tiêu của Chính phủ, GOV, lại tác động dương nhưng không có ý nghĩa thống kê tới đói nghèo. Bên cạnh đó, lạm phát INF cũng chưa được chứng minh có tác động có ý nghĩa thống kê tới đói nghèo. Dân số tác động âm và có ý nghĩa thống kê 5% (hệ số tác động -0,0369) tới đói nghèo, hàm ý quốc gia có dân số càng đông càng có tỷ lệ đói nghèo thấp hơn. Nhận định đi ngược lại với phần lớn các nghiên cứu, điển hình như nghiên cứu của Sinding (2009) khi cho rằng tỷ lệ sinh giảm sẽ giúp tạo cơ hội giúp phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo, vì khi đó sẽ tập trung được nguồn lực để phát triển con người tốt hơn. Hay nghiên cứu của Aktaş và Sevinç (2020) cho rằng sự gia tăng của dân số cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến cho tỷ lệ nghèo đói của quốc gia đó gia tăng. Hay nói cách khác, khi dân số gia tăng quá nhanh, vượt quá khả năng cung ứng thì sẽ làm suy giảm chất lượng cuộc sống khi những nhu cầu tối thiểu về lương thực, giáo dục, y tế, phúc lợi không được đảm bảo 5. Kết luận Nghiên cứu phân tích thực trạng về tài chính toàn diện (qua các cấu phần và chỉ số tổng hợp) và thực trạng về đói nghèo tại các quốc gia Asean. Bên cạnh đó, nghiên cứu tiến hành phân tích tác động của tài chính toàn diện tới đói nghèo tại 8 quốc gia Asean. Một số kết luận được rút ra như sau:
  18. 310 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán Thứ nhất, các quốc gia trong khu vực Asean có mức tài chính toàn diện rất khác nhau. Những quốc gia có mức độ tài chính toàn diện cao nhất bao gồm: Thái Lan và Malaysia; những quốc gia có chỉ số tài chính toàn diện thấp là Campuchia, Myanmar, Lào. Tuy nhiên nhìn chung các nước đều nỗ lực để phát triển tài chính toàn diện do đó chỉ số tài chính toàn diện đều có sự cải thiện qua các năm. Thứ hai, tình trạng đói nghèo các quốc gia trong khu vực Asean ngày càng được cải thiện, thể hiện thông qua tỷ lệ dân số sống dưới ngưỡng nghèo quốc gia có xu hướng giảm trong giai đoạn 2000 - 2017. Nổi bật trong đó phải kể đến Thái Lan và Philippines với mức độ giảm là hơn 4 lần trong toàn bộ thời gian nghiên cứu. Chính vì vậy, tại thời điểm năm 2017, chỉ số đói nghèo tại các quốc gia trong khu vực Asean hầu hết đều dưới 10% (chỉ trừ Lào). Thứ ba, quốc gia có mức độ tài chính tài toàn diện càng cao thì tỷ lệ đói nghèo càng thấp. Nghiên cứu tác động trên cấp độ quốc gia như vậy sẽ giúp các nhà lập và thực thi chính sách trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, hướng tới xóa đói giảm nghèo. Thứ tư, quốc gia có tăng trưởng kinh tế cao và dân số đông có tỷ lệ đói nghèo càng thấp. Tuy chi tiêu chính phủ tăng không được minh chứng có tác động tới đói nghèo nhưng chi tiêu chính phủ cho giáo dục tăng có tác động giảm đói nghèo. Tài liệu tham khảo Amadou, D. (2018). Financial Inclusion and Poverty Reduction: Selected Approaches and Implications for Mali's Choice. Academic Journal of Economic Studies, 4(4), 50-56. Aktaş, M. T. & Sevinç, A. (2020). The Determinants of Poverty in Developing Countries: Theoreticaland Empirical Analysis. Journal of Current Researches on Business and Economics, 10 (2), 225-242. Anthony E, Ageme, C.A. Anisiuba, Felix Chukwubuzo Alio, Hillary Chijindu Ezeaku, J.U.J. Onwumere ( 2018). Empirical assessment of the effects of financial inclusion on poverty reduction in Nigeria, European Journal of economics, finance and administrative sciences Issue 99, August- November, 2018, pp 21-30 ASEAN (2020) ASEAN: Key Figues 2020. Tiếp cận từ https://www.aseanstats.org/wp- content/uploads/2020/11/ASEAN_Key_Figures_2020.pdf Beck, T., Demirgüç Kunt, A &· Levine, R. (2007), Finance, inequality and the poor, Journal of Economic Growth,pp 27–49. Beck, Thorsten, Asli Demirguc-Kunt, and Patrick Honohan (2008) Finance for All? Policies and Pitfalls in Expanding Access, Washington, DC: World Bank. Chu Khánh Lân, Nguyễn Minh Phương, Trương Hoàng Diệp Hương, Đào Bích Ngọc, Phạm Mạnh Hùng (2018). Nhân tố ảnh hưởng tới tài chính bao trùm: bằng chứng mới từ phân tích dữ liệu bảng. Báo cáo nghiên cứu 18/04.Học viện Ngân hàng
  19. ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán 311 Chu Minh Hội (2014), “Quan hệ giữa tiếp cận tài chính và thu nhập”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số CĐ tháng 6, tr. 10-13 Hussaini, U., & Chibuzo, I. C.(2018) The effects of financial inclusion on poverty reduction: The moderating effects of microfinance. International Journal of Multidisciplinary Research and Development 5(12), 188-198 Ibrahim, Manu, Adamu, Jediel, Kasima, Hajara và Yusrah (2019) An examination of the Impact of Financial Inclusion on Poverty Reduction: An Empirical Evidence from Sub-Saharan Africa. International Journal of Scientific and Research Publications, 9(1), 239 - 252 Inoue, Takeshi ( 2019). Financial inclusion and poverty reduction in India. Journal of Financial economic policy, 11(1): 21-23 Jabir MI, Mensah L, Gyeke-Dako A (2017) Financial inclusion and poverty reduction in sub- Saharan Africa. Afr Fin J 19:1–22 Jung, H.S. and Thorbecke, E. (2003). The impact of public education expenditure on human capital, growth, and poverty in Tanzania and Zambia: a general equilibrium approach. Journal of Policy Modeling, 25(8), pp.701-725. Lê Thị Khuyên và Bùi Ngọc Mai Phương (2018). Tiếp cận tài chính toàn diện của các nước ASEAN và một số khuyến nghị đối với Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng Mansi, E., Hysa, E., Panait, M. and Voica, M.C., (2020). Poverty—A Challenge for Economic Development? Evidences from Western Balkan Countries and the European Union. Sustainability, 12(18), p.7754. Mirza, H., Giroud, A., Jalilian, H., Weiss, J., Freeman, N. and Than, M., 2004. Regionalisation, foreign direct investment and poverty reduction: The case of ASEAN. University of Bradford, School of Management. Odior, E. (2014). Government Expenditure on Education and Poverty Reduction: Implications for Achieving the MDGS in Nigeria a Computable General Equilibrium Micro- Simulation Analysis. Asian Economic and Financial Review, 4, 150-172. Park, C, Mercado RV (2018) Financial inclusion: new measurement and cross-country impact assessment. ADB Economics Working Paper Series 539/2018. Manila, Philippines. Park, Cyn-Young & Mercado, Jr, Rogelio. (2015). Financial Inclusion, Poverty, and Income Inequality in Developing Asia. SSRN Electronic Journal. 10.2139/ssrn.2558936. Phạm Hoàng Anh và Trần Thị Thắng (2019). Tiếp cận tài chính toàn diện tại các tỉnh đồng bằng Sông Hồng. Tạp chí khoa học và đào tạo Ngân hàng, số 202, tháng 3.2019, trang 18-44 Sarma, M. va Pais, J. (2008), Financial inclusion and development: Across country analysis, Idian Council for Research on International Economic Relations.
  20. 312 ICYREB 2021 | Chủ đề 3: Tài chính - Ngân hàng - Kế toán Schmied, J., & Ana, M. A. R. R. (2016). Financial Inclusion And Poverty: The Case Of Peru. Regional and Sectoral Economic Studies, 16(2), 29-40. Simon N. (2019). Financial inclusion and stability in the MED region: Evision from poverty and inequality. Femese research papers, FEM44-01 Sinding S. W. (2009). Population, poverty and economic development. Philosophical transactions of the Royal Society of London. Series B, Biological sciences, 364(1532), 3023–3030. https://doi.org/10.1098/rstb.2009.0145 Sumarto, S. and Moselle, S., 2015. Addressing poverty and vulnerability in ASEAN: an analysis of measures and implications going forward. The SMERU Research Institute. Tri Gunasih, Fran Sayekte, Ratana Listiana D. Financial inclusion and poverty alleviation: Evidence from Indonesia. International journal of economics, business and management research, Vol. 2. No. 03; 2018, pp 468- 480
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2