intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thành phần loài cá phân bố ở đồng bằng sông Cửu Long được lưu trữ tại Bảo tàng Thuỷ sinh vật -Trường Đại học Nha Trang

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

136
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay, Bảo tàng Thủy sinh vật - Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang thu và lưu giữ được 18 loài cá thuộc 9 họ nằm trong 5 bộ cá khác nhau ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, bộ cá vược [Perciformes] có số lượng loài nhiều nhất gồm 7 loài (chiếm 38.89%), bộ cá da trơn [Siluriformes] có 5 loài (chiếm 27.78%), bộ cá chép [Cypriniformes] (chiếm 16.67%), chúng đều là loài cá có sản lượng đánh bắt lớn và đem lại giá trị kinh tế cao, có 2 loài quý hiếm đang bị đe dọa, có trong sách đỏ Việt Nam cần được bảo vệ đó là cá hô (Catlocarpio siamensis Boulenger, 1898) và cá ét mọi (Morulius chrysophekadion Bleeker, 1850). Đặc biệt họ cá Pangasiidae trong bộ cá da trơn có 2 loài cá tra và cá ba sa được nuôi thương phẩm với quy mô lớn phục vụ xuất khẩu thủy sản, là họ cá kinh tế trong khu hệ cá nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu Long.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thành phần loài cá phân bố ở đồng bằng sông Cửu Long được lưu trữ tại Bảo tàng Thuỷ sinh vật -Trường Đại học Nha Trang

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 4/2013<br /> <br /> THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br /> <br /> THÀNH PHẦN LOÀI CÁ PHÂN BỐ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG<br /> ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI BẢO TÀNG THỦY SINH VẬT<br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> FISH SPECIES COMPOSITION IN MEKONG DELTA AT MUSEUM<br /> OF AQUATIC CREATURES OF NHA TRANG UNIVERSITY<br /> Nguyễn Thị Thúy1, Trương Thị Bích Hồng2<br /> Ngày nhận bài: 17/4/2013; Ngày phản biện thông qua: 03/6/2013; Ngày duyệt đăng: 10/12/2013<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Hiện nay, Bảo tàng Thủy sinh vật - Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang thu và lưu giữ được 18<br /> loài cá thuộc 9 họ nằm trong 5 bộ cá khác nhau ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, bộ cá vược [Perciformes] có<br /> số lượng loài nhiều nhất gồm 7 loài (chiếm 38.89%), bộ cá da trơn [Siluriformes] có 5 loài (chiếm 27.78%), bộ cá chép<br /> [Cypriniformes] (chiếm 16.67%), chúng đều là loài cá có sản lượng đánh bắt lớn và đem lại giá trị kinh tế cao, có 2 loài<br /> quý hiếm đang bị đe dọa, có trong sách đỏ Việt Nam cần được bảo vệ đó là cá hô (Catlocarpio siamensis Boulenger, 1898)<br /> và cá ét mọi (Morulius chrysophekadion Bleeker, 1850). Đặc biệt họ cá Pangasiidae trong bộ cá da trơn có 2 loài cá tra<br /> và cá ba sa được nuôi thương phẩm với quy mô lớn phục vụ xuất khẩu thủy sản, là họ cá kinh tế trong khu hệ cá nước ngọt<br /> ở đồng bằng sông Cửu Long.<br /> Từ khóa: Perciformes, Siluriformes, Cypriniformes, khu hệ cá nước ngọt, đồng bằng sông Cửu Long<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Currently, the Museum of Aquatic creatures - Institute of Aquaculture - Nha Trang University has collected and<br /> stored 18 fish species from Mekong Delta belonging to 9 families and 5 orders. In particular, Perciformes were the most<br /> dominant species with 7 species (38.89%), Siluriformes represented 5 species (27.78%), 3 species of Cypriniformes<br /> (16.67%) were identified. The previous species are the most aboundant and with high economic value in the Mekong<br /> Delta. According to Vietnam red Book, giant barb fish (Catlocarpio siamensis Boulenger, 1898) and black sharkminnow<br /> fish (Morulius chrysophekadion Bleeker, 1850) are rare, threatened and needs to be protected. Especially, 2 species of<br /> Pangasiidae including Tra and Basa catfish are commercially cultured on large scale for export purpose and they are<br /> considered as the most economic species of freshwater fish fauna in Mekong Delta.<br /> Keywords: Perciformes, Siluriformes, Cypriniformes, freshwater fish fauna, Mekong Delta<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Nhiệm vụ chính của Bảo tàng là phục vụ hoạt<br /> động đào tạo, nghiên cứu khoa học cho cán bộ và<br /> sinh viên Viện Nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó<br /> phòng còn trưng bày các mẫu thủy sinh vật phân<br /> bố trên toàn quốc và được các nhà nghiên cứu đầu<br /> ngành định danh. Những mẫu vật này không chỉ<br /> được các nhà khoa học thuộc lĩnh vực thủy sản quan<br /> tâm mà còn thu hút một lượng lớn khách tham quan<br /> <br /> 1<br /> <br /> là sinh viên trong và ngoài trường. Do đó, việc thu<br /> mẫu và xây dựng các bộ mẫu về các loài thủy sinh<br /> vật sẽ phục vụ đắc lực cho công tác dạy học, nghiên<br /> cứu và tham quan.<br /> Khu hệ cá nước ngọt ở đồng bằng sông Cửu<br /> Long đóng vai trò quan trọng cho nghề khai thác<br /> cá nội địa và đẩy mạnh phát triển nghề nuôi cá bè.<br /> Nhưng hiện nay, đồng bằng sông Cửu Long là một<br /> trong những vùng bị tác động bởi hình thức nuôi<br /> <br /> KS. Nguyễn Thị Thuý, 2 ThS. Trương Thị Bích Hồng: Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 39<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> lồng bè và kết hợp với khai thác quá mức (khai thác<br /> cá chưa trưởng thành, cá bố mẹ trong mùa sinh<br /> sản trên đường di cư và tại bãi đẻ) trên sông làm<br /> mất đi đường di cư sinh sản tự nhiên, một số bãi<br /> đẻ và khu vực kiếm mồi của cá. Vì vậy, sản lượng<br /> khai thác của vùng đồng bằng sông Cửu Long<br /> chỉ còn khoảng 40-50% so với thời kỳ trước năm<br /> 1975 [8]. Một số loài cá được đưa vào sách đỏ Việt<br /> Nam ở mức độ T như cá hô (Catlocarpio siamensis<br /> Boulenger, 1898) và cá ét mọi (Morulius<br /> chrysophekadion Bleeker, 1850) [6]. Do đó, định<br /> danh và lưu giữ cá ở đồng bằng sông Cửu Long<br /> nhằm cung cấp dẫn liệu ban đầu về thành phần<br /> loài, đặc điểm phân bố góp phần cho việc quy<br /> hoạch, khai thác và bảo vệ nguồn lợi tự nhiên và đa<br /> dạng thành phần loài lưu giữ tại Bảo tàng.<br /> II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> - Thời gian nghiên cứu: từ tháng 05/2012 đến<br /> tháng 8/2012.<br /> - Địa điểm nghiên cứu: Bảo tàng Thủy sinh vật.<br /> - Phương pháp bảo quản: Mẫu sau khi thu, cố<br /> định trong dung dịch chứa nồng độ formol 8-10%,<br /> chuyển về Phòng Thủy sinh vật mẫu vật - Viện Nuôi<br /> trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang, tiến<br /> hành cân đo, quan sát các chỉ tiêu hình thái. Định<br /> loại theo tài liệu phân loại của các tác giả: Roberts<br /> và Vidthayanon, 1991; Ferraris, 2007; Mai Đình Yên<br /> và ctv.,1992; Pouyaud và ctv., 2004 [2][3][5]. Mẫu<br /> được lưu giữ bằng formol 10%.<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> Thành phần loài cá thu được ở đồng bằng sông<br /> Cửu Long trong năm 2008-2009 từ đề tài xây dựng<br /> Bảo tàng Thủy sinh vật: 18 loài thuộc 9 họ và 5 bộ.<br /> Đặc điểm mô tả các loài cá được sắp xếp theo<br /> từng giống.<br /> 1. Giống Pangasianodon<br /> - Loài Pangasianodon hypophthalmus Sauvage,<br /> 1878 (hình 1).<br /> - Tên thường gọi: Cá tra.<br /> - Thân dài, hẹp ngang; đầu nhỏ vừa phải; Miệng<br /> rộng, có răng sắc nhọn trên các xương hàm, xương<br /> lá mía và xương khẩu cái; Mắt tương đối to; Có 2<br /> đôi râu, trong đó râu hàm trên ngắn hơn ½ chiều dài<br /> đầu, râu hàm dưới ngắn hơn chiều dài đầu; Gai trên<br /> cùng mang thưa và ngắn; Vây lưng và vây ngực có<br /> gai cứng mang răng cửa ở mặt sau; vây hậu môn<br /> tương đối dài; Da trơn không có vảy; Thân màu<br /> xám, hơi xanh trên lưng.<br /> - Sống ở nước ngọt, thường gặp ở tầng đáy,<br /> tầng giữa và tầng mặt, là loài di cư trong sông.<br /> <br /> 40 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 4/2013<br /> - Giá trị kinh tế: hiện nay nguồn lợi cá tra bột<br /> trong thủy vực tự nhiên đã giảm sút nghiêm trọng.<br /> Nguồn giống chủ yếu do các trại giống nhân tạo<br /> cung cấp cho nghề nuôi cả khu vực đồng bằng sông<br /> Cửu Long.<br /> 2. Giống Pangasius<br /> 2.1. Loài Pangasius bocourti Sauvage, 1880 (hình 2)<br /> - Tên thường gọi: Cá ba sa.<br /> - Cá có thân hình dẹt vừa phải, đầu dẹp bằng,<br /> trán rộng, răng nhỏ mịn.<br /> - Sống ở nước ngọt, thường gặp ở tầng đáy,<br /> tầng giữa và tầng mặt.<br /> - Giá trị kinh tế: là đối tượng nuôi bè quan trọng<br /> ở đồng bằng sông Cửu Long, là một trong những<br /> loài cá thuộc họ Pangasiidae di cư vượt thác Khône<br /> [4][8] và bị khai thác với số lượng lớn trong quá trình<br /> di cư này.<br /> 2.2. Loài Pangasius conchophilus Robert &<br /> Vidthayanon, 1991 (hình 3)<br /> - Tên thường gọi: Cá hú.<br /> - Thân dài, dẹp ngang dần về phía đuôi; Đầu và<br /> miệng hơi rộng, hàm trên nhô ra; Mắt tương đối nhỏ,<br /> nằm lệch về phía dưới của đầu và trên góc miệng;<br /> Răng xương lá mía hình khối chữ nhật rõ, răng khẩu<br /> cái ở mỗi bên; Có 2 đôi râu, râu hàm trên dài đến<br /> gốc vây ngực, râu hàm dưới ngắn hơn; Gai vây lưng<br /> và vây ngực to khỏe.<br /> - Sống ở nước ngọt, thường gặp ở tầng đáy,<br /> tầng giữa và tầng mặt, di cư trong sông.<br /> - Giá trị kinh tế: là một trong những loài cá quan<br /> trọng đối với một số nghề đánh cá nhất định quanh<br /> thác Khône vào đầu mùa lũ từ tháng 5 đến tháng 7,<br /> và nghề đánh lưới rê dọc theo đoạn giữa sông Mê<br /> Kông [4]. Thịt ngon có giá trị kinh tế và được nuôi<br /> phổ biến.<br /> 2.3. Loài Pangasius larnaudii Bocourt, 1866 (hình 4)<br /> - Tên thường gọi: Cá bông lau.<br /> - Thân dẹp ngang dần về phía đuôi; Đầu dài và<br /> nhọn; Viền lưng cong, lườn bụng tròn; Mõm rộng,<br /> hàm trên hơi nhô ra; Mắt nhỏ, có mi mỡ và nằm<br /> phía trên đường ngang qua góc miệng; Có 2 lỗ mũi;<br /> Răng xương lá mía và xương khẩu cái gồm 4 đốm;<br /> Có 2 đôi râu.<br /> - Sống thuỷ vực nước ngọt, di cư trong sông.<br /> - Giá trị kinh tế: là một trong những loài cá quan<br /> trọng nhất trong nghề đánh cá vào mùa mưa (tháng<br /> 5-6) khi chúng di cư theo đường Hu Sôm Nhay, một<br /> sông nhánh nhiều bậc của thác Khône [8].<br /> 3. Giống Mystus<br /> - Loài Mystus rhegma Fowler, 1935 (hình 5)<br /> - Tên thường gọi: Cá chốt sọc.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> - Đầu nhỏ, hình nón, mặt dưới hơn dẹp; Mõm<br /> tù; Miệng dưới, không co duỗi được, nằm trên mặt<br /> phẳng ngang; Có 4 đôi râu, râu mép dài nhất và kéo<br /> dài quá ngọn vi hậu môn; Thân dài, dẹp bên; Gai vi<br /> ngực to và dài hơn chiều dài gai vi lưng; Thân có 3<br /> sọc sậm chạy dọc theo chiều chiều dọc; Phần giữa<br /> các sọc này có màu trắng; Mặt bụng của thân và<br /> đầu có màu trắng bạc; Râu mép màu xám đen, các<br /> râu khác màu nhạt hơn; Sống đáy.<br /> - Giá trị kinh tế: chưa cao.<br /> 4. Giống Oxyeleotris<br /> 4.1. Loài Oxyeleotris marmorata Bleeker, 1852<br /> (hình 6)<br /> - Tên thường gọi: Cá bống tượng.<br /> - Thân mập, phần trước hơi dẹp bằng, phần<br /> sau hơi dẹp bên, đường lưng lõm xuống ở trán;<br /> Đầu to, rộng, dẹp bằng, chiều rộng của đầu bằng<br /> hoặc lớn hơn cao thân; Mõm dài, nhọn hướng lên<br /> trên, giữa mõm có u nhô cao; Miệng trên rộng, hàm<br /> dưới dài hơn hàm trên và đưa ra phía trước; Răng<br /> nhọn, gốc răng to, xếp thưa thành nhiều hàng trên<br /> mỗi hàm; Không có râu; Mắt tròn, nhỏ, lệch về mặt<br /> lưng của đầu; Lưỡi rất phát triển, dẹp bằng, đầu<br /> lưỡi tròn.<br /> - Cá sống tầng đáy, ban ngày ít hoạt động và<br /> thường vùi mình dưới bùn, ban đêm hoạt động bắt<br /> mồi tích cực. Cá ưa ẩn náu nơi cây cỏ rậm ven bờ<br /> và rình bắt mồi. Khi gặp nguy hiểm cá có thể vùi sâu<br /> trong bùn 1m và sống được nhiều giờ. Cá được tìm<br /> thấy ở các lưu vực thuộc hệ thống sông Cửu Long<br /> và sông Đồng Nai.<br /> - Giá trị kinh tế: Cá có kích thước tương đối<br /> lớn, thịt rất ngon, có giá trị kinh tế cao, là đối tượng<br /> được nghiên cứu thành công trong sản xuất giống<br /> nhân tạo. Hiện nay cá bống tượng có nhu cầu cho<br /> xuất khẩu với giá cao nhất trong các loài cá nuôi<br /> nước ngọt.<br /> 4.2. Loài Oxyeleotris siamensis Gunther, 1861 (hình 7)<br /> - Tên thường gọi: Cá bống dừa.<br /> - Thân hình trụ tròn, đuôi dẹp ngang; Đầu hơi<br /> dẹp đứng, rộng; Mõm tù, ngắn và trần; Mắt to, miệng<br /> rộng và xiên; Hàm dưới nhô ra, răng nhiều hàng<br /> trên mỗi hàm, hàng ngoài; Khởi điểm vây lưng thứ<br /> nhất sau vây ngực và vây bụng; Vây ngực hình bầu<br /> dục dài, vây đuôi tròn; Sống ở vùng ven biển cửa<br /> sông, có thể di chuyển vào vùng nước ngọt kiếm ăn<br /> và sinh sống. Cá được tìm thấy ở vùng hạ lưu cửa<br /> sông thuộc các tỉnh Nam Bộ.<br /> - Giá trị kinh tế: Thịt cá thơm ngon có ý nghĩa<br /> kinh tế cho khu vực. Loài này có thể sử dụng làm<br /> cá cảnh.<br /> <br /> Số 4/2013<br /> 5. Giống Pseudapocryptes<br /> - Loài Pseudapocryptes elongates Cuvier,<br /> 1816 (hình 8)<br /> - Tên thường gọi: Cá bống kèo.<br /> - Cá có thân hình trụ dài, dẹp dần về phía đuôi;<br /> Đầu hơi nhọn. mõm tù và trần; Nếp gấp mõm có hai<br /> lá bên nhỏ; Mắt nhỏ nằm sát nhau trên đỉnh đầu và<br /> không có cuống.<br /> - Sống chui rúc trong bùn và đào hang để trú.<br /> Cá di chuyển theo con nước, khi tìm được nơi thích<br /> hợp sẽ đào hang để ở lại.<br /> - Cá tập trung trong vùng đồng bằng sông Cửu<br /> Long, nhất là tại Sóc Trăng, Bạc liêu, Cà Mau, Kiên<br /> Giang, thích hợp với các ao hồ, kênh, mương nước<br /> lợ. Cá còn được nuôi tại các ruộng muối.<br /> - Giá trị kinh tế: Thịt cá bống kèo rất được ưa<br /> chuộng. Thịt có hương vị riêng, trắng ngon và giá trị<br /> dinh dưỡng cao.<br /> 6. Giống Channa<br /> 6.1. Loài Channa micropeltes Cuvier, 1831 (hình 9)<br /> - Tên thường gọi: Cá lóc bông.<br /> - Thân dài, phần trước tròn, phần sau dẹp bên;<br /> Đầu dài, đỉnh đầu phẳng; Phần trán giữa 2 mắt rộng,<br /> phẳng; Mõm nhọn, ngắn; Răng nanh bén nhọn và<br /> xếp thành một hàng trên hàm, trên xương khẩu cái,<br /> xương lá mía; Không có râu; Lỗ mũi trước mở ra<br /> bằng một ống ngắn; Mắt tròn nằm lệch về phía trên<br /> của đầu và gần chót mõm hơn gân điểm cuối nắp<br /> mang; Vảy nhỏ phủ khắp thân và đầu; Vây đuôi tròn;<br /> Phần lưng có màu xám nâu và bụng có màu trắng.<br /> - Sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh rạch, ao<br /> hồ, đầm, sông, thích nghi được cả với môi trường<br /> nước đục, tù, ... Vào mùa hè cá thường hoạt động<br /> va bắt mồi ở tầng mặt. Mùa đông cá hoạt động ở<br /> tầng nước sâu hơn.<br /> - Giá trị kinh tế: là đối tượng nuôi quan trọng và<br /> là nguồn thực phẩm tốt cho người dân.<br /> 6.2. Loài Channa striata (hình 10)<br /> - Tên thường gọi: Cá lóc đen.<br /> - Thân tròn dài, đuôi dẹp bên; Vây lưng có<br /> 40 - 46 cái, vây hậu môn có 28 - 30 vây, vảy đường<br /> bên 41 - 55 cái.<br /> - Sống độ sâu sinh sống từ 0 đến 30 m trong<br /> các sông, suối, ao, hồ và trong các ao nuôi nhân<br /> tạo. Chúng sinh sống ở tầng nước giữa và thấp,<br /> hay được tìm thấy trong các ao hồ có nhiều rong cỏ<br /> và nước đục.<br /> - Giá trị kinh tế: đối tượng nuôi khá quan trọng,<br /> phổ biến và là nguồn thực phẩm tốt cho người tiêu<br /> dùng trong cả nước. Hiện nay, bên cạnh cá Lóc<br /> bông, cá Lóc đen là đối tượng được nuôi nhiều<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 41<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> trong các ao, giai và bè ở vùng đồng bằng sông<br /> Cửu Long.<br /> 7. Giống Osphronemus<br /> 7.1. Loài Osphronemus goramy Lacepede, 1801<br /> (hình 11)<br /> - Tên thường gọi: Cá tai tượng.<br /> - Thân hình đẹp, cao, miệng nhỏ trễ; Gốc vây<br /> lưng ở xa phía sau gốc vây ngực và trên hay ở sau<br /> gốc vây hậu môn; Vây ngực có 1 gai và năm nhánh,<br /> nhánh đầu biến thành một nhánh dài; Vảy to; Cá có<br /> màu xám nhạt và có một chấm đen ở vây ngực, cá<br /> nhỏ có nhiều sọc xiên.<br /> - Là loài cá có khả năng thích nghi đặc biệt với<br /> điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Ở vùng đồng<br /> bằng Nam bộ Việt Nam, sống ở vùng nước lặng,<br /> nhiều cây thuỷ sinh.<br /> - Giá trị kinh tế: chưa cao.<br /> 7.2. Loài Trichogaster pectoralis (hình 12)<br /> - Tên thường gọi: Cá sặc rằn.<br /> - Thân cá dẹp bên; Đầu nhỏ, dẹp bên, mõm<br /> ngắn; Không có râu; Mắt lớn vừa nằm trên trục giữa<br /> thân, gần chót mõm hơn gần điểm cuối nắp mang;<br /> Lỗ mang lớn vừa, màng mang hai bên dính nhau<br /> nhưng không dính với eo mang; Vảy lược, phủ khắp<br /> thân và đầu; Vây đuôi chẻ 2, rãnh chẻ cạn và phần<br /> cuối của 2 thùy vây đuôi tròn.<br /> - Sống ở ao hồ, kênh rạch,.. có thể sống được<br /> ở vùng nước lợ, nơi có nồng độ muối thấp. Là đối<br /> tượng nuôi.<br /> - Giá trị kinh tế: cá có giá trị kinh tế cao, là loài<br /> cá to nhất trong số các loài cá của giống này.<br /> 8. Giống Barbodes<br /> 8.1. Loài Barbodes gonionotus Bleeker, 1850 (hình 13)<br /> - Tên thường gọi: Cá mè vinh.<br /> - Thân dẹp bên, có dạng hình thoi; Đầu nhỏ<br /> dạng hình nón; Mõm tù, ngắn, miệng trước, hẹp<br /> bên. Góc miệng chạm với đường thảng đứng kẻ từ<br /> bờ trước của mắt, rạch miệng xiên; Có 2 đôi râu: râu<br /> mõm và râu mép, râu kém phát triển; Mắt to, lệch về<br /> nửa trên của đầu và gân chót mõm hơn gần điểm<br /> cuối của nắp mang.<br /> - Sống ở các kênh rạch, sông ngòi Nam Bộ, đặc<br /> biệt là đồng bằng sông Cửu long, sông Sài Gòn,<br /> sông Đồng Nai.<br /> - Giá trị kinh tế: có giá trị kinh tế tại đồng bằng<br /> sông Cửu Long. Cá có thịt cá thơm ngon và được<br /> khai thác trong tự nhiên quanh năm; Sản lượng<br /> tự nhiên khá cao, là loài cá có giá trị kinh tế cho<br /> khu vực.<br /> <br /> 42 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 4/2013<br /> 8.2. Loài Barbonymus altus Günther, 1868 (hình 14)<br /> - Tên thường gọi: Cá he vàng.<br /> - Thân hình thoi cao, hơi dẹp; Đầu nhỏ; Mắt to,<br /> lồi; Miệng nhỏ, môi mỏng; Có 2 đôi râu rất phát triển;<br /> Vảy to; Đường bên hơi cong về phía bụng; Khởi<br /> điểm vây lưng hơi trước vây bụng; Tia đơn cuối to,<br /> hóa xương và có răng cưa; Vây lưng và vây hậu<br /> môn có vảy nhỏ ở gốc; Lưng xám đen, bụng bạc.<br /> - Sống trong mực cạn độ 0,5 đến 1 m tính từ<br /> mặt nước, nước đứng (hồ) cho tới nơi nước chảy<br /> mạnh (sông).<br /> - Giá trị kinh tế: có giá trị kinh tế cao, sản lượng<br /> lớn.<br /> 8.3. Loài Catlocarpio siamensis Boulenger, 1898<br /> (hình 15)<br /> - Tên thường gọi: Cá hô.<br /> - Phần trước thân hơi tròn và cao, phần sau<br /> dẹp bên; Cao thân khoảng 1/3 dài chuẩn; Đầu rất to,<br /> đỉnh đầu rộng, giữa mắt và mõm của phần lưng đầu<br /> lõm xuống; Không râu; Khe mang rộng; Thân phủ<br /> vảy tròn to; Đầu và lưng nâu xám hoặc ánh xanh,<br /> lợt dần xuống bụng trắng bạc; Vảy trên thân xanh<br /> đen tạo thành dạng mạng lưới; Vây lưng cao, tia<br /> đơn không hóa xương, gốc phủ vảy nhỏ; Vây ngực,<br /> vây bụng và vây hậu môn ngắn; Vây hậu môn cũng<br /> có phủ vảy nhỏ ở gốc; Các vây màu đỏ có viền đen;<br /> Cá có kích thước lớn.<br /> - Cá hô thường sinh sống trên các dòng sông<br /> lón, nhưng cũng có thể đi vào các ao hồ, kênh<br /> rạch, các vùng ngập liên hệ với sống lớn. Cá lớn<br /> thường sống ở sông lớn, cá nhỏ đi vào các ao đầm<br /> ven sông.<br /> - Giá trị kinh tế: cá có kích thước lớn thuộc loại<br /> cá quý, thịt ngon có giá trị dinh dưỡng cao [6].<br /> 9. Giống Macrognathus<br /> 9.1. Loài Macrognathus aculeatus Bloch, 1786 (hình 16)<br /> - Tên thường gọi: Cá chạch lá tre.<br /> - Thân dài, phía trước hơi tròn, phía sau dẹp<br /> ngang; Đầu ngắn nhỏ, mõm nhọn dài; Đường bên<br /> liên tục, vảy rất nhỏ; Vây lưng gồm các gai cứng<br /> nằm rời nhau ở phía trước, phần tia mềm ở phía<br /> sau; Vây ngực tròn, vây đuôi nhỏ và không có vây<br /> bụng; Lưng và hông có màu xám nâu; Sống ở<br /> tầng đáy.<br /> - Giá trị kinh tế: cá có sản lượng lớn và giá trị<br /> kinh tế cao.<br /> 9.2. Loài Morulius chrysophekadion Bleeker, 1850<br /> (hình 17)<br /> - Tên thường gọi: Cá ét mọi.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> - Cá có thân thon dài, dẹt bên; Đầu nhỏ, mõm<br /> tù, đầu mõm có nhiều đốt ừng; Miệng ở phía dưới,<br /> nằm trên mặt phẳng ngang, vòng cung; Môi phát<br /> triển; Rãnh sau môi trên và môi dưới sâu và liên tục;<br /> Có hai đôi râu, râu mõm và râu mép dài bằng nhau<br /> và tương đương với đường kính mắt; Các vây đều<br /> cao, vảy tròn phủ khắp thân; Thân cá có màu đen<br /> xám ở mặt lưng, màu trắng mám ở mặt bụng; Các<br /> vây có màu đen.<br /> - Cá sống ở trung lưu, hạ lưu sông các ao hồ<br /> liên hệ với sông.<br /> - Cá thành thục di cư vào vùng ngập để đẻ<br /> trứng. Cá bột và cá con ở lại vùng ngập trong suốt<br /> mùa lũ. Khi nước bắt đầu rút, cá con và cá trưởng<br /> thành đều quay về sông chính để ẩn náu trong suốt<br /> mùa khô. Ở trung lưu sông Mekong, cá di cư ngược<br /> dòng vào các nhánh chính.<br /> - Giá trị kinh tế: thịt ngon, cá lớn đạt đến 5kg,<br /> có giá trị kinh tế, sản lượng khá nhiều ở hạ lưu sông<br /> [3]. Là loài cá cần được bảo vệ.<br /> 10. Giống Osteochilus<br /> - Loài Osteochilus melanopleurus Bleeker,<br /> 1852 (hình 18)<br /> - Tên thường gọi: Cá mè hôi.<br /> - Thân dẹp bên; Đầu nhỏ hơi dẹp bên; Mõm tù,<br /> trơn láng không có nốt sừng; Môi trên có nhiều gai;<br /> Có 2 đôi râu: râu mõm và râu mép; Râu mõm ngắn<br /> <br /> Số 4/2013<br /> hơn râu mép và tương đương với đường kính mắt;<br /> Đường lưng hơi lõm ở trán; Vảy tròn nhỏ phủ khắp<br /> toàn thân, đầu không có vảy; Vây đuôi chẻ hai, rãnh<br /> chẻ tương đương 2/3 chiều dài gốc vây đuôi; Mặt<br /> lưng của thân và đầu màu xám xanh hơi ửng lên<br /> màu hương và lợt dần xuống mặt bụng, bụng cá<br /> màu trắng bạc; Cá sống từ tầng giữa đến tầng đáy<br /> của sông, kênh rạch.<br /> - Giá trị kinh tế: cá có thịt ngon, có giá trị kinh<br /> tế cao.<br /> IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br /> 1. Kết luận<br /> Đã thu mẫu, định loại và lưu giữ được 18 loài cá<br /> thuộc 9 họ và 5 bộ: bộ cá vược [Perciforme] có số<br /> lượng loài nhiều nhất có 7 loài (chiếm 38.89%), bộ<br /> cá da trơn [Siluriformes] có 5 loài (27.78chiếm%), bộ<br /> cá chép [Cypriniformes] có 3 loài (chiếm 16.67%),<br /> bộ lươn [Synbranchiformes] có 2 loài chiếm 11.11%,<br /> bộ cá thiểu [Cypriniformes] ít nhất chỉ có 1 loài<br /> (chiếm 5.56%).<br /> 2. Kiến nghị<br /> Tiến hành thu mẫu, định loại và lưu giữ các loài<br /> còn lại phân bố ở sông Mekong để làm phong phú<br /> cho Bảo tàng Thủy sinh vật - Viện Nuôi trồng thủy<br /> sản - Trường Đại học Nha Trang.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> Tiếng Việt<br /> 1.<br /> <br /> Trịnh Ngọc Tuấn, 2005. Nghiên cứu hiện trạng khai thác, nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam và đề xuất phương pháp xử lý<br /> nước thải.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Mai Đình Yên, N.V.Trọng, N.V.Thiện, L.H.Yến, H.B.Loan, 1992. Định loại cá nước ngọt Nam bộ. NXB Khoa học và Kỹ<br /> thuật, Hà Nội, 343tr.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Sách đỏ Việt Nam, phần Động vật. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội 1992, 396tr.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> Baird, I. G., 1998. Preliminary fishery stock assessment results from Ban Hang Khone, Khong District, Champassak<br /> province, Southern Lao PDR. Technical Report. Environmental Protection and Community Development in the Siphadone<br /> Wetland, Champassak Province, Lao PDR. Funded by European Union, implemented by CESVI, 12pp.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> Ferraris, C.J., 2007. Checklist of Catfishes, recent and fossil (Osteichthyes, Siluriformes), and catalogue of siluriform primary<br /> types. Zootaxa 1418 ©2007 Magnolis Press. 628pp.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> Pouyaud L., Gustiano R., Teugels G.G., 2002. Systematic revision of the Pangasius polyuranodon (Silurifornes, Pangasiidae)<br /> with description of two new species . Cybium, 26: 243-252.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> Roberts, T.R & Chavalit Vidthayanon, 1991. Systematic revision of the asian catfish family Pangasiidae, with biological<br /> observations and descriptions of three new spcies. Proceedings of the Academy of Natural Sciences of Philadelphia 143:<br /> 97-144.<br /> <br /> 8.<br /> <br /> Singanouvong, D., C.Soulignavong, K.Vonghachak, B.Saadsy and T.J.Warren., 1996. The main wet-season migration through<br /> Hoo Som Yai, a steep-gradient channel at the great fault line on the Mekong River, Champassak Province, Southern Lao PDR.<br /> IDRC Fisheries Ecology Technical Report No.4.115pp.<br /> <br /> 9.<br /> <br /> www.fishbase.org<br /> <br /> Tiếng Anh<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 43<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2