Thay đổi ngôn ngữ.<br />
Tiếng Việt là ngôn ngữ có nguồn gốc bản địa, xuất thân từ nền văn minh <br />
nông nghiệp, tại nơi mà ngày nay là khu vực phía bắc lưu vực sông Hồng và sông <br />
Mã của Việt Nam. Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ <br />
ViệtMường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương <br />
ngữ không thanh điệu. Về sau, qua quá trình giao thoa với Hoa ngữ và nhất là với <br />
các ngữ thuộc ngữ hệ TaiKadai vốn có hệ thống thanh điệu phát triển cao, hệ <br />
thống thanh điệu trong tiếng Việt xuất hiện và có diện mạo như ngày nay, theo <br />
quy luật hình thành thanh điệu. Sự xuất hiện các thanh điệu, bắt đầu khoảng thế <br />
kỷ thứ 6 (thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam) với ba thanh điệu và phát <br />
triển ổn định vào khoảng thế kỷ 12 (nhà Lý) với 6 thanh điệu. Sau đó một số phụ <br />
âm đầu biến đổi cho tới ngày nay. Trong quá trình biến đổi, các phụ âm cuối rụng <br />
đi làm thay đổi các kết thúc âm tiết và phụ âm đầu chuyển từ lẫn lộn vô <br />
thanh với hữu thanh sang tách biệt.<br />
Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi <br />
lập quốc. Có 6 âm sắc chính là: ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Bắt đầu từ <br />
khi Trung Quốc có ảnh hưởng tới Việt Nam, tiếng Việt có rất nhiều âm mà không <br />
có trong tiếng Trung Hoa; "đ". Trong quá trình phát triển đã du nhập thêm những từ <br />
ngữ Hán cổ như "đầu", "gan", "ghế", "ông", "bà", "cô"..., từ đó hình thành nên hệ <br />
thống HánViệt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có <br />
của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán <br />
và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm <br />
hàng loạt các yếu tố HánViệt. Như là "chủ", "ở", "tâm", "minh", "đức", "thiên", <br />
"tự do"... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như "nhiệt náo" <br />
thành "náo nhiệt", "thích phóng" thành "phóng thích", "đảm bảo" thành "bảo <br />
đảm"... Hoặc được rút gọn như "thừa trần" thành "trần" (trong trần nhà), "lạc hoa <br />
sinh" thành "lạc" (trong củ lạc, còn gọi là đậu phộng)...; hay đổi khác nghĩa hoàn <br />
toàn như "phương phi" trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong <br />
tiếng Việt lại là "béo tốt", "bồi hồi" trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang <br />
tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động"...<br />
Đặc biệt là các yếu tố HánViệt được sử dụng để tạo nên những từ ngữ <br />
đặc trưng chỉ có trong tiếng Việt, không có trong tiếng Hán như là các từ "sĩ diện", <br />
"phi công" (dùng 2 yếu tố HánViệt) hay "bao gồm", "sống động", "sinh đẻ" (một <br />
yếu tố Hán kết hợp với một yếu tố thuần Việt). Nói chung tỉ lệ vay mượn tiếng <br />
Hán trong tiếng Việt rất lớn. Về lĩnh vực chuyên môn và khoa học thì có thể lên <br />
đến 80%. Nhưng khi nhận xét về văn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết thì chỉ còn <br />
12,8%; kịch nói rút xuống còn 8,9%; và ngôn ngữ nói chuyện hằng ngày còn thấp <br />
hơn nữa.[9] Dù ở tỷ lệ nào đi nữa đại đa số những từ đó đều đã được Việt hóa cho <br />
phù hợp với nhận thức của người Việt. Tiếng Việt gọi là "thủ tướng" nhưng <br />
tiếng Hoa là "tổng lý"; tiếng Việt là "truyền hình" thì tiếng Hoa là "điện thị"; tiếng <br />
Việt là "thành phố" thì tiếng Hoa là "đô thị". Những chữ thủ tướng, truyền hình, <br />
thành phố hoàn toàn là Hán Việt nhưng người Hoa tuyệt nhiên không dùng. Do vậy <br />
tiếng Việt dù vay mượn tiếng Hán nhưng giữ được bản sắc riêng của mình trước <br />
ảnh hưởng của văn hóa Hán, trong khi lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ <br />
trong tiếng Hán để tự cải tiến mình.<br />
Kể từ đầu thế kỷ thứ 11, Nho học phát triển, việc học văn tự chữ Nho được <br />
đẩy mạnh, tầng lớp trí thức được mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương <br />
của người Việt bằng chữ Nho cực kỳ phát triển với cái áng văn thư nổi tiếng <br />
như bài thơ thần của Lý Thường Kiệt bên sông Như Nguyệt (sông Cầu). Cùng <br />
thời gian này, một hệ thống chữ viết được xây dựng riêng cho người Việt theo <br />
nguyên tắc ghi âm tiết được phát triển, và đó chính là chữ Nôm. Nhờ có chữ Nôm, <br />
văn học Việt Nam đã có những bước phát triển rực rỡ nhất, đạt đỉnh cao <br />
với Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tiếng Việt, được thể hiện bằng chữ Nôm ở <br />
những thời kỳ sau này về cơ bản rất gần với tiếng Việt ngày nay. Tuy hầu hết <br />
mọi người Việt đều có thể nghe và hiểu văn bản bằng chữ Nôm, chỉ những người <br />
có học chữ Nôm mới có thể đọc và viết được chữ Nôm. Chữ Nôm được chính <br />
thức dùng trong hành chính khi vua Quang Trung lên ngôi vào năm 1789.<br />
Với tên gọi đã trở thành quen thuộc là ''tiếng phổ thông'', tiếng Việt ngày <br />
càng đảm nhiệm vững chắc tư cách là ngôn ngữ giao tiếp giữa các dân tộc cùng <br />
sống chung trong nước Việt Nam: các dân tộc thiểu số ở nước ta thực sự coi tiếng <br />
Việt là công cụ giao tiếp chung của mình. Hơn cả tiếng mẹ đẻ của mỗi dân tộc <br />
thiểu số, tiếng Việt thực sự trở thành thứ công cụ giao tiếp đặc biệt tiện lợi <br />
không chỉ cho những cá thể thuộc các tộc người khác nhau mà cho các cá thể thuộc <br />
cùng một dân tộc thiểu số. Hiện tượng song ngữ dân tộc Việt đã được hình thành <br />
và ngày càng củng cố vững chắc. Một số người không muốn học thứ chữ dân tộc <br />
mới được xây dựng cũng chỉ vì không thấy lợi ích trước mắt trong việc giao tiếp.<br />
Do những cuộc di dân liên tục diễn ra trong lịch sử, nhất là từ khoảng giữa <br />
thế kỷ XX, hiện tượng cư trú đan xen trở thành phổ biến. Chỉ xem xét vùng núi <br />
phía Bắc Việt Nam ngày nay, các nhà nghiên cứu đã thấy ngay là địa bàn cư trú đa <br />
dân tộc, với sự có mặt của 40/54 thành phần dân tộc khác nhau. Ðây là địa bàn đa <br />
dân tộc cư trú đan xen nhưng không đều giữa các tỉnh, huyện và thị: người dân tộc <br />
thiểu số chiếm trên 80% dân số ở 6 tỉnh: Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Kạn, Lạng <br />
Sơn, Sơn La và Lai Châu; chiếm từ 50 đến 70% ở các tỉnh: Hoà Bình, Lào Cai và <br />
Tuyên Quang; nhưng chỉ chiếm từ 20 đến 50% ở Yên Bái và Thái Nguyên. Có tỉnh <br />
có hàng chục dân tộc cư trú nhưng có tỉnh chỉ có 89 dân tộc. Theo nghiên cứu của <br />
Nguyễn Thế Huệ thì hiện nay trong số 109 huyện, thị của 10 tỉnh trong khu vực, <br />
đã có trên 59 huyện, thị có từ 10 dân tộc trở lên, chiếm 54% số huyện, thị ở miền <br />
núi phía Bắc. Những huyện có từ 15 dân tộc cư trú trở lên là Tuần Giáo, Bắc <br />
Quang, Yên Sơn, Hữu Lũng, Sìn Hồ, Ðiện Biên, Ðồng Hỷ, Phong Thổ, thành phố <br />
Thái Nguyên. Như vậy, mười năm sau so với kết quả của tổng điều tra dân số năm <br />
1979, số huyện, thị có từ 10 dân tộc cư trú trở lên đã tăng thêm 30 đơn vị, vào năm <br />
1989. Theo nghiên cứu của Khổng Diễn, thì vào năm 1979, "hầu như không có một <br />
nơi nào diện tích vài ba trăm km2 lại chỉ có một dân tộc cư trú". Có tỉnh giáp biên <br />
nhưng cũng có tỉnh nằm sâu trong nội địa. Có tỉnh người Kinh khá đông, có tỉnh <br />
người Kinh không còn là "đa số" mà trở thành thiểu số.<br />
Trong đời sống ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tiếng Việt <br />
có được vị trí như trên do những điều kiện xã hội chính trị và kinh tế của đất <br />
nước này trong nhiều thập kỷ vừa qua qui định.<br />
Trong bối cảnh lịch sử ấy, lẽ đương nhiên tiếng Việt cũng đã phải nhận sự <br />
tác động từ phía các ngôn ngữ thiểu số. Kết quả của sự tác động này là tiếng Việt <br />
hiện đại đã giàu thêm, phong phú thêm do đã tiếp thu một số yếu tố ngôn ngữ từ <br />
các ngôn ngữ thiểu số: những yếu tố thuộc những cấp độ ngôn ngữ khác nhau <br />
được du nhập và lắng kết lại trong tiếng Việt hiện đại, lúc đầu là ở khu vực song <br />
ngữ và đa ngữ trong tiếng Việt của người thiểu số và trong tiếng Việt của người <br />
Kinh ở vùng này), trong ngôn ngữ cá nhân giao tiếp hàng ngày, rồi sau đó đi vào <br />
tiếng Việt văn học hiện đại sử dụng trong sóng phát thanh, trong sách báo v.v...)<br />
Dưới đây chúng tôi muốn thử khảo sát những thể hiện của sự tác động này <br />
từ phía các ngôn ngữ dân tộc thiểu số đến tiếng Việt hiện đại. Chúng ta có thể dễ <br />
dàng nhận thấy những thể hiện này ở những cấp độ ngôn ngữ khác nhau của tiếng <br />
Việt.<br />
Sự thể hiện rõ nét nhất được biểu lộ ở hệ thống ngữ âm tiếng Việt hiện <br />
đại và ở phép viết trên các văn bản hiện đại.<br />
Ðể diễn đạt tên người, tên một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam, tiếng Việt <br />
hiện đại buộc phải chấp nhận bổ sung phụ âm đầu [p]: Sa Pa, người Pa cô, người <br />
Pu péo, kèn pí lè, hoa pơ lang, cũng như nhóm phụ âm vốn xa lạ tiếng Việt: br, gl, <br />
đr, kl, kr, hm. hr, pl, v.v... như người Bru, huyện Krông Pác, người Ra glai, chim <br />
đrao, chim poong kle, đàn krông pút v.v... Cũng như trong giao tiếp thông thường, <br />
người ta đã quen dần với phát âm mới này. Song điều đáng tiếc trên sách báo khác <br />
nhau được xuất bản, cách viết đôi khi còn tuỳ tiện dường như chưa có một qui <br />
định thống nhất, bởi vậy, bên cạnh:<br />
Hmông ta thấy có Hơmông <br />
Plâycu Pleiku<br />
Hrê Hơrê <br />
Mnông Mơnông, v. v...<br />
Dù sao đây cũng là những ''cái mới'' xuất hiện trong tiếng Việt hiện đại. <br />
Cũng phải nói thêm rằng kết quả này có được một phần là do tác động của sự vay <br />
mượn từ các ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh, khi cần du nhập thuật ngữ và <br />
khoa học kỹ thuật, cũng như khi cần phiên âm tên người, tên đất nước ngoài. <br />
Chúng tôi cho rằng hai sự tác động này theo cùng một hướng khiến cho tiếng Việt <br />
hiện đại sớm có diện mạo ngữ âm và chữ viết như hiện nay.<br />
Cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều nhà văn nhà thơ v.v... là người dân <br />
tộc thiểu số, sáng tác bằng cả hai ngữ: dân tộc và Việt, như Vương Anh (dân tộc <br />
Mường); Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu , Nông Viết Toại, Vi Hồng, Triều <br />
Ân (dân tộc Tày); Mã Thế Vinh (dân tộc Nùng); Cầm Biêu, Vương Trung (dân tộc <br />
Thái); Mã A Lềnh (dân tộc Hmông); Bàn Tài Ðoàn (dân tộc Dao); Y Ðiêng (dân <br />
tộc Ê Ðê), là sự xuất hiện ngày càng nhiều bài viết, tác phẩm tác giả người Kinh <br />
viết về cuộc sống lao động và chiến đấu của đồng bào các dân tộc thiểu số không <br />
ngừng tăng lên, như: Bàng Thúc Long, Mạc Phi, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng. <br />
Nếu trước đây không lâu ta chỉ quen với các từ ông ké, bok, v.v... thì nay các từ như <br />
sli, lượn, khắp, lồng tồng = lùng tùng, nó, nhình, noọng, v.v... không còn xa lạ. <br />
Chẳng hạn lời ca của bài hát có đoạn:<br />
Noọng ới, noọng về cùng ta.<br />
Cần lưu ý rằng nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở Việt nam sử dụng "nó" <br />
nghĩa trung tinh như he, she tiếng Anh, il, lui, elle ti ếng Pháp, OH tiếng Nga, v.v... <br />
Nói về người bề trên, tiếng Việt ở vùng dân tộc có thể dùng nó mà không có ý <br />
không coi trọng:<br />
Bác tôi nó đã đến chơi!<br />
Các yếu tố ngôn ngữ cũng được dùng cấu tạo từ mới cho tiếng Việt; chim <br />
nôc thua, quả mác kham, quả mác mật ,v.v... Trong cách tạo từ ghép ta cũng thấy <br />
hiện tượng này; làng bản, buôn làng, chuyện buôn sóc bản mường, v.v...<br />
Về các mặt cú pháp và tu từ, tác động của các ngôn ngữ dân tộc được thể <br />
hiện rõ trong phép cấu trúc câu của người Kinh ở vùng dân tộc thiểu số và trong <br />
các tác phẩm viết về các dân tộc thiểu số: tiếng Việt trong văn học rất gần với <br />
tiếng Việt giao tiếp hàng ngày, chịu ảnh hưởng sâu sắc của lối dùng hình tượng ví <br />
von, cách so sánh thể hiện cuộc sống nội tâm của đồng bào các dân tộc thiểu số, <br />
trong giao tiếp và đối thoại ưa cách sử dụng ngôn ngữ hết sức sinh động và giản <br />
dị: vui như chuột rúc trong bụng, chạy nhanh như chân ngựa, cay cháy tai, <br />
v.v...Một số từ cảm thán mà đồng bào các dân tộc ưa dùng cũng được đưa vào <br />
tiếng Việt hiện đại; dà! úi! a lố! dỏ! lớ! v.v...<br />
Sự tiếp thu những yếu tố vay mượn là cần thiết nhưng cũng phải đề phòng <br />
sự lạm dung quá mức mà có nhà nghiên cứu đã lên tiếng. Chẳng hạn, Hoàng Huy <br />
Phách có bài trong đó tác giả lưu ý nên hiểu thế nào cho đúng trong văn cảnh cũng <br />
như trong khẩu khí? Nhiều tác giả và dịch giả lạm dụng quá nhiều khi xử lý ngôn <br />
ngữ. Trong tiểu thuyết viết về dân tộc thiểu số, viết về miền núi, nhiều khi tư <br />
duy của tác giả bắt độc giả phải hiện đại hóa mối tình của đôi trai gái nọ, không <br />
đúng với thực tế phong tục bản mường.<br />
Những nét đặc thù của dân tộc đã bộc lộ qua phong thái và nhân cách của <br />
họ. Với tính chân thực và lòng nhiệt thành sẵn có theo kiểu cách riêng của từng <br />
dân tộc không thể lẫn với cái chung của người dân tộc khác.<br />
Chúng ta cũng mong muốn rằng việc nhìn nhận người dân tộc thiểu số <br />
không thể chỉ qua quần áo, trang phục, không chỉ nghe giọng nói còn lơ lớ có phần <br />
ngọng, pha tạp tiếng Kinh v.v... Và không nên đưa nhân vật dân tộc thiểu số lên <br />
màn ảnh, sân khấu, lên diễn đàn với dáng điệu và khẩu khí ngô nghê, ngờ nghệch, <br />
lắp bắp v.v... Tất cả những việc làm thiếu thận trọng đó chỉ có hại cho đoàn kết <br />
dân tộc, phân biệt sắc tộc, chủng tộc. Với cách nghĩ và viết như vậy tuyệt nhiên <br />
không giúp ích cho sự giao lưu văn hóa, sự phát triển ngôn ngữ mà người cầm bút <br />
vô ý thì lầm tưởng đó là sự phong phú trong sử dụng ngôn từ, đa dạng trong tác <br />
phẩm.<br />
Trong quá trình tiếp xúc giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở <br />
Việt Nam, sự tác động từ các dân tộc thiểu số đến tiếng Việt đã góp phần làm <br />
thay đổi diện mạo ngữ âm và chữ viết, làm phong phú thêm vốn từ ngữ và cách sử <br />
dụng từ trong tiếng Việt hiện đại. Cùng với những sự tác động từ các ngoại ngữ <br />
phổ biến, sự tác động này làm cho tiếng Việt giàu thêm về mọi mặt, khiến cho nó <br />
sức đảm đương sứ mệnh là ngôn ngữ giao tiếp chung của đại gia đình các dân tộc <br />
Việt Nam.<br />
<br />