intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thơ mới như một hình thức giao tiếp nghệ thuật mới

Chia sẻ: NN NN | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

68
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với tư cách là người đọc thực tế, ở bài viết này, tác giả chủ yếu tìm hiểu cơ sở hình thành và những yếu tố ảnh hưởng tới hình thức giao tiếp, cách thức tổ chức giao tiếp nghệ thuật Thơ mới. Qua đó, khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của Thơ mới trong hành trình cách tân thơ ca dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thơ mới như một hình thức giao tiếp nghệ thuật mới

64 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 6 (236)-2015<br /> <br /> <br /> NGÔN NGỮ VỚI VĂN CHƢƠNG<br /> <br /> <br /> THƠ MỚI NHƢ MỘT HÌNH THỨC GIAO TIẾP<br /> NGHỆ THUẬT MỚI<br /> NEW POETRY AS A NEW FORM OF ARTISTICAL COMMUNICATION<br /> <br /> LA NGUYỆT ANH<br /> (TS; Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2)<br /> <br /> Abstract: Our article initially studies the formation basis and the factors that affect the<br /> form of communication, the way organizing communication in the art of New Poetry.<br /> Thereby, respectful contribution of New Poetry in the process of innovating the art of our<br /> national poetry is confirmed.<br /> Key words: New Poetry; artistic communication; language behaviour; speech subject;<br /> types of language; artistical communicative organization in New Poetry.<br /> <br /> 1. Đặt vấn đề sự tiếp xúc giữa các cá thể trong một cộng<br /> Lịch sử thơ ca cho thấy , mỗi thời đa ̣i đồng để truyền đạt một nội dung nào đó” [3,<br /> thƣờng gắ n với sƣ̣ l ựa chọn mô ̣t kiể u tr ữ 17].<br /> tình, một ý thức về sứ mệnh, vai trò của chủ Con ngƣời có thể giao tiếp với nhau bằng<br /> thể sáng tạo trong quan hệ với đời sống và nhiều phƣơng tiện nhƣ: bằng âm thanh, bằng<br /> “tầm đón đợi” của chủ thể tiếp nhận. Đó ánh sáng, bằng hoạt động vật lí... Trong đó,<br /> thực chất là sự thay đổi những quy ƣớc giao giao tiếp bằng âm thanh thông qua việc sử<br /> tiếp. Sự xuất hiện, phát triển của phong trào dụng ngôn ngữ tự nhiên của con ngƣời đƣợc<br /> Thơ mới đã ta ̣o ra mô ̣t bƣớc ngoă ̣t lớn trong xem là phƣơng tiện tiện lợi và hữu hiệu nhất,<br /> viê ̣c mở rộng khả năng giao tiế p trực tiế p diễn ra hàng ngày trong các cộng đồng ngôn<br /> của thơ . Đây là sƣ̣ cách tân có ý nghiã thi ngữ. Hoạt động giao tiếp bao gồm trong nó<br /> pháp. Trong đó ngôn ngữ - với tƣ cách là sự phát ra và nhận về thông tin. Để ngƣời<br /> một “mã” nghệ thuật đã thay đổi nhƣ là sự nhận hiểu đƣợc thông báo của ngƣời gửi,<br /> khẳng định bản chất của cái mới. ngôn ngữ trở thành khâu trung gian và là<br /> Với tƣ cách là ngƣời đọc thực tế, ở bài một “mã” thông báo.<br /> viết này, chúng tôi chủ yếu tìm hiểu cơ sở Trong giao tiếp hàng ngày, mục đích giao<br /> hình thành và những yếu tố ảnh hƣởng tới tiếp chủ yếu là truyền đạt thông tin. Ngƣời<br /> hình thức giao tiếp, cách thức tổ chức giao nói có thể vận dụng cả những phƣơng tiện<br /> tiếp nghệ thuật Thơ mới. Qua đó, khẳng định phi ngôn từ, miễn sao để ngƣời nhận nắm<br /> những đóng góp đáng trân trọng của Thơ đƣợc thông báo. Vì vậy, ngôn ngữ sử dụng<br /> mới trong hành trình cách tân thơ ca dân tộc. trong giao tiếp hàng ngày thƣờng mang tính<br /> 2. Nội dung chất ngẫu nhiên, tạm thời.<br /> 2.1. Khái niệm giao tiếp và giao tiếp Trong giao tiếp nghệ thuật, “ngôn ngữ<br /> nghệ thuật đƣợc lựa chọn, đƣợc tổ chức thành văn bản<br /> ―Giao tiếp (communication) là hiện cố định, sao cho nói một lần mà có thể giao<br /> tƣợng phổ biến trong các kiểu xã hội, đó là tiếp mãi mãi” [8, 198]. Ngƣời nghệ sĩ tiến<br /> Số 6 (236)-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 65<br /> <br /> <br /> bộ luôn muốn đi tìm phƣơng thức giao tiếp “chỉnh thể ngôn ngữ” trong giao tiếp nghệ<br /> sinh động với độc giả. L.Tolstoi cho rằng: thuật là “chỉnh thể ngôn ngữ sống động, cụ<br /> “Nghệ thuật là một trong những phƣơng tiện thể, chứ không phải cái ngôn ngữ nhƣ đối<br /> giao tiếp giữa ngƣời với ngƣời. Bất kì một tƣợng nghiên cứu chuyên biệt của ngôn ngữ<br /> tác phẩm nghệ thuật nào cũng đều làm công học”. M. Bakhtin cho rằng, “chỉnh thể ngôn<br /> việc khiến cho ngƣời cảm thụ tham gia vào ngữ” này “là biểu hiện và sản phẩm của sự<br /> sự giao tiếp với ngƣời đã hoặc đang sản sinh tác động qua lại của ba yếu tố xã hội là<br /> ra nghệ thuật cũng nhƣ với tất cả những ai ngƣời nói (tác giả), ngƣời nghe (ngƣời đọc)<br /> cùng một lúc với anh ta, trƣớc hoặc sau anh và cái đƣợc bàn luận hoặc là sự kiện (nhân<br /> ta đã cảm thụ hoặc sẽ cảm thụ ấn tƣợng nghệ vật)” [6]. Vì vậy, cần thiết phải xem xét<br /> thuật của anh ta” [Dẫn theo 5, 98]. ngôn từ trong tính đối thoại nội tại của nó và<br /> Đặc tính giao tiếp của văn học và nghệ đó cũng chính là yếu tố “có một sức mạnh<br /> thuật đã đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, cấu tạo phong cách vô cùng to lớn”. M.<br /> các nhà lí luận, các nhà thi pháp bàn đến ở Bakhtin khẳng định: “Sự giao tiếp đối thoại<br /> nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Để phục chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống<br /> vụ cho định hƣớng của đề tài chúng tôi xin của ngôn ngữ” [1, 191]. Với cách hiểu đó<br /> khái lƣợc một số quan điểm đƣợc trình bày của M. Bakhtin, giao tiếp nghệ thuật, thực<br /> sau đây. chất là cuộc đối thoại ngôn từ, đối thoại về ý<br /> Theo R. Jakobson, hoạt động giao tiếp thức xã hội. Văn bản nghê ̣ thuâ ̣t , vì vậy, trở<br /> nhƣ mô ̣t quá triǹ h sƣ̉ du ̣ng các “ma”̃ (code) thành một sản phẩm của hoạt động giao tiếp<br /> với quá trình lâ ̣p mã và giải mã của ngƣời đă ̣c thù. Tác phẩm văn học đƣợc xem nhƣ là<br /> phát và ngƣời nhâ ̣n . Các yếu tố cần thiết cho sản phẩm và sự kiện của sự tƣơng tác giữa ý<br /> sự giao tiếp bao gồm mô ̣t c ấu trúc hạt nhân thức của ngƣời nói và ý thức của ngƣời<br /> với sáu yếu tố cơ bản: ngƣời phát , ngƣời nghe, giữa ngƣời sáng tác và ngƣời thƣởng<br /> nhận, thông báo, ngữ cảnh, mã, tiếp xúc. thức.<br /> Hoạt động giao tiếp cần thiết phải chú ý đế n Quan điểm giao tiếp của M. Bakhtin có<br /> chức năng thơ (chƣ́c năng thẩ m mỹ ) của điểm gần với những mệnh đề nổi tiếng trong<br /> ngôn ngƣ̃ và xem đó nhƣ là “sƣ̣ đinh ̣ hƣớng lí thuyết diễn ngôn của M. Foucault. Trong<br /> của thông báo” (bằ ng các kí hiê ̣u ngôn ngƣ̃ ) cách hiểu của M. Foucault, diễn ngôn là hình<br /> vào chính bản thân nó” [11]. R. Jakobson thức biểu hiện ngôn ngữ của một quần thể<br /> cũng lƣu ý rằng , chƣ́c năng thơ không chỉ có ngƣời trong một điều kiện xã hội, lịch sử<br /> ở thơ ca mà ở khắp nơi trong mọi hình thức nhất định. Trong đó, cơ chế thầm kín chi<br /> giao tiế p ngôn ngƣ̃ , cả ở lời nói hàng ngày phối ngôn ngữ là ý thức xã hội, trạng thái tri<br /> và “trên xe điện” . R. Jakobson cho rằng: ứng thức của con ngƣời và cơ chế quyền lực xã<br /> xƣ̉ ngôn ngƣ̃ đƣơ ̣c thƣ̣c hiê ̣n tƣ̀ hai thao tác hội. Sự quan tâm của M. Foucault tới hệ<br /> cơ bản qua sƣ̣ lựa chọn và phố i hợp . Lý thống các hạn chế, các giới hạn đối với hành<br /> thuyế t giao tiế p của R .Jakobson hƣớng sƣ̣ vi ngôn ngữ là một bƣớc tiến mới trong nhận<br /> chú ý vào bản thân tổ chức lời thơ . thức luận. Theo M. Foucault, hƣớng nghiên<br /> Nếu R. Jakobson chủ yếu chú ý đến cứu cấu trúc vô tình đã tƣớc bỏ các điều kiện<br /> phƣơng tiện biểu đạt, thì M. Bakhtin lại đi hình thành và tạo tác văn bản, khiến văn bản<br /> xa hơn, quan tâm đến bản chất xã hội, thẩm bị cô lập nhƣ một thực thể tĩnh tại, còn các<br /> mĩ của vật liệu giao tiếp. Theo M. Bakhtin, nhân tố tạo nên ý nghĩa của văn bản thì lại bị<br /> 66 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 6 (236)-2015<br /> <br /> <br /> bỏ quên [6]. Ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thay đổi một nền văn hóa gần nhƣ đóng băng<br /> thuật, không phải là ngôn ngữ đã “ngủ quên” trong hàng nghìn năm ở Việt Nam.<br /> trong từ điển mà thứ ngôn ngữ mang chứa, Lần đầu tiên, văn hóa đô thị hiện đại xuất<br /> khúc xạ nhiều tầng vỉa khác nhau của lịch hiện ở Việt Nam, khác hẳn với văn hóa nông<br /> sử, văn hóa, xã hội, tôn giáo, các quan hệ đời thôn cổ truyền và đô thị thời phong kiến tập<br /> sống… Ở Việt Nam, từ cuối thế kỉ XIX đến quyền, tạo ra sự thay đổi rõ rệt trong xã h ội.<br /> đầu thế kỉ XX, đã diễn ra cuộc đảo lộn diễn Cùng với sự phát triển của các mô hình đô<br /> ngôn một cách dữ dội. Cuộc xung đột Thơ thị công - thƣơng nghiê ̣p , các ngành nghề<br /> cũ và Thơ mới thực chất là cuộc xung đột mới nhƣ : khai mỏ , chế biế n nông lâm sản…<br /> diễn ngôn, là sự xung đột giữa diễn ngôn cổ xuấ t hiê ̣n . Cơ cấ u xã hội thay đổi . Bên cạnh<br /> điển và diễn ngôn hiện đại... sự tồn tại của giai cấp phong kiến và nông<br /> Sự phát triển của tri thức về ngôn ngữ, về dân ở nông thôn là sự ra đời của tầ ng lớp tƣ<br /> lí luận ngôn từ, thi pháp ngôn từ cho thấy, sản, tiểu tƣ sản, tầng lớp công nhân ở thành<br /> giao tiếp nghệ thuật, thực chất là một ứng xử thị. Ngoài ra còn có các tiểu thƣơng , tiể u<br /> ngôn ngữ. Tham gia vào giao tiế p nghê ̣ chủ, nhƣ̃ng ngành nghề nhƣ bác si ̃ , luâ ̣t sƣ ,<br /> thuâ ̣t, ngôn tƣ̀ thơ ca của một thời kì lớn gắn nhà báo , nhà văn... Tầ ng lớp viên chƣ́c , giáo<br /> với đặc trƣng tƣ duy hình tƣợng của thời ấy, viên, sinh viên phát triể n với số lƣơ ̣ng lớn .<br /> là “hóa thạch” của đời sống tâm lí, xã hội; Trong đó tầ ng lớp trí thƣ́c tố t nghiê ̣p ở Pháp<br /> chịu sự ƣớc định của tri thức, quyền lực, hoă ̣c trong các trƣờng Pháp - Viê ̣t ngày càng<br /> trách nhiệm. đông. Họ đƣợc trang bị những tri thức mới,<br /> Nhƣ̃ng phân tích trên là cơ sở để chúng hiện đại. Đó là một trong những yếu tố hình<br /> tôi tiế n h ành nghiên cứu Thơ mới với tƣ thành những cá tính mới - trí thức Tây học<br /> cách là một hình thức giao tiế p nghê ̣ thuật bản địa - khác với trí thức Nho học thời<br /> đặc biê ̣t, một hiện tượng văn hóa, lịch sử, có phong kiến, khác với những “ông Tây An<br /> đặc trưng ngôn từ riêng và cách thức tổ Nam”!<br /> chức ngôn ngữ đặc thù. Văn minh đô thi ̣làm thay đổ i nế p số ng ,<br /> 2.2. Giao tiế p nghê ̣ thuật Thơ mới - một nế p cảm , thay đổ i th ị hiếu thẩm mĩ, nhâ ̣n<br /> hiê ̣n tượng văn hóa mới thƣ́c và suy nghi ̃ của ngƣ ời Việt Nam .<br /> 2.2.1. Những tiền đề lịch sử, văn hóa, xã Ngƣời ta thấ y ở nhà Tây hơn ở “nhà rƣờng”<br /> hội dẫn đến sự ra đời của Thơ mới nhiề u cô ̣t , đi xe hơi tiê ̣n hơn đi “xe tay” ,<br /> Cuố i thế k ỉ XIX đầ u thế k ỉ XX, thực dân dùng quạt điện tiện hơn dùng quạt giấy , quạt<br /> Pháp xâm lƣợc nƣớc ta và tiến hành khai mo cau. Ngƣời ta thích nghe nha ̣c Tây , thích<br /> thác thuộc địa. Trong vòng đô hô ̣ của thƣ̣c nhảy đầm, đo ̣c nhƣ̃ng tiể u thuyế t tiǹ h ái lañ g<br /> dân Pháp , xã hội Việt Nam chuyển sang một mạn... Các ấn phẩm văn học Pháp nguyên<br /> hình thái mới: xã hội thực dân nửa phong tác hoă ̣c đã dicḥ ra chƣ̃ quố c ngƣ̃ đƣơ ̣c bày<br /> kiến. Đây là “một phen thay đổi sơn hà”, về bán rộng rãi , đáp ƣ́ng văn hóa đo ̣c của công<br /> cơ bản không thuận chiều nhƣng rất lớn lao. chúng đô thị... Trong cuô ̣c đổ i thay nhƣ vâ ̣y ,<br /> Việt Nam dần thoát ly khỏi nền văn hóa xuấ t hiê ̣n nhi ều con ngƣời khác trƣớc , nhiề u<br /> Trung Hoa, nhƣng lại chịu ảnh hƣởng của quan niê ̣m khác trƣớc ...<br /> văn hóa phƣơng Tây, mà chủ yếu là văn hóa Văn học với tƣ cách là một hình thái ý<br /> Pháp. Mặc dù là sự tiếp nhận không tự giác, thức xã hội cũng phải đổi mới. Văn ho ̣c<br /> nhƣng phƣơng Tây nhƣ luồng gió mới làm chuyể n tƣ̀ chƣ́c năng công cu ̣ , nói một cách<br /> Số 6 (236)-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 67<br /> <br /> <br /> tƣơng đối, sang chƣ́c năng nghê ̣ thuâ ̣t . Nế u hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ<br /> trƣớc đây văn ho ̣c c hủ yếu thực hiện nhiệm tình. Vì vậy thơ trữ tình đã đƣợc khẳng định<br /> vụ truyên truyền , giáo hóa (văn di ̃ tải đạo , là “vƣơng quốc chủ quan” (Biêlinxki), là “sự<br /> thi di ̃ ngôn chí ), đến giai đoạn này , văn ho ̣c biểu hiện và cảm thụ của chủ thể” (Hegel).<br /> mang mu ̣c đić h tƣ̣ thân hƣớng đế n nhƣ̃ng Tuy nhiên không phải lúc nào đặc trƣng này<br /> cảm xúc nhân bản , những nhu cầu khẩn thiết của thơ cũng đƣợc bộc lộ rõ.<br /> của con ngƣời. Lúc này, nhu cầu cách tân Trong tiến trình văn học dân tộc, thơ trữ<br /> không chỉ là nhu cầu của bản thân văn học tình đã có bề dày lịch sử gắn với dòng chảy<br /> nữa - đổi mới là đáp ứng nhu cầu khách bốn ngàn năm của thơ trữ tình dân gian và<br /> quan của thời đại. Chính sự đổi thay này đã hàng ngàn năm của thơ trữ tình trung đại.<br /> đặt ra nhiều vấn đề mới. Tác phẩm văn học Song thơ trữ tình dân gian là sản phẩm của<br /> bắt đầu thành hàng hóa. Viết văn trở thành tập thể, hiển nhiên yếu tố chủ quan bị triệt<br /> một nghề. Lực lƣợng sáng tác, công chúng tiêu. Chủ thể trữ tình thƣờng xuất hiện qua<br /> văn học, phƣơng tiện in ấn thay đổi... đòi hỏi cách xƣng hô phiếm chỉ nhƣ: anh - em<br /> văn học phải tự đổi mới. Đặc biệt, việc sử (―Anh buồn có chốn thở than/ Em buồn như<br /> dụng chữ quốc ngữ đã thôi thúc họ nói lên ngọn nhang tàn thắp khuya”); thiếp - chàng<br /> nỗi niềm của mình, bằng “ngôn ngữ của (“Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây/ Như<br /> mình”… chim chèo bẻo xa cây măng vòi”); mình - ta<br /> Hoàn cảnh lịch sử, quá trình tiếp xúc văn (“Mình nói với ta mình vẫn còn son/ Ta đi<br /> hóa, văn học phƣơng Tây (đặc biệt là văn qua ngõ thấy con mình bò…‖). Cách xƣng<br /> hóa, văn học Pháp) đã tạo thành một “cú hô đó khiến bất kì ai cũng có thể trở thành<br /> hích” quan trọng thúc đẩy quá trình đổ i mới chủ thể trữ tình khi ngƣời đó ngân lên lời ca<br /> văn hóa, văn học Việt Nam. “Cái sức mạnh với niềm đồng cảm.<br /> súc tích từ mấy ngàn năm nhất đản tung bờ Trong thơ trung đại Việt Nam, chủ thể trữ<br /> vỡ đê” [9, 29]. Phƣơng Tây đã làm thay đổi tình mang một tƣ thế trữ tình đặc trƣng. Xét<br /> mọi sinh hoạt, mọi quan niệm của ngƣời về tên gọi, “trữ tình” là một khái niệm hiện<br /> Việt Nam. Ý thức dân chủ lan tỏa trong đời đại. Bản thân các nhà thơ trung đại khi muốn<br /> sống dẫn đến những biến chuyển sâu sắc bộc lộ nỗi lòng mình thì họ gọi đó là “ngôn<br /> trong tinh thần thời đại. Yêu cầu hiện đại hoài”, “thuật hoài”, “ngôn chí”, “tự tình”,<br /> hóa văn học đƣợc đặt ra một cách cấp bách. “mạn thuật”…Trong đó “ngôn”, “tự”,<br /> Trong xu thế chung đó, “cuộc cách mạng “mạn”, “thuật”…là cách trữ tình, “chí”,<br /> Thơ mới” có đầy đủ điều kiện để nảy sinh và “tình”, “hoài”… là nội dung trữ tình. Ý thức<br /> phát triển, tạo nên một cuộc cách mạng thi trữ tình truyền thống là thuật, kể nỗi lòng,<br /> ca với định hƣớng mới và bằ ng mô ̣t hiǹ h cảm xúc, chí hƣớng của mình. Vì vậy thơ<br /> thƣ́c giao tiế p nghê ̣ thuâ ̣t mới. trung đại đƣợc xem là thơ “tự tình”, thơ<br /> 2.2.2. Chủ thể lời nói trong giao tiếp “ngôn chí” [7, 148]. Phạm vi chủ quan trong<br /> nghệ thuật Thơ mới thơ trung đại là chí hƣớng, hoài bão: “Vòng<br /> Về bản chất, thơ trữ tình là phƣơng thức trời đất dọc ngang, ngang dọc / Nợ tang<br /> biểu hiện trực tiếp các trạng thái cảm xúc và bồng vay trả, trả vay / Chí làm trai nam bắc<br /> suy tƣ của nhà thơ trƣớc các hiện tƣợng đời đông tây/- Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn<br /> sống. Trong đó, tính chất cá thể hóa của cảm bể ” (Chí khí anh hùng - Nguyễn Công Trứ).<br /> nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể Nhu cầu tỏ chí khiến cho “con ngƣời dù đặt<br /> 68 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 6 (236)-2015<br /> <br /> <br /> tên, đặt tự đều tỏ chí, nói năng, tƣ thế, động của chủ thể. Chủ thể lời nói trong Thơ mới<br /> tác cũng tỏ chí, nhân vật ngoài đời và trong xuấ t hiê ̣n “nga ̣o nghễ” , “không e ấ p , sơ ̣ sê ̣t”<br /> văn học đều tỏ chí” [7, 150]. Các nhà nghiên (Nguyễn Đăng Điê ̣p ). Sự xuất hiện của chủ<br /> cứu gọi kiểu trƣ̃ tiǹ h trung đại là “ngôn chí”. thể khiến giao tiếp thơ ca thành hoạt động có<br /> Mệnh đề nói chí trong văn học trung đại trở tƣơng tác, khác với kiểu độc thoại triền miên<br /> thành một mã tri thức một công thức điều trong thơ trung đại. Chủ thể trữ tình Thơ<br /> khiển ngôn ngữ thi ca. Các nhà thơ trung đại mới xác lập một “kênh” giao tiếp mới. Khác<br /> luôn hƣớng về lời dạy của thánh hiền, chí với trạng thái “vô nhân xƣng” thƣờng thấy<br /> của họ, đức của họ là chí, đức của bậc quân của chủ thể trữ tình trong thơ trung đại, Thơ<br /> tử. Nhà thơ trung đại, vì vậy , ít có nhu cầu mới là tiế ng nói của t ừng cá nhân cu ̣ thể .<br /> bộc lộ cá tính, dấu ấn cá nhân mờ nhạt. Cảm Chủ thể trữ tình Thơ mới thƣờng bày tỏ trực<br /> xúc trong thơ đƣợc gợi lên bằng tính khách tiếp “cái tôi” chủ quan, nội cảm. Sự thống trị<br /> thể: “Êm ái chiều xuân tới Khán đài/ Lâng của cái chủ quan đã xác lập nội hàm mới của<br /> lâng chẳng bợn chút trần ai” (Đài Khán hình tƣợng chủ thể trữ tình trong Thơ mới.<br /> Xuân - Hồ Xuân Hƣơng ). Kiểu “ngôn chí”, Đúng nhƣ Nguyễn Đăng Điệp nhận xét: “Mô<br /> “tỏ lòng” trong thơ trung đại có xu hƣớng hình danh từ + là + danh từ trở thành mô<br /> xóa nhòa ranh giới giữa chủ thể và khách hình cú pháp cơ bản khi các nhà thơ mới tìm<br /> thể, tiếng nói trong thơ là tiếng nói siêu cá cách xác lập và khẳng định vị thế của cái tôi<br /> thể. Chủ thể trữ tình ít khi xuất hiện trực cá thể trong thơ” [4, 211]:<br /> diện mà thƣờng ở trạng thái vô nhân xƣng Tôi là một kẻ mơ màng / Yêu sống trong<br /> dẫu tâm trạng đƣợc nói đến là của một cá đời giản dị, bình thường (Trả lời - Thế Lữ)<br /> nhân: “Chom chỏm trên sông đá một hòn/ Tôi là một kẻ điên cuồng / Yêu những ái<br /> Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn?/- Phơ đầu<br /> tình ngây dại (Thở than - Xuân Diệu)<br /> đã tự đời Bàn Cổ/ Bia miệng còn đeo tiếng<br /> Các nhà thơ trung đại cố giấu “cái tôi” cá<br /> trẻ con/ Rừng cúc tiền triều trơ mốc thếch/<br /> nhân bằng cách tỉnh lƣợc đại từ nhân xƣng<br /> Hòn câu Thái phó tảng rêu tròn/ Trải bao<br /> ngôi thứ nhất. Theo các tác giả Thi nhân Việt<br /> trăng gió xuân già giặn/ Trời dẫu già, nhưng<br /> Nam, suốt trong 538 câu Tự tình khúc của<br /> núi vẫn non” (Chơi núi Non Nước - Nguyễn<br /> Cao Bá Nhạ, “chữ tôi không có đã đành, mà<br /> Khuyến). Bài thơ chạm khắc hình ảnh Dục<br /> cũng không có lấy một chữ ta” [9, 45]. Nếu<br /> Thúy sơn cùng những giai thoại xung quanh<br /> có xƣng “tôi” thì “cái tôi” ấy chủ yếu là sự<br /> danh thắng này. Đằng sau câu chữ là tâm<br /> thể hiện của “cái tôi” tác giả: ―Cái khó theo<br /> trạng, nỗi niềm của nhà thơ. Nhƣng suốt tám<br /> nhau mãi thế thôi/ Có ai hay chỉ một mình<br /> dòng thơ, chủ thể không hề xuất hiện. Đây<br /> chính là bút pháp đặc trƣng trong thơ trung tôi?‖ (Than nghèo - Nguyễn Khuyến). Khác<br /> đại. Lời thơ trở thành “tiếng nói giữa trời” với thơ trung đại, các nhà thơ mới lại muốn<br /> (Chế Lan Viên). Giao tiếp nghệ thuật trong nói thật to, trình ra “cái tôi” cá nhân. Chẳng<br /> thơ, vì vậy, thƣờng mang tính chất gián tiếp. hạn, bài Dối trá của Xuân Diệu, trong 73<br /> Là sản phẩm của thời đại giao lƣu văn dòng thơ, 33 lần nhà thơ xƣng “tôi”. Bài<br /> hóa và chịu ảnh hƣởng của tƣ duy nghệ thuật Trên bãi bể của Phạm Huy Thông, gồm 310<br /> hiện đại, giao tiếp nghệ thuật Thơ mới khác dòng thơ, 160 lần nhà thơ xƣng “tôi”. Trong<br /> hẳn hình thức giao tiếp trong thơ trung đại. đó có những dòng thơ của Phạm Huy Thông<br /> Sự khác biệt này thể hiện trƣớc hết ở vị trí từ “tôi” xuất hiện liên tục:<br /> Số 6 (236)-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 69<br /> <br /> <br /> - Vì nàng tôi vui sướng, tôi say mê, tôi tê trƣng và siêu thực phƣơng Tây (mà chủ yếu<br /> tái; là của các nhà thơ Pháp )... Nếu Thế Lữ là<br /> - Tôi cố công, tôi cố sức, tôi cười vang nhà thơ lãng mạn thuần túy thì Xuân Diệu đã<br /> “Cái tôi” - chủ thể trữ tình trong Thơ mới cất lên những nốt “nguyệt cầm” tƣợng trƣng.<br /> còn có những biểu hiện vô cùng phong phú: Huy Cận vừa lãng mạn vừa tƣợng trƣng.<br /> là “em”: “Em nhớ năm em mới lên mười / Hàn Mặc Tử, Bích Khê lại vừa tƣợng trƣng<br /> Tóc em buôn/xõa chấm ngang vai” (Năm vừa siêu thực... Theo đó, thế giới ngôn từ<br /> qua - J. Leiba); là “anh”: “Lòng anh vô cớ Thơ mới cũng chuyển động liên tục. Từ lãng<br /> nhớ xa khơi” (Ý xuân - Huyền Kiêu); là “ta”: mạn thuần túy, tinh khiết, trong trẻo ngày<br /> “Năm xưa ta lại chốn này/ Hồ thu nước mới đầu, Thơ mới nhanh chóng chuyển sang<br /> chau mày với thu” (Nàng con gái họ Dương tƣợng trƣng rồi siêu thực. Song ở Thơ mới,<br /> - Phan Văn Dật)... Những cách xƣng hô này khó có thể có một lát cắt rạch ròi để phân xu<br /> ta đã từng gặp trong thơ trữ tình dân gian, hƣớng mà đây là sự ảnh hƣởng đan xen,<br /> thơ trữ tình trung đại và trở thành phổ biến xuyên thấm.<br /> trong thơ Việt Nam sau 1945. Nhƣng sự Với nhiều nỗ lực, các nhà thơ mới đã<br /> xuất hiện này ở thời điểm Thơ mới mang ý trình bày khát vọng sáng tạo mới:<br /> nghĩa cách tân lớn, khẳng định ý thức chủ Mộng viết lên từng bản điếu tang dài /<br /> quan của chủ thể. Với ý thức bộc lộ “cái tôi” Lời văn thư kinh dị/ Nghệ Thuật cười một<br /> cá nhân một cách trực tiếp, Thơ mới giải tiếng bi ai (Thoát duyên trần cấu - Đinh<br /> phóng triệt để cá tính sáng tạo của ngƣời Hùng)<br /> nghệ sĩ cho phép sự nảy nở tự do của các Họ tận lực, tận hiến cho sáng tạo nghệ<br /> phong cách nghệ thuật. Sƣ̣ giải phóng cá tiń h thuật mà đỉnh cao chính là sáng tạo ngôn từ.<br /> đƣa đế n sƣ̣ giải phóng cách nghi ̃ , cách cảm , Nhà thơ không chỉ chú ý trút xả nguồn cảm<br /> cách diễn đạt bằng những hình tƣợng mới , xúc mà tạo nên những ma thuật ngôn từ gây<br /> ngôn ngƣ̃ mới để trình bày thế giới tâm hồ n ám gợi:<br /> phƣ́c ta ̣p, đầ y bí ẩ n . Ngôn từ Thơ mới cũng Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút/ Mỗi<br /> hình thành một hệ thống với những đặc thù lời thơ đều dính não cân ta/(…)Đừng nắm<br /> riêng mang đậm tính chủ quan. lại nguồn thơ ta đang siết/ Cả lòng ta trong<br /> Tuy nhiên, chủ thể lời nói trong Thơ mới mớ chữ rung rinh (Rướm máu - Hàn Mặc<br /> không phải là mô ̣t hiê ̣n tƣơ ̣ng thuầ n nhấ t . Tử)<br /> Trong thực tế phát triển, Thơ mới có những Mang trong mình mĩ học của chủ nghĩa<br /> khuynh hƣớng khác nhau, ở mỗi khuynh lãng mạn và chịu ảnh hƣởng của mĩ học<br /> hƣớng lại có những nhánh rẽ. Cũng vì vậy, tƣợng trƣng, siêu thực, Thơ mới đã thể hiện<br /> hình tƣợng chủ thể lời nói trong giao ti ếp sâu sắc tinh thần của thời đại mới. Những<br /> nghệ thuật Thơ mới rất phong phú: có kiểu “tảng băng” trong “vô thức” sáng tạo đến<br /> hình tƣợng lãng m ạn thuần túy, kiểu hình thời khắc này đã tan chảy, bùng vỡ một cách<br /> tƣơ ̣ng lãng m ạn siêu thực, kiểu hiǹ h tƣơ ̣ng mãnh liệt để tạo nên những “cuộc nổi loạn<br /> lãng mạn tƣợng trƣng... Quan sát hành trình ngôn từ”. Trong quá trình vận động, giao<br /> Thơ mới có thể nhận thấy, Thơ mới Việt tiếp nghệ thuật Thơ mới, một mặt, chống lại<br /> Nam “hấp thụ” đƣợc tinh thầ n của các nhà hình thức giao tiếp thời trung đại nhƣ một<br /> thơ lañ g ma ̣n và cả nh ững cảm nhận “tinh phủ định lịch sử, nhƣng mặt khác, nó vẫn<br /> vi”, “huyền nhiệm” của các thi phái tƣợng chịu khúc xạ của văn học trung đại và văn<br /> 70 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 6 (236)-2015<br /> <br /> <br /> học truyền thống. Đó là sự khúc xạ của đã bƣớc vào vi ̣trí trung tâm văn ho ̣c . Mô<br /> những trầm tích văn hóa. hình cuộc sống hiện đại cùng sự tự do thể<br /> 2.2.3. Loại hình ngôn từ và t ổ chức giao hiê ̣n đã mở đƣờng cho nh ững phát triể n của<br /> tiế p nghê ̣ thuật Thơ mới hình thức văn học mới . Kiể u lâ ̣p ngôn nhƣ<br /> Trong thơ ca trung đại, nghệ thuật từ thế này khó đƣơ ̣c chấ p nhâ ̣n ở thời trung đa ̣i<br /> chƣơng đã chi phối mạnh mẽ hình thức giao đến thời đại Thơ mới lại tr ở nên hấp dẫn:<br /> tiếp. Nhà thơ trung đại coi phép làm thơ chủ “Tôi là người bộ hành phiêu lãng/ Đường<br /> yếu là “luyện chữ”, “luyện câu”, cố t sao để trần gian xuôi ngược để vui chơi” (Cây đàn<br /> nói chí , tỏ lòng . Bài thơ xuất sắc phải có muôn điệu - Thế Lữ). Phạm vi thơ đƣợc mở<br /> “nhãn tự”, “thần cú”. Đỗ Phủ từng nói: “Chữ rô ̣ng. Nói nhƣ Xuân Diệu: “Đây là quán tha<br /> dùng chƣa kinh động lòng ngƣời thì chết hồ n muôn khách đế n/ Đây là bình thu hợp trí<br /> chƣa yên”. Tiêu chuẩn của lời thơ, theo các muôn phương/ Đây là vườn chim nhả hạt<br /> nhà thơ và nhà lí luận Trung Hoa là phải mười phương/ Hoa mật ngọt chen giao cùng<br /> khéo, phải đắt. Con chữ khi đặt lên trang trái độc” (Cảm xúc).<br /> giấy phải sống động, cựa quậy, phải kêu Trong mạch vận động đó , nhãn quan<br /> vang, phải gây đƣợc ấn tƣợng mạnh, gây tác ngôn ngƣ̃ cũng thay đổ i . Nhãn quan ngôn<br /> động cho cảm nhận, mang tinh thần của toàn ngữ Thơ mới gắn với nhãn quan ngôn ngữ<br /> bài, mang tài nghệ, khí lực của tác giả. Tài cá nhân và dòng ngữ điệu cảm xúc . Sức<br /> nghệ của nhà thơ chủ yếu thể hiện ở kĩ thuật dung chứa của nó rất lớn, mở rộng khả năng<br /> đúc chữ, luyện câu, điểm nhãn sao cho đắt, biểu hiện và năng lƣ̣c biể u đa ̣t . Trong nhiều<br /> cho cân xứng, hài hòa. Nỗ lực đầu tiên trong<br /> nỗ lực, thi nhân thơ mới đã góp phần tạo<br /> việc luyện chữ của các nhà thơ trung đại là<br /> dáng lại cho câu thơ. Hệ quả là câu thơ Thơ<br /> làm sao gột hết dấu vết chủ quan thì mới<br /> mới mang đậm chất điệu nói. Giao tiếp nghệ<br /> hay.<br /> Tính quy phạm khiến thơ trung đại giống thuật Thơ mới mang đậm chất điệu nói. Câu<br /> nhƣ bình pha lê cổ kính trong suốt. Ngƣời thơ sinh đô ̣ng và đầ y bấ t ngờ : “Đã mấ y xuân<br /> thợ cao tay phải tạo đƣợc sản phẩm không tì về , ai chả đế n / Khói trầm bên án tỏa chơi<br /> vết. Nhà thơ phải tạo đƣợc “lời văn óng ả, vơi/ (…) Đấy hẳn ? đồ i xa chân ngựa chạy /<br /> câu văn mƣợt mà” để diễn đạt tình ý (Ngô Thôi rồ i ! song vắ ng lá bàng rơi !...‖ (Mong<br /> Thì Nhậm). Thơ trung đại loại bỏ ngôn ngữ đợi - Ngân Giang). Kiểu câu thơ “ý tại ngôn<br /> thông thƣờng. Nghệ thuật từ chƣơng đã ngoại” không còn phù hợp cho “cảm xúc<br /> khiến ngôn ngữ trung đại đậm chất nghi tràn bờ” của các nhà thơ mới. Câu thơ không<br /> thức. Lời văn nghi thức với những mai cốt thể đúc trong nhƣ̃ng khuôn hình c ố định mà<br /> cách, tuyết tinh thần; hoa cười ngọc thốt trở thành dòng tâm trạng, nó tuôn chảy theo<br /> đoan trang… tạo thành lối diễn đạt ƣớc lệ. Ý cảm xúc: Tôi muốn sống cuộc đời thi sĩ, để/<br /> thức nghi thức khiến làm thơ phải đăng đối,<br /> Uống say nồng nhưng chỉ thấy chua cay<br /> chỉnh tề với sự quy định chặt chẽ trong thể<br /> (Lựa tiếng đàn - Thế Lữ).<br /> thức: niêm, đối, vần, nhịp...<br /> Thơ mới ra đời làm thay đổ i hê ̣ hình tƣ Văn bản Thơ mới, vì thế, gây ấn tƣợng bề<br /> duy tƣ̀ng tồ n ta ̣i hàng nghiǹ năm trong văn bộn nhƣng chính từ đó đã tạo nên những bất<br /> học Việt Nam. Con ngƣờ i cá nhân với nhƣ̃ng ngờ cú pháp, điều mà rất ít gặp ở thơ Trung<br /> nỗi niề m riêng tƣ , nhƣ̃ng ha ̣nh phúc, khổ đau đại: “Lạ quá! Làm sao tôi cứ buồn?/ Làm<br /> Số 6 (236)-2015 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG 71<br /> <br /> <br /> sao tôi cứ khổ luôn luôn?/ Làm sao tôi cứ một “gƣơng mặt” mới và đã góp phần cách<br /> tương tư mãi/Người đã cùng tôi phụ rất tân ngôn ngữ thơ ca dân tộc.<br /> tròn?” (Vâng - Nguyễn Bính). TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> Hình thức giao tiếp nghệ thuật Thơ mới là 1. Bakhtin. M (2003), Lí luận và thi pháp<br /> sự biểu hiện trƣ̣c tiế p giƣ̃a chủ thể với chính tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cƣ tuyển chọn và<br /> mình, giƣ̃a chủ thể với khá ch thể thẩ m mỹ . dịch), In lần thứ hai, Nxb Hội Nhà văn, Hà<br /> Ở đó, con ngƣời cá nhân tƣ̣ ý thƣ́c trở thành Nội.<br /> trung tâm của vũ tru ̣ , họ nói lên tiếng nói 2. Bakhtin M. (2012), Vấ n đề thể loại lời<br /> tâm hồn bằ ng ngôn t ừ của chính mình : “Tôi nói (Lã Nguyên d ịch), in trong sách Lí luận<br /> văn học những vấn đề hiện đại, Nxb Đại học<br /> gửi lòng tôi, tôi gửi hồn tôi/ Không giấu<br /> sƣ phạm Hà nội.<br /> giếm, như một con đường thẳng‖ (Tặng thơ<br /> 3. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp,<br /> - Xuân Diệu). Với nhiề u nỗ lƣ̣c , các nhà thơ<br /> diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục,<br /> mới đã tạo ra bƣớc ngoặt trong việc mở rộng<br /> Hà Nội.<br /> khả năng giao tiếp trực tiếp của thơ, góp<br /> 4. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu<br /> phần tạo nên chuyển biến quan trọng trong trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.<br /> quá trình hiện đại hóa ngôn ngữ thơ. 5. Khraptrenco, M. B. (1978), Cá tính<br /> 3. Kết luận sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học<br /> Thành tựu rực rỡ của Thơ mới là kết quả (Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch), Nxb Tác phẩm<br /> của quá trình tích tụ bền bỉ từ những trầm mới, Hà Nội.<br /> tích văn hóa, văn học dân tộc, với bƣớc 6. Trần Đình Sử (2013), Khái niệm diễn<br /> chuẩn bị lâu dài từ những thập niên đầu của ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay<br /> thế kỉ XX, sự tích hợp độc đáo những nguồn http://trandinhsu.wordpress.com/, 4 tháng 3<br /> ảnh hƣởng của cả phƣơng Đông và phƣơng năm 2013.<br /> Tây. Kết quả là Thơ mới đã sáng tạo một 7. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn<br /> chủ thể nghệ thuật mới, trƣ̣c tiế p tham gia học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc<br /> vào quá trình giao tiếp nghệ thuật , thể hiện gia, Hà Nội.<br /> 8. Trần Đình Sử (2011), Dẫn luận thi<br /> thế giới nội tâm bằ ng tiế ng nói của chính<br /> pháp học, Nxb giáo dục, H.<br /> mình v ới những dạng thức vô cùng đa dạng,<br /> 9. Hoài Thanh, Hoài Chân (1998), Thi<br /> phong phú và hấp dẫn.<br /> nhân Việt Nam, In lần thứ mƣời bốn, Nxb Văn<br /> Thơ mới đã ta ̣o ra mô ̣t bƣớc ngoă ̣t lớn<br /> học, Hà Nội.<br /> trong viê ̣c mở rô ̣ng khả năng giao tiế p trƣ̣c 10. Thơ mới 1932 - 1945: Tác giả và tác<br /> tiế p của thơ . Đây là sƣ̣ cách tân có ý nghiã phẩm (2004), In lần thứ sáu, Nxb Hội Nhà<br /> thi pháp . Trong đó, ngôn tƣ̀ - yế u tố thƣ́ nhấ t văn, Hà Nội.<br /> của sáng tạo văn học - sẽ thay đổi nhƣ là sự 11. Jakobson R. (2001), Ngôn ngữ học và<br /> khẳ ng đinh ̣ bản chấ t của cái mới . Phong trào thi học (Cao Xuân Hạo dịch), Tạp chí Ngôn<br /> Thơ mới đã mang lại cho thơ ca Việt Nam ngữ, (14), tr.51-58.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2