ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 9(130).2018<br />
<br />
21<br />
<br />
THỬ NGHIỆM KHẢ NĂNG CHỐNG ĂN MÒN CỦA BENZOTRIAZOLE<br />
ĐƯỢC LƯU TRỮ TRONG TiO2 NANO ỐNG<br />
TEST OF ANTI-CORROSION ACTIVITY OF BENZOTRIAZOLE CONTAINED<br />
IN TiO2 NANOTUBE<br />
Nguyễn Thị Diệu Hằng1, Nguyễn Duy Phương1, Trần Nguyên Tiến2<br />
1<br />
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; ntdhang@dut.udn.vn<br />
2<br />
Đại học Kyung Hee; trannguyentien.hcm@gmail.com<br />
Tóm tắt - Vật liệu nanocomposite TiO2 nano ống lưu trữ BTA<br />
(BTA/TNT) được tổng hợp từ nguồn TiO2 công nghiệp (TiO2,Co) rẻ<br />
tiền và chất ức chế ăn mòn Benzotriazole (BTA) bằng phương<br />
pháp biến đổi thủy nhiệt kết hợp với quá trình tẩm ở áp suất chân<br />
không. Bằng các phương pháp hóa lý hiện đại cho thấy, cấu trúc<br />
chủ yếu của TiO2 nano có dạng ống tức nanotubes (TNT), có bề<br />
mặt riêng lớn hơn nhiều so với TiO2,Co. Nghiên cứu đã thành công<br />
trong việc sử dụng TNT như một nanocontainer để lưu trữ và phát<br />
tán chất ức chế ăn mòn BTA. Khả năng chống ăn mòn cao của các<br />
lớp phủ chứa vật liệu nanocomposite BTA/TNT được đánh giá<br />
bằng phương pháp ngoại suy Tafel và phơi tự nhiên ngoài trời.<br />
Đây là tiền đề cho việc chế tạo lớp phủ có khả năng chống ăn mòn<br />
thông minh, hiệu quả và chủ động.<br />
<br />
Abstract - Nanocomposite material BTA containing TiO2<br />
nanotubes (BTA/TNT) are synthesized from inexpensive industrial<br />
TiO2 precursor (TiO2,Co) and corrosion inhibitor of Benzotriazole<br />
(BTA) by the combination of hydrothermal treatment with vacuum<br />
impregnation process. Using modern characterization methods<br />
show that the structure of TiO2 nanotubes (TNT) is primarily tubular<br />
with large specific surface than TiO2,Co. This study is successful in<br />
using TNT as a nanocontainer to store and distribute BTA corrosion<br />
inhibitor. The high anti-corrosion activity of coating added BTA/TNT<br />
is tested by Tafel extrapolation method and natural outdoor<br />
exposure. This is a prerequisite for processing the intelligent,<br />
efficient and proactive anti-corrosion coating.<br />
<br />
Từ khóa - TiO2; ống nano; benzotriazole; chống ăn mòn; lớp phủ.<br />
<br />
Key words - Titanium dioxide; nanotubes; benzotriazole; anticorrosion; coating.<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Ăn mòn kim loại và hợp kim là một vấn đề toàn cầu vì<br />
nó gây ra sự mất mát lớn về kinh tế, cũng như làm ảnh hưởng<br />
xấu đến môi trường xung quanh. Theo đánh giá của Chương<br />
trình phát triển Liên Hợp Quốc, ăn mòn kim loại làm tổn thất<br />
tới 3% tổng sản phẩm quốc gia [1]. Vì vậy, nghiên cứu về ăn<br />
mòn và bảo vệ kim loại đã được các nhà khoa học quan tâm<br />
từ lâu. Việc sử dụng của lớp phủ trên bề mặt kim loại và hợp<br />
kim là một trong những phương pháp hiệu quả để chống lại<br />
sự ăn mòn. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành công<br />
nghệ sơn và lớp phủ bề mặt, các loại sơn có khả năng ức chế<br />
ăn mòn đang được chú trọng nghiên cứu.<br />
Chất ức chế ăn mòn được sử dụng để kiểm soát hoặc<br />
kìm hãm sự ăn mòn. Bảo vệ kim loại và các hợp kim không<br />
bị ăn mòn bằng cách sử dụng chất ức chế được gọi là sự<br />
bảo vệ ăn mòn chủ động. Điều này có thể được thực hiện<br />
bằng cách kết hợp chất ức chế ăn mòn trong lớp phủ rào<br />
cản thụ động. Có thể thêm các chất ức chế ăn mòn vào lớp<br />
phủ bằng cách cấy (doping) trực tiếp, doping micro hay<br />
doping nano. Doping nano được hiểu là thêm chất ức chế<br />
vào vật liệu lưu trữ ở kích thước nano, còn gọi là<br />
nanocontainer. Khi các nanocontainer chứa chất ức chế<br />
được phân tán trong lớp phủ, chúng có thể phát tán chất ức<br />
chế ăn mòn theo yêu cầu trong quá trình ăn mòn và bảo vệ<br />
kim loại. Theo mô hình của Arunchandran C. và cộng sự<br />
[2] (Hình 1), khi bề mặt kim loại bị tổn thương, chất ức chế<br />
ăn mòn di chuyển từ bên trong nanocontainer đến vị trí bị<br />
tổn thương để hàn gắn và bảo vệ bề mặt kim loại. Giải pháp<br />
thông minh này giúp lưu trữ chất ức chế và tránh được bất<br />
kỳ sự tương tác bất lợi nào của chất ức chế đối với lớp phủ.<br />
Nghiên cứu của Zheludkevich và cộng sự cho thấy [3], việc<br />
đưa trực tiếp các chất ức chế ăn mòn vào lớp phủ thụ động<br />
đã có ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng chống ăn mòn của<br />
<br />
chúng, dẫn đến sự mất hoạt tính của chất ức chế. Đồng thời<br />
phương pháp sử dụng nanocontainer còn tránh sự rửa trôi<br />
và đảm bảo phát tán thông minh và bền vững của chất ức<br />
chế theo yêu cầu.<br />
<br />
Hình 1. Sự di chuyển chất ức chế ăn mòn để bảo vệ<br />
bề mặt kim loại [2]<br />
<br />
Benzotriazole (BTA) là hợp chất amine có khả năng<br />
ứng dụng cao. Nó được sử dụng để làm chất ức chế trong<br />
nhũ ảnh và làm thuốc thử để xác định bạc. Quan trọng hơn,<br />
BTA được sử dụng rộng rãi như một chất ức chế ăn mòn<br />
trong môi trường không khí và môi trường nước. BTA đã<br />
được chứng minh là một chất ức chế ăn mòn hiệu quả cho<br />
các kim loại và hợp kim khác nhau [4], [5], [6].<br />
TiO2 cấu trúc nano là một trong những thành phần rất<br />
quan trọng trong lĩnh vực khoa học vật liệu nhờ vào những<br />
ưu điểm nổi bật của nó, như không độc hại và thân thiện<br />
với môi trường, có tính thích ứng sinh học và chống ăn mòn<br />
cao… Các tính chất này đã làm cho TiO2 được ứng dụng<br />
trong nhiều lĩnh vực khác nhau [7]. Trong đó có việc sử<br />
dụng TiO2 dạng ống nano như một nanocontainer để lưu<br />
<br />
Nguyễn Thị Diệu Hằng, Nguyễn Duy Phương, Trần Nguyên Tiến<br />
<br />
22<br />
<br />
trữ các loại chất ức chế ăn mòn [8].<br />
Trên cơ sở đó, nhóm tác giả mong muốn tạo ra lớp phủ<br />
bảo vệ chống ăn mòn cho bề mặt kim loại bằng cách kết<br />
hợp các tính năng ưu việt của hai hợp chất TiO2 nano ống<br />
và BTA.<br />
2. Thực nghiệm<br />
2.1. Các quá trình tổng hợp<br />
2.1.1. Tổng hợp TiO2 nanotube (TNT)<br />
TNT được tổng hợp từ nguồn TiO2 công nghiệp rẻ tiền.<br />
Hỗn hợp TiO2 công nghiệp (TiO2,Co) và dung dịch NaOH<br />
10M với tỷ lệ mol TiO2:NaOH là 1:23 được khuấy từ liên<br />
tục với tốc độ không đổi trong 1h. Sau đó, hỗn hợp được<br />
đưa vào thiết bị Autoclave với lớp lót bằng Teflon, quá<br />
trình thủy nhiệt tiến hành ở nhiệt độ 150oC trong 24h. Kết<br />
thúc quá trình thủy nhiệt, chất rắn trong Autoclave được<br />
lọc, rửa sạch bằng nước cất rồi ngâm trong dung dịch axit<br />
HCl loãng trong 1 giờ, sản phẩm được rửa lại bằng nước<br />
cất cho đến pH trung tính. Sau đó, được sấy khô ở 100 oC<br />
trong 12h rồi nung trong không khí tại nhiệt độ 500oC trong<br />
2h (tốc độ gia nhiệt là 2oC/phút). Sản phẩm thu được là<br />
TNT, có bề mặt riêng lớn hơn nhiều so với TiO2,Co.<br />
2.1.2. Tổng hợp BTA/TNT<br />
BTA/TNT được tổng hợp bằng cách tẩm ở áp suất chân<br />
không. BTA đã hòa tan trong dung môi ethanol và đi vào<br />
ống TNT ở nhiệt độ phòng trong 24h. Quá trình tẩm chân<br />
không được thực hiện qua 2 giai đoạn như mô hình của<br />
Nguyen và cộng sự [9] (Hình 2). Hỗn hợp sau tẩm được<br />
mang đi ly tâm. Chất rắn sau đó được rửa nhanh trong<br />
ethanol và sấy ở 80oC trong 24h.<br />
<br />
Hình 2. Hệ thống tẩm chân không [9]<br />
<br />
2.2. Các phương pháp đánh giá đặc trưng<br />
Nhóm tác giả kết hợp nhiều phương pháp để đánh giá<br />
các tính chất đặc trưng của xúc tác như: xác định bề mặt<br />
riêng theo lý thuyết BET trên máy ASAP2020 (hãng<br />
Micromeritics), đánh giá thù hình bằng kính hiển vi điện tử<br />
truyền qua (TEM) và kính hiển vi điện tử quét (SEM).<br />
2.3. Đánh giá khả năng chống ăn mòn<br />
Để thử nghiệm khả năng chống ăn mòn của BTA, nhóm<br />
tác giả đã tiến hành phủ lên các tấm thép được xử lý bề mặt.<br />
Bề mặt tấm thép được xử lý bằng giấy nhám để tẩy gỉ, tiếp<br />
tục rửa bằng xà phòng để tẩy dầu mỡ. Rửa lại tấm thép trong<br />
<br />
aceton rồi tiếp tục rửa bằng nước cất, sấy khô và đem phủ.<br />
Ba phương pháp thử nghiệm khả năng chống ăn mòn<br />
của BTA được sử dụng: ngoại suy Tafel, phơi tự nhiên<br />
ngoài trời các mẫu được phủ từ sơn thương mại, và phơi tự<br />
nhiên ngoài trời các mẫu được phủ từ nhựa epoxy.<br />
2.3.1. Phương pháp ngoại suy Tafel<br />
Sơn alkyd thương phẩm của Công ty Tân Nam Sơn<br />
(Việt Nam) được pha loãng trong xylene và phun lên bề<br />
mặt các tấm thép sạch. Việc đánh giá khả năng chống ăn<br />
mòn của các lớp phủ được tiến hành thông qua tốc độ ăn<br />
mòn kim loại trong dung dịch NaCl 3% bằng phương pháp<br />
ngoại suy Tafel để xác định mật độ dòng ăn mòn i corr và thế<br />
ăn mòn Ecorr. Kích thước mẫu thép là 1cm2, ngâm mẫu<br />
trong 1 giờ. Tốc độ quét là 0,03 V/s. Điện cực làm việc là<br />
mẫu thép nghiên cứu. Điện cực đối là inox. Điện cực so<br />
sánh là điện cực calomel bão hòa (SCE). Giá trị thế ăn mòn<br />
Ecorr được so với SCE.<br />
2.3.2. Phương pháp phơi tự nhiên ngoài trời các mẫu được<br />
phủ từ sơn thương mại<br />
Quá trình chuẩn bị mẫu được thực hiện tương tự như<br />
chuẩn bị mẫu của phương pháp ngoại suy Tafel nhưng trên<br />
bề mặt thép lớp hơn, kích thước 5cmx10cm. Các mẫu tạo<br />
thành được phơi khô, rồi dùng dao rạch một đường dài 5cm<br />
trên bề mặt lớp phủ và chạm bề mặt thép. Sau đó đem đặt<br />
ở ngoài trời để khảo sát khả năng chống ăn mòn trong điều<br />
kiện tự nhiên.<br />
2.3.3. Phương pháp phơi tự nhiên ngoài trời các mẫu được<br />
phủ từ nhựa epoxy<br />
Để đánh giá độc lập tính bảo vệ kim loại của<br />
BTA/TNT, chúng tôi thay thế sơn alkyd bằng nhựa epoxy<br />
Swancor 2511-1A (Swancor, Đài Loan). Quá trình chuẩn<br />
bị các mẫu lớp phủ được tiến hành như sau: a) cho TNT<br />
hoặc BTA hoặc BTA/TNT vào trong epoxy, đồng hóa hỗn<br />
hợp bằng thiết bị đồng hóa siêu âm (Elmasonic S60H)<br />
trong thời gian 30 phút để phân tán tốt vật liệu; b) thêm<br />
chất đóng rắn Swancor 2511-BT (Đài Loan) vào trong<br />
hỗn hợp theo tỉ lệ epoxy/chất đóng rắn là 10:3 và tiếp tục<br />
đồng hóa siêu âm hỗn hợp trong vòng 5 phút ở điều kiện<br />
nhiệt độ thấp hơn 30oC.<br />
Hỗn hợp tạo thành sẽ sau đó sẽ được phủ lên các tấm<br />
thép bằng thanh lăn (bar-coating) và đem đặt ở ngoài<br />
trời để khảo sát khả năng chống ăn mòn trong điều kiện<br />
tự nhiên.<br />
Tất cả các lớp phủ từ sơn alkyd hay nhựa epoxy đều<br />
được kiểm tra khả năng bám dính trước khi đánh giá khả<br />
năng chống ăn mòn. Khả năng bám dính được kiểm tra theo<br />
Tiêu chuẩn Việt nam TCVN 2097 – 1993.<br />
3. Kết quả và thảo luận<br />
3.1. Kiểm tra hình thái học của TiO2<br />
Kết quả kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM)<br />
cho thấy, cấu trúc của TiO2,Co là dạng hạt, kích thước<br />
khoảng 100nm (Hình 3). Sau khi qua quá trình thủy nhiệt,<br />
TiO2,Co đã chuyển thành TiO2 có dạng ống, kích thước nano<br />
với cấu trúc khá đồng đều (Hình 4). Ảnh SEM của TiO 2,Co<br />
và TNT giúp chúng ta khẳng định quá trình thủy nhiệt đã<br />
thành công.<br />
<br />
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 9(130).2018<br />
<br />
23<br />
<br />
áp suất trong quá trình tẩm chân không đã tạo động lực để<br />
phần lớn các phân tử BTA di chuyển vào trong ống, hình<br />
thành nanocomposite BTA/TNT.<br />
<br />
Hình 3. Ảnh SEM của TiO2,Co<br />
<br />
Hình 6. Ảnh TEM của nanocomposite BTA/TNT<br />
<br />
3.2. Bề mặt riêng của nanocomposite BTA/TNT<br />
Bề mặt riêng của các mẫu được đánh giá bằng phương<br />
pháp hấp phụ đẳng nhiệt N2 ở 77K. Kết quả tính toán bề<br />
mặt riêng theo lý thuyết BET được trình bày ở Bảng 1.<br />
Bảng 1. Kết quả đo bề mặt riêng theo lý thuyết BET<br />
<br />
Hình 4. Ảnh SEM của TNT<br />
<br />
Sản phẩm TNT cũng được thu ảnh trên kính hiển vi điện<br />
tử truyền qua (TEM). Nhận thấy rằng, nguyên liệu TiO2,Co<br />
có dạng hình cầu ban đầu với kích thước micro đã chuyển<br />
thành các ống nano với đường kính khoảng 13nm và hầu như<br />
không tìm thấy các cấu trúc khác trong sản phẩm TNT (Hình<br />
5). Nhờ vậy bề mặt riêng của TiO2 sẽ được cải thiện rõ rệt.<br />
<br />
TiO2<br />
<br />
TiO2,Co<br />
<br />
TNT<br />
<br />
BTA/TNT<br />
<br />
Bề mặt riêng (m2/g)<br />
<br />
11.2<br />
<br />
125.9<br />
<br />
80.6<br />
<br />
Nhận thấy TNT thu được sau quá trình thủy nhiệt có bề<br />
mặt riêng thay đổi đáng kể, gấp khoảng 11 lần so với<br />
TiO2,Co. Điều này có được nhờ sự hình thành các ống TiO2<br />
kích thước nano từ các hạt TiO2 kích thước micro. Khi đưa<br />
BTA vào trong ống TNT bằng phương pháp tẩm ở áp suất<br />
chân không, BTA chiếm giữ một phần thể tích ống và đã<br />
làm giảm bề mặt riêng của TNT. Kết quả BET và hình ảnh<br />
TEM của nanocomposite BTA/TNT cho phép khẳng định<br />
đã thành công trong việc đưa BTA vào vật liệu lưu trữ<br />
nanocontainer TNT.<br />
3.3. Kiểm tra khả năng bám dính của lớp phủ<br />
Kiểm tra độ bám dính của các lớp phủ từ sơn thương<br />
mại hoặc nhựa epoxy chứa TNT hay BTA/TNT được tiến<br />
hành theo TCVN 2097 - 1993. Kết quả xác định độ bám<br />
dính của màng được trình bày ở Bảng 2.<br />
Bảng 2. Kết quả đo bề mặt riêng theo lý thuyết BET<br />
Kí hiệu lớp phủ<br />
<br />
Độ bám<br />
dính<br />
<br />
Kí hiệu lớp phủ<br />
<br />
Độ bám<br />
dính<br />
<br />
Sơn alkyd<br />
<br />
Điểm 1<br />
<br />
Nhựa epoxy<br />
<br />
Điểm 1<br />
<br />
Sơn + 5% TNT<br />
<br />
Điểm 1<br />
<br />
Epoxy + 5% TNT<br />
<br />
Điểm 1<br />
<br />
Sơn + 2% BTA/TNT Điểm 1 Epoxy + 2% BTA/TNT Điểm 1<br />
Hình 5. Ảnh TEM của TNT<br />
<br />
Sơn + 5% BTA/TNT Điểm 1 Epoxy + 5% BTA/TNT Điểm 1<br />
<br />
Nhìn vào ảnh TEM của BTA/TNT ở Hình 6 có thể thấy<br />
hình dạng ống nano của TNT. Chứng tỏ khi đưa BTA lên<br />
TNT, cấu trúc và kích thước nanotube của TiO2 vẫn được<br />
bảo toàn. Đường kính ống duy trì khoảng 13nm. Hình ảnh<br />
của các ống bây giờ đã không còn rõ ràng như ở Hình 5,<br />
thành ống bị mờ hẳn đi, xuất hiện các vùng mờ nhạt ở phía<br />
trong các ống. Điều đó cho thấy quá trình tẩm BTA vào<br />
trong TNT đã thành công, các vết mờ nhạt ở trong các ống<br />
chính là sự xuất hiện của BTA ở trong ống. Sự chênh lệch<br />
<br />
Từ kết quả của Bảng 2 cho thấy, độ bám dính của các<br />
mẫu đều đạt điểm 1 (Vết cắt hoàn toàn nhẵn, không có mảng<br />
bong ra). Thêm vào đó, khi tiến hành để mẫu thử dưới vòi<br />
nước trong thời gian 5 phút, vẫn không thấy có hiện tượng<br />
bong tróc. Tiến hành dùng chổi lông cọ sát vào lớp phủ, các<br />
lớp phủ vẫn giữ nguyên không có thay đổi. Điều này chứng<br />
tỏ lớp phủ có độ bám dính là rất tốt. Việc đưa TNT và BTA<br />
vào sơn thương mại hay nhựa epoxy đều không ảnh hưởng<br />
đến khả năng bám dính của chúng lên bề mặt thép.<br />
<br />
Nguyễn Thị Diệu Hằng, Nguyễn Duy Phương, Trần Nguyên Tiến<br />
<br />
24<br />
<br />
Một số hình ảnh của lớp phủ từ nhựa epoxy khi chuẩn<br />
bị mẫu theo TCVN 2097 - 1993 được trình bày ở Hình 7.<br />
<br />
Bảng 3 cho thấy, thế ăn mòn của thép tấm là thấp nhất (0,729 V) và dòng ăn mòn là cao nhất (0,316 mA). Sau khi phủ<br />
sơn, khả năng chống ăn mòn của thép tăng lên, thế ăn mòn<br />
tăng lên (-0,602 V) và dòng giảm xuống (0,0063 mA). Tuy<br />
nhiên khi thêm 5% TNT vào sơn thì lại làm giảm thế ăn mòn<br />
và tăng giá trị dòng của mẫu. Điều này là do TNT không có<br />
khả năng chống ăn mòn vì được trộn cơ học trong sơn, có thể<br />
khi thêm vào sơn đã làm giảm tỉ lệ chất chống ăn mòn trong<br />
sơn, nên làm giảm khả năng chống ăn mòn của lớp phủ. Thế<br />
ăn mòn cao nhất trong các mẫu là mẫu với 5% BTA/TNT<br />
(Ecorr = -0,473 V, Icorr= 0,0015 mA), cho thấy khả năng chống<br />
ăn mòn của mẫu này là tốt nhất trong tất cả các mẫu.<br />
3.4.2. Kiểm tra bằng phương pháp phơi tự nhiên ngoài trời<br />
các mẫu được phủ từ sơn thương mại<br />
Để tiến hành đánh giá phơi ngoài trời, chúng tôi chuẩn<br />
bị các mẫu thép như đã trình bày ở phần thực nghiệm, gồm<br />
có các mẫu: sơn thương mại, sơn pha 5% BTA, sơn pha 5%<br />
TNT, sơn pha 5% BTA/TNT.<br />
<br />
Hình 7. Kiểm tra độ bám dính của các lớp phủ từ<br />
Epoxy (A), Epoxy+5% TNT (B), Epoxy+2% BTA/TNT (C),<br />
Epoxy+5% BTA/TNT (D)<br />
<br />
3.4. Kiểm tra khả năng chống ăn mòn của các lớp phủ<br />
3.4.1. Kiểm tra bằng phương pháp ngoại suy Tafel<br />
Quá trình ăn mòn của kim loại là quá trình kim loại<br />
phản ứng với môi trường, kèm theo sự trao đổi electron.<br />
Tốc độ ăn mòn nhanh hay chậm phụ thuộc vào sự nhường<br />
và nhận electron này.<br />
<br />
Hình 9. Các mẫu sau khi phơi ngoài trời 2 tháng. Thép phủ sơn<br />
(A); Thép phủ sơn+5% TNT (B); Thép phủ sơn+5% BTA (C);<br />
Thép phủ sơn+5% BTA/TNT (D)<br />
<br />
Hình 8. Đường cong Tafel của Thép tấm (1); Thép phủ sơn (2);<br />
Thép phủ sơn+5% TNT (3); Thép phủ sơn+5% BTA (4);<br />
Thép phủ sơn+5% BTA/TNT (5)<br />
<br />
Tiến hành đo phân cực tuyến tính trong dung dịch NaCl<br />
3% với tốc độ quét 0,03V/s trong khoảng thế từ -0,9V đến<br />
+0,9V. Trên cơ sở đó cho phép chúng tôi đánh giá hiệu quả<br />
bảo vệ ăn mòn của các lớp phủ. Kết quả đường cong phân<br />
cực Tafel của các mẫu được chỉ ra ở Hình 8.<br />
Bảng 3. Giá trị thế ăn mòn và dòng ăn mòn của các mẫu thép<br />
Tên mẫu<br />
<br />
Ecorr(V) Log I (A/cm2) Icorr (mA)<br />
<br />
Thép tấm<br />
<br />
-0,729<br />
<br />
-0,5<br />
<br />
0,316<br />
<br />
Thép phủ sơn<br />
<br />
-0,602<br />
<br />
-2,2<br />
<br />
0,0063<br />
<br />
Thép phủ sơn + 5% TNT<br />
<br />
-0,626<br />
<br />
-2,10<br />
<br />
0,0079<br />
<br />
Thép phủ sơn + 5% BTA<br />
<br />
-0,525<br />
<br />
-2,80<br />
<br />
0,0016<br />
<br />
Thép phủ sơn + 5%<br />
BTA/TNT<br />
<br />
-0,473<br />
<br />
-2,81<br />
<br />
0,0015<br />
<br />
Sau 02 tháng phơi ngoài trời, nhận thấy mẫu bị ăn mòn<br />
mạnh nhất là thép phủ sơn + 5% TNT (Hình 9-B). Tấm<br />
thép phủ sơn + 5% BTA/TNT (Hình 9-D) ít bị ăn mòn nhất,<br />
mép của vết rạch vẫn còn rất mịn, không bị gồ ghề như các<br />
vết rạch trên các mẫu khác. Điều này hoàn toàn phù hợp<br />
với lý thuyết suy ra từ phương pháp Tafel. Trong khi mẫu<br />
thép phủ sơn + 5% BTA có hiện tượng màu sơn chuyển<br />
sang màu vàng. Do BTA không bền nên bị phân hủy, làm<br />
thay đổi màu của sơn.<br />
3.4.3. Kiểm tra bằng phương pháp phơi tự nhiên ngoài trời<br />
các mẫu được phủ từ nhựa epoxy<br />
Để đánh giá độc lập tính bảo vệ kim loại của BTA/TNT,<br />
chúng tôi thay sơn alkyd bằng nhựa epoxy.<br />
Hình 10 là các mẫu thép sau 2 tuần phơi ngoài trời.<br />
Nhận thấy các mẫu epoxy, epoxy+BTA và Epoxy+TNT đã<br />
bắt đầu bị rỉ sét ở vết rạch còn mẫu Epoxy+BTA/TNT<br />
(Hình 10-D) đều chưa xảy ra hiện tượng rỉ sét ở vết rạch<br />
cho thấy các nanocontainer đã bắt đầu phát huy tác dụng,<br />
phát tán BTA ra ngoài và ngăn chặn quá trình ăn mòn tại<br />
các vết rạch.<br />
Ngoài ra, ở các mẫu epoxy+TNT (Hình 10-B) và<br />
epoxy+BTA (Hình 10-C) các vết rỉ sét xuất hiện nhiều hơn<br />
<br />
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 9(130).2018<br />
<br />
so với mẫu epoxy (Hình 10-A). Điều này có thể giải thích là<br />
do bản thân TNT không có tác dụng ức chế ăn mòn, khi thêm<br />
TNT vào màng epoxy làm giảm khả năng bảo vệ bề mặt kim<br />
loại của epoxy, hàm lượng tạp chất tăng làm cho khả năng<br />
bao phủ bề mặt giảm dẫn tới khả năng chống ăn mòn yếu<br />
hơn so với màng epoxy bình thường. Đối với mẫu<br />
epoxy+BTA, do BTA không được bảo vệ bởi nanocontainer<br />
nên dễ dàng bị phân hủy hay trôi rửa khi phơi ngoài trời.<br />
<br />
25<br />
<br />
vào thực tế nhằm chế tạo lớp phủ chống ăn mòn thông<br />
minh, hiệu quả cho ngành công nghiệp sơn.<br />
Lời cảm ơn. Nhóm tác giả chân thành cảm ơn sự hỗ trợ<br />
của Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà<br />
Nẵng với đề tài B2016-ĐN02-04 và Phòng thí nghiệm<br />
Công nghệ Lọc Hóa dầu, Trường Đại học Bách khoa - Đại<br />
học Đà Nẵng.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
Hình 10. Các mẫu sau khi phơi ngoài trời 2 tuần. Thép phủ<br />
epoxy (A); Thép phủ epoxy +5% TNT (B); Thép phủ epoxy +5%<br />
BTA (C); Thép phủ epoxy +5% BTA/TNT (D)<br />
<br />
4. Kết luận<br />
Với các kết quả đánh giá đặc trưng của vật liệu tổng<br />
hợp trong nghiên cứu này, cho phép khẳng định đã tổng<br />
hợp thành công nanocomposite BTA/TNT có khả năng<br />
chống ăn mòn cao từ nguồn TiO2 công nghiệp rẻ tiền. Kết<br />
hợp kết quả thu được từ đường cong phân cực Tafel và thực<br />
nghiệm phơi ngoài trời cho thấy, khả năng chế tạo thành<br />
công lớp phủ chống ăn mòn kim loại là khả quan. Với thành<br />
công bước đầu này, nhóm tác giả hi vọng phát triển hơn<br />
nữa nanocomposite BTA/TNT để có khả năng ứng dụng<br />
<br />
[1] Phạm Văn Nhiêu, Vũ Minh Tân, Lê Thị Thu Hường (2013), “Tổng<br />
hợp và nghiên cứu khả năng ức chế ăn mòn kim loại của một số dẫn<br />
xuất 2,5-Dihydroxyacetophenone Aroyl Hydrazoic”, Tạp chí dầu<br />
khí, 1, 50-53.<br />
[2] Arunchandran C., Ramya S., George R.P., and Kamachi Mudali<br />
(2012), “Self-Healing Corrosion Resistive Coatings Based on<br />
Inhibitor Loaded TiO2 Nanocontainers”, Journal of the<br />
electrochemical Society, 159 (11), C552-C559.<br />
[3] Zheludkevich M. L., Shchukin D. G., Yasakau K. A., Mohwald H.,<br />
Ferreira M. G. S. (2007), “Anticorrosion Coatings with Self-Healing<br />
Effect Based on Nanocontainers Impregnated with Corrosion<br />
Inhibitor”, Chemistry of Materials, 19 (3), 402–411.<br />
[4] Babic Samardzija K., Hackerman N. (2005), "Triazole,<br />
benzotriazole and substituted benzotriazoles as corrosion inhibitors<br />
of iron in aerated acidic media", Journal of Solid State<br />
Electrochemistry, 9, 483-497.<br />
[5] Cotton J. B., Dugdale I. (1963), "An Electrochemical Investigation<br />
on the Prevention of Staining of Copper by Benzotriazole,"<br />
Corrosion Science, 3, 69-74.<br />
[6] Walker R. (1975), “Triazole, Benzotriazole and Naphtotriazole as<br />
corrosion inhibitors copper”, Corrosion science, 31, (3), 97-100.<br />
[7] Macwan D. P., Pragnesh N. Dave, Shalini Chaturvedi (2011), “A<br />
review on nano-TiO2 sol-gel type syntheses and its applications”,<br />
Journal of Materials Science, 46, 3669-3686.<br />
[8] Arunchandran C., Ramya S., George R.P., Kamachi Mudali (2013),<br />
“Corrosion inhibitor storage and release property of TiO2 nanotube<br />
powder synthesized by rapid breakdown anodization method”,<br />
Materials Research Bulletin, 48, 635-639.<br />
[9] Nguyen Thi Dieu Hang, Nong Thanh Tiep, Nguyen Van Quang,<br />
Nguyen The Quyen, Le Quang Trung (2018), “Investigation on the<br />
storage of Benzotriazole Corrosion Inhibitor in TiO2 Nanotube”,<br />
Advances in Natural Sciences: Nanoscience and Nanotechnology, 9,<br />
025016 (7pp).<br />
<br />
(BBT nhận bài: 21/8/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 07/9/2018)<br />
<br />