intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may niêm yết tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

30
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may niêm yết tại Việt Nam thực hiện phân tích thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam thông qua phương pháp thống kê mô tả. Dựa trên kết quả nghiên cứu đạt được, một số đề xuất nhằm nâng cao mức độ công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may cũng được tác giả đề cập trong bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may niêm yết tại Việt Nam

  1. THỰC TRẠNG CÔNG BỐ THÔNG TIN KẾ TOÁN MÔI TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP DỆT MAY NIÊM YẾT TẠI VIỆT NAM Nguyễn Thị Mai Anh Trường Đại học Công nghệ Đông Á Tóm tắt Trong vài thập kỷ gần đây, việc công bố thông tin kế toán đã trở thành chủ đề quan trọng nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đặc biệt, với mối quan tâm ngày càng sâu sắc của cộng đồng về vấn đề môi trường, công chúng và nhà nghiên cứu không chỉ chú ý đến tính xác thực của thông tin kế toán mà bắt đầu chú ý đến việc hạch toán, công bố và minh bạch các thông tin có yếu tố môi trường trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp và kế toán môi trường đáp ứng yêu cầu này. Theo đó, bài viết này thực hiện phân tích thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam thông qua phương pháp thống kê mô tả. Dựa trên kết quả nghiên cứu đạt được, một số đề xuất nhằm nâng cao mức độ công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may cũng được tác giả đề cập trong bài viết này. Từ khóa: Kế toán môi trường; Công bố thông tin; Doanh nghiệp dệt may. Abstract Situation of environmental accounting information disclosure of listed textile firms in Vietnam Over the last several decades, accounting information disclosure has become an important topic that receives the attention of researches. In particular, with the deepening public concern about environmental issues, people and researchers are not only paid attention to the authenticity of accounting information but also began to pay attention the accounting, disclosure and transparency of information on environmental accounting of enterprises and environmental accounting meet this requirement. Accordingly, this article is to analyze the current state of environmental accounting information disclosure of listed textile firms on Vietnam Stock Exchange through descriptive statistical analysis. Based on the research results, some suggestions to improve the level of environmental accounting information disclosure of listed textile firms will also be mentioned in this article. Keywords: Environmental accounting; Information disclosure; Textile enterprises. 1. Giới thiệu Không thể phủ nhận vai trò của các doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia. Tuy nhiên, chính những hoạt động sản xuất kinh doanh của họ đã và đang tác động tiêu cực đến môi trường và đe dọa sức khỏe cộng đồng. Với những công bố về thực trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên trong nhiều thập kỷ qua mà phần lớn nguyên nhân đến từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã làm thay đổi đáng kể hành vi và nhận thức của người tiêu dùng nói riêng và xã hội nói chung đối với những sản phẩm, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Điều này đã tạo ra cả áp lực và động lực mới cho doanh nghiệp thực hiện trách nhiệm xã hội trong công tác bảo vệ môi trường. Trước sự gia tăng của các quy định môi trường, nhu cầu xã hội cho sự phát triển bền vững, doanh nghiệp sẽ phát sinh thêm nhiều loại chi phí với quy mô ngày càng lớn liên quan đến môi 58 Hội thảo Quốc gia 2022
  2. trường, đến bảo vệ môi trường, xử lý các tác động đến môi trường và nâng cao chất lượng môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và trong triển khai các dự án đầu tư. Yêu cầu đặt ra và đòi hỏi các nhà quản lý cần phải có nhiều thông tin hơn về khía cạnh chi phí liên quan đến môi trường. Hơn nữa, công bố các hoạt động môi trường và chi phí môi trường trong báo cáo tài chính hằng năm của công ty sẽ cung cấp một cái nhìn tích cực cho những đối tượng sử dụng báo cáo tài chính về vấn đề bảo tồn môi trường của doanh nghiệp. Từ đó, tạo được sự tín nhiệm cao và lòng trung thành của họ với doanh nghiệp [1] và chính những yêu cầu này tất yếu dẫn đến sự ra đời và phát triển của kế toán môi trường. Kế toán môi trường ngày càng được ứng dụng rộng rãi. Nó không còn là hiện tượng phương Tây bởi vì nó đã lan rộng trên toàn thế giới và gần đây nó đã được áp dụng rộng rãi với tốc độ chóng mặt ở một số nước châu Á [2]. Tuy nhiên, áp dụng kế toán môi trường tại các quốc gia đang phát triển đang ở trong giai đoạn đầu và có ít tài liệu về kế toán môi trường tại các quốc gia này [3]. Theo Jalaludin và cộng sự (2011), hoạt động thân thiện với môi trường chưa được chấp nhận nhiều từ các ngàng công nghiệp, do đó động lực để cải thiện môi trường hay sản xuất sạch hơn cũng như cơ hội cho việc nghiên cứu và thực hành kế toán xanh bị hạn chế [4]. Với Việt Nam đó cũng không phải là ngoại lệ, kế toán môi trường được coi là lĩnh vực mới trong cả nghiên cứu và thực hành. Dệt may là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và giải quyết việc làm cho nhiều lao động. Song, phần lớn doanh nghiệp dệt may Việt Nam gia công cho những nhãn hàng may mặc thời trang lớn trên thế giới. Các nhãn hàng này đưa ra những tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử có trách nhiệm với môi trường. Theo đó, nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã tiếp nhận yêu cầu và thực hiện sản xuất theo hướng “xanh hóa”. Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn nhiều bất cập, đặc biệt là việc công bố các thông tin có yếu tố môi trường của các doanh nghiệp dệt may niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu này thực sự là cần thiết nhằm nâng cao mức độ minh bạch thông tin kế toán môi trường của các doanh nghiệp dệt may trong thời gian tới. 2. Các nghiên cứu về công bố thông tin kế toán môi trường trên thế giới và Việt Nam Ở các nước phát triển, kế toán môi trường đã nhận được sự quan tâm của cả giới học thuật và các nhà quản trị doanh nghiệp. Trong lĩnh vực nghiên cứu, các bài báo khoa học về kế toán môi trường đã xuất hiện rất sớm, từ những năm 1970, nhưng phải đến những năm 1990 mới ngày càng có nhiều nghiên cứu được thực hiện, trung bình mỗi năm có 40 tài liệu nghiên cứu về kế toán môi trường được xuất bản. Đặc biệt, giai đoạn từ năm 1997 đến nay được coi là giai đoạn bùng nổ các nghiên cứu liên quan đến kế toán môi trường (Doan & Tran, 2017) [5]. Đối với việc nghiên cứu nội dung công bố thông tin kế toán môi trường, một số nghiên cứu tập trung vào mô tả thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường trên Website của công ty (Frost; Pan Ane; Clarkson,...). Một số nghiên cứu lại tập trung vào việc phân tích thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường trên báo cáo thường niên, báo cáo phát triển bền vững (Holland và cộng sự; Aerts và Cormier,...). Các nhà nghiên cứu thuộc chủ đề này chủ yếu sử dụng phương pháp thống kê mô tả để đưa ra tổng quan chung về tình trạng công bố thông tin kế toán môi trường của các công ty niêm yết. Holland và cộng sự nhận thấy rằng, hầu hết các công ty ở Mỹ công bố thông tin kế toán môi trường một cách phân tán trong các báo cáo phát triển bền vững và báo cáo Hội thảo Quốc gia 2022 59
  3. trách nhiệm xã hội [6]. Frost tin rằng mức độ công bố thông tin kế toán môi trường trong các báo cáo nội bộ cao hơn mức công bố thông tin môi trường công khai trên website và báo cáo hàng năm. Với sự gia tăng của các loại báo cáo và các phương thức công bố thông tin khác nhau, số lượng các công ty sử dụng báo cáo hàng năm để công bố thông tin môi trường đã giảm xuống [7]. Aerts và Cormier [8] nhận thấy rằng việc công bố thông tin kế toán môi trường của các công ty qua các kênh khác nhau cũng khác nhau đáng kể. Clarkson [9] chỉ ra rằng các công ty công bố thông tin kế toán môi trường thông qua các báo cáo nội bộ và công khai trên Website của công ty có tính tự nguyện và độ chính xác tương đối cao. Pan Ane [10] đề xuất rằng thông tin kế toán về môi trường nên đề cập đến tình trạng phát triển bền vững của công ty, chi phí quản lý môi trường và sự tuân thủ luật môi trường của công ty. Ngoài ra, nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu chuyên sâu về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin kế toán môi trường như nghiên cứu của Zheng & Xiang (2013), Zhijuan & Zhou (2017) đã chỉ ra mối quan hệ giữa điều kiện tài chính, quy mô doanh nghiệp với mức độ công bố thông tin kế toán môi trường. Zheng & Xiang (2013) tin rằng do mức nợ tăng lên, các doanh nghiệp cố gắng giải tỏa sự lo lắng của các cổ đông và chủ nợ bằng cách tiết lộ thêm thông tin về môi trường [11]. Zhijuan & Zhou (2017) nhận thấy lợi nhuận của công ty, đòn bẩy tài chính sẽ gây áp lực lên các nhà quản lý trong việc tăng lợi nhuận và do đó không khuyến khích họ tập trung vào việc cải thiện, cũng như đo lường các hoạt động phi tài chính, chẳng hạn như hoạt động môi trường. Tình trạng tài chính khả quan cho thấy hoạt động tài chính càng được nâng cao thì thông tin kế toán môi trường càng được quan tâm [12]. Trong khi, nghiên cứu của Schaltegger (2008) cho thấy quy định pháp luật của chính phủ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc công bố thông tin kế toán môi trường. Việc tuân thủ các quy tắc và tiêu chuẩn của chính phủ sẽ giúp các tổ chức tồn tại và phát triển. Ngược lại, nếu không tuân thủ sẽ dẫn đến tổn thất về thu nhập, danh tiếng, thậm chí là mất giấy phép hoạt động kinh doanh [13]. Tại Việt Nam, thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường cũng được một số tác giả nghiên cứu ở phạm vi loại hình doanh nghiệp, cụ thể chẳng hạn như tác giả Thanh Hiền (2018) khi nghiên cứu mức công bố thông tin kế toán môi trường trong các doanh nghiệp thủy điện đã nhận định tình trạng doanh nghiệp “trốn” lập báo cáo đánh giá tác động môi trường ngày càng phổ biến, kế toán môi trường nói chung và kế toán môi trường trong các doanh nghiệp thủy điện nói riêng thực sự chưa được coi trọng như mong muốn của các cơ quan quản lý [14]. Tương tự, nghiên cứu thực trạng cung cấp thông tin môi trường trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam của Trần Thị Thùy (2019) đã chỉ ra rằng: Phần lớn các thông tin môi trường được cung cấp trên báo cáo tài chính là các khoản chi phí để đóng các loại thuế môi trường, phí môi trường, hay các khoản phải ký quỹ bảo vệ môi trường, các khoản phạt do vi phạm luật bảo vệ môi trường. Rõ ràng các doanh nghiệp đang thực hiện theo quy định của pháp luật, mà chưa có tổ chức nào tự nguyện chi ra để hướng tới mục tiêu bảo vệ môi trường. Các thông tin về môi trường được trình bày một cách rời rạc và xen kẽ vào các tài khoản thu nhập, chi phí khác, chi phí phải trả,… mà không được tách rời phản ánh vào một tài khoản cụ thể [15]. Hay theo Trần Phương Thúy (2020), “một lượng lớn là chất thải rắn, bao bì, các loại thức ăn thừa, các vật liệu sử dụng trong công việc vệ sinh và bảo trì, tuy nhiên có rất ít doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ khách sạn am hiểu và vận dụng kế toán quản trị môi trường vào công tác quản lý nói chung và công tác kế toán nói riêng” [16]. 60 Hội thảo Quốc gia 2022
  4. Trong vấn đề nghiên cứu thực nghiệm, một số tác giả Việt Nam cũng đã thực hiện nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin kế toán môi trường. Nguyễn La Soa và cộng sự (2017) đã tiến hành nghiên cứu 74 doanh nghiệp xây dựng niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2013 - 2016 và nhận thấy rằng các yếu tố về quy mô doanh nghiệp, khả năng sinh lời, đòn bẩy tài chính, số năm niêm yết và kiểm toán độc lập có tác động đáng kể đến công bố thông tin kế toán môi trường của các doanh nghiệp xây dựng [17]. Tương tự, Tung Dao (2020) đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin kế toán môi trường của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dựa trên khảo sát 87 công ty trong ngành niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2019. Kết quả cho thấy việc công bố thông tin kế toán môi trường của các công ty chịu ảnh hưởng của các yếu tố: Quy mô doanh nghiệp, thời gian hoạt động và kiểm toán độc lập [18]. Hay Le và cộng sự (2022) thực hiện nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin kế toán môi trường dựa trên mức độ cảm nhận của các nhà quản lý khách sạn. Kết quả cho thấy các quy định pháp luật ảnh hưởng tích cực đến việc trình bày và công bố thông tin kế toán môi trường trong hệ thống báo cáo kế toán doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các công ty khách sạn nói riêng [19]. Mặc dù đã có những nghiên cứu về công bố thông tin kế toán môi trường trên thế giới và tại Việt Nam song chưa có nghiên cứu đánh giá mức độ công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may. Vì vậy, bài viết này sẽ mở rộng và bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số giải pháp góp phần giúp các doanh nghiệp này thực hiện kế toán môi trường nói chung và công bố thông tin kế toán môi trường nói riêng đạt hiệu quả cao hơn. 3. Thực trạng công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp dệt may niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam Thông tư số 155/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính là văn bản pháp lý đầu tiên quy định các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam phải công bố thông tin về phát triển bền vững. Công ty niêm yết có thể lập riêng báo cáo bền vững hoặc trình bày tích hợp trong báo cáo thường niên [20]. Vì vậy, để đánh giá về mức độ công bố thông tin kế toán môi trường của doanh nghiệp ngành dệt may, nhóm nghiên cứu sử dụng chủ yếu phương pháp thống kê mô tả. Đầu tiên, nhóm tác giả thu thập dữ liệu từ báo cáo thường niên và báo cáo phát triển bền vững của 36 doanh nghiệp dệt may niêm yết có số liệu tài chính công bố công khai giai đoạn 2015 - 2021 trên các website của công ty. Thông tin của các công ty niêm yết được lấy từ web: http:// finance.vietstock.vn. Sau đó, một danh sách 33 tiêu chí về công bố thông tin môi trường sẽ được tạo ra dựa trên các yêu cầu của Thông tư 155/TT-BTC về công bố thông tin của các công ty niêm yết. Mỗi tiêu chí sẽ nhận giá trị 1 nếu doanh nghiệp có công bố thông tin trên báo cáo thường niên hoặc báo cáo phát triển bền vững, nhận giá trị 0 nếu không có thông tin. Sau khi xây dựng chỉ số công bố, một bảng điểm được phát triển để đánh giá về mức độ công bố thông tin kế toán môi trường. Phần trăm công bố được tính cho mỗi công ty bằng cách chia số điểm công bố các khoản mục thông tin thực tế bởi mỗi công ty cho tổng số 33 điểm khoản mục thông tin tối đa cần được công bố theo quy định. Theo đó, một công ty nếu đã công bố tất cả 33 khoản mục thông tin trên báo cáo thường niên hoặc trên báo cáo phát triển bền vững thì sẽ đạt được 100 % yêu cầu. Các điểm số sau đó được chuyển vào phần mềm để phân tích thống kê mô tả và kết quả thu được tại Bảng 1. Hội thảo Quốc gia 2022 61
  5. Bảng 1. Mức độ công bố thông tin kế toán môi trường của các doanh nghiệp dệt may Trung Trung bình các bình các Nhóm Tiêu chí Nhóm Tiêu chí doanh doanh nghiệp nghiệp Phát thải khí nhà kính (GHG) Vật liệu đã được sử dụng 0,234 0,023 trực tiếp Phát thải khí nhà kính (GHG) Vật liệu Vật liệu tái chế được sử dụng 0,120 0,006 gián tiếp Sản phẩm được tái chế và vật Phát thải khí nhà kính (GHG) 0,052 0,000 liệu đóng gói gián tiếp khác Tiêu thụ năng lượng trong tổ Phát thải Thâm dụng phát thải khí nhà 0,336 0,000 chức kính (GHG) Tiêu thụ năng lượng ngoài tổ Giảm phát thải khí nhà kính 0,045 0,004 chức (GHG) Năng Cường độ sử dụng Phát thải các chất phá hủy tầng lượng 0,014 0,003 năng lượng ozon (ODS) Giảm tiêu hao năng lượng 0,243 Phát thải NOX, SOX 0,023 Giảm nhu cầu năng lượng của Tổng lượng nước thải theo chất 0,038 0,223 sản phẩm và dịch vụ lượng và địa điểm Lượng nước đầu vào theo Tổng lượng chất thải và phương 0,373 0,051 nguồn pháp xử lý Những nguồn nước chịu ảnh Nước Nước 0,216 Sự cố tràn đáng kể 0,007 hưởng đáng kể thải và chất thải Vận chuyển chất thải Tuần hoàn và tái sử dụng nước 0,365 0,128 nguy hại Gần kề các khu vực được bảo Các khu vực chứa nước bị ảnh tồn và các khu vực đa dạng 0,000 hưởng bởi việc thải nước và/ 0,104 sinh học cao hoặc dòng nước thải Tác động đáng kể của các hoạt Tuân thủ Không tuân thủ pháp luật và động, sản phẩm và dịch vụ đối 0,014 về môi 0,380 các quy định về môi trường với đa dạng sinh học trường Các nhà cung cấp mới đã được Đa dạng Các môi trường sống được 0,050 đánh giá sơ bộ bằng cách sử 0,006 sinh học bảo tồn hoặc phục hồi Đánh dụng các tiêu chí về môi trường giá nhà Các loài trong Sách Đỏ của cung cấp IUCN và các loài trong danh về môi Các tác động môi trường tiêu sách bảo tồn quốc gia có môi 0 trường cực trong chuỗi cung ứng và 0,004 trường sống trong các khu các hành động đã thực hiện vực chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động (Nguồn: Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm Stata) Theo kết quả Bảng 1, giá trị trung bình công bố thông tin kế toán môi trường của tất cả doanh nghiệp dệt may niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam có mức rất thấp so với báo cáo sáng kiến toàn cầu (GRI). Điều này cho thấy, công bố thông tin kế toán môi trường trong thời gian qua chưa thực sự được các doanh nghiệp dệt may quan tâm đúng với tầm quan trọng của nó. Hạn chế của thực trạng trên có thể được giải thích qua một số nguyên nhân sau: 62 Hội thảo Quốc gia 2022
  6. Một là, thiếu lý thuyết nền về kế toán môi trường như giả thuyết kế toán, đo lường kế toán và phương pháp kế toán. Các văn bản pháp luật hiện hành về kế toán chưa có những quy định hay hướng dẫn cụ thể về tổ chức kế toán môi trường. Vì vậy, thực tế tại nhiều doanh nghiệp yếu tố chi phí “môi trường” và thu nhập do “môi trường” không nằm trong một tài khoản, một khoản mục riêng rẽ, cụ thể nào của kế toán. Rất nhiều chi phí liên quan đến môi trường đang phản ánh chung trong các tài khoản chi phí quản lý và các nhà quản lý kinh tế không thể phát hiện, không thể thấy được quy mô và tính chất của chi phí môi trường nói chung và từng khoản chi phí môi trường nói riêng. Ngoài ra, hiện nay, trên các tài khoản kế toán chưa ghi nhận các chi phí đáng kể liên quan đến môi trường như chi phí sửa chữa, đền bù, chi phí khắc phục sự cố và chi phí dọn dẹp, xử lý trong các vụ tai nạn, hủy hoại môi trường sinh thái, môi trường sống. Hai là, việc thực hiện công bố thông tin bắt buộc về môi trường xã hội với doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam mới được triển khai trong thời gian ngắn. Bắt đầu từ Thông tư 155/2015-BTC về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán với phụ lục hướng dẫn lập báo cáo phát triển bền vững, báo cáo môi trường xã hội, các doanh nghiệp mới bắt đầu công bố thông tin về lĩnh vực này. Với thời gian ngắn, doanh nghiệp chưa có nhiều sự hiểu biết, cũng như chưa thực tế đầu tư, triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường. Ba là, thiếu sự quan tâm đúng mực của nhà quản lý doanh nghiệp đối với chi phí môi trường, kế toán môi trường. Một số chi phí môi trường có thể được nhận diện dễ dàng như chi phí khấu hao thiết bị xử lý ô nhiễm, chi phí giám sát môi trường, chi phí phòng cháy, chữa cháy, chi phí xử lý chất thải, chi phí hoàn nguyên và cải tạo môi trường sau khi khai thác. Song các chi phí này chỉ phản ánh trong báo cáo tác động môi trường, hay đề án bảo vệ môi trường, chương trình quản lý môi trường mà không được theo dõi chi tiết bởi bộ phận kế toán. Hơn nữa, phần lớn các nhà quản lý doanh nghiệp tập trung vào lợi ích kinh tế trong ngắn hạn hơn là tìm ra các phương pháp để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững. Việc chú trọng nhiều hơn vào lợi ích kinh tế sẽ là nguyên nhân chủ yếu cản trở việc theo đuổi một chương trình quản lý môi trường chủ động và tích cực. Điều này tạo ra sự chậm trễ trong việc tích hợp vấn đề môi trường vào thực hành kế toán. 4. Giải pháp hỗ trợ công bố thông tin kế toán môi trường cho doanh nghiệp dệt may niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 4.1. Đối với cơ quan chức năng nhà nước Bộ Tài chính là cơ quan Chính phủ có thẩm quyền cao liên quan đến lĩnh vực tài chính kế toán. Do đó, Bộ phải là cơ quan tiên phong trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng công bố thông tin kế toán môi trường. Để làm được điều này, Bộ Tài chính cần ban hành các văn bản pháp lý về kế toán môi trường. Cụ thể, cần phải thiết lập chuẩn mực kế toán môi trường, xây dựng hệ thống tài khoản kế toán, các nguyên tắc và phương pháp kế toán môi trường, quản lý và hạch toán thống nhất các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động môi trường trong hệ thống báo cáo tài chính. Cần có sự phối kết hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan chức năng có liên quan trong việc xây dựng khung lý thuyết chung về kế toán môi trường, ban hành các văn bản hướng dẫn phân loại chi phí môi trường, thiết lập các phương pháp xác định chi phí môi trường, lập báo cáo bền vững, xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả môi trường cũng như các biện pháp thúc đẩy thực hiện kế toán môi trường tại các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp dệt may nói riêng. Hội thảo Quốc gia 2022 63
  7. Ngoài ra, Chính phủ cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng kế toán môi trường trong các hoạt động của họ nhằm đảm bảo đồng thời lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích cho môi trường. Đồng thời, có những quy định bắt buộc về công bố thông tin có yếu tố môi trường và chế tài xử phạt với trường hợp doanh nghiệp vi phạm, không tuân thủ. 4.2. Đối với doanh nghiệp dệt may Nâng cao nhận thức của nhà quản lý về bảo vệ môi trường. Việc thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và đảm bảo phát triển bền vững. Vì vậy, bản thân nhà quản lý doanh nghiệp phải nâng cao nhận thức về môi trường, tiến tới thay đổi hành vi của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt lựa chọn sản phẩm công nghệ sạch, tiết kiệm chi phí, đồng thời vẫn đảm bảo yếu tố trách nhiệm với môi trường. Giáo dục và nâng cao trình độ chuyên môn cho bộ phận kế toán. Kế toán môi trường là lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi người làm kế toán cần phải xem xét những hoạt động phi truyền thống như quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, hoạt động xử lý, quản lý chất thải trong nhà máy. Vì vậy, để có thể triển khai và thực hiện được kế toán môi trường, nhà quản lý cần truyền đạt quan điểm và nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường, kế toán môi trường đến bộ phận kế toán. Đồng thời, có những chính sách đào tạo chuyên sâu kế toán môi trường cho nhân viên của mình. Tạo sự kết nối và trao đổi tri thức giữa bộ phận kế toán và quản lý môi trường. Nhân viên quản lý môi trường có khả năng nhận diện các vấn đề môi trường, xử lý, kiểm soát hoạt động môi trường nhưng lại ít kiến thức để làm thế nào phản ánh những vấn đề đó vào hệ thống kế toán. Ngược lại, nhân viên kế toán có kiến thức để thu thập, phân tích và phản ánh dữ liệu tài chính nhưng lại ít hiểu biết về vấn đề môi trường. Do đó, một sự kết nối chặt chẽ giữa kế toán và quản lý môi trường là rất cần thiết để doanh nghiệp có một bức tranh toàn diện về môi trường cũng như có thể phản ánh đầy đủ các thông tin môi trường, chi phí môi trường trên báo cáo tài chính và báo cáo bền vững. 5. Kết luận Nhìn chung, mức độ công bố thông tin kế toán môi trường của các doanh nghiệp dệt may niêm yết tại sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam ở mức thấp. Điều này xuất phát từ hệ thống pháp luật hiện hành về kế toán chưa có những quy định hay hướng dẫn cụ thể về tổ chức kế toán môi trường và thiếu sự quan tâm đúng mực của nhà quản lý doanh nghiệp đối với chi phí môi trường, kế toán môi trường. Vì vậy, trong thời gian tới cơ quan chức năng nhà nước cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể tới các doanh nghiệp để đánh giá được tác động của thông tin môi trường đến kết quả tài chính của công ty, hay đánh giá rõ hơn về trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động bảo vệ môi trường. Về phía doanh nghiệp, bản thân nhà quản lý doanh nghiệp phải nâng cao nhận thức về môi trường, tiến tới thay đổi hành vi của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Miroshnychenko, I, Barontini, R & Testa, F. (2017). Green practices and financial performance: A global outlook. Journal of Cleaner Production, 147, 340 - 351. https://doi.org/10.1016/j. jclepro.2017.01.058. [2]. Rikhardsson, P, Bennett, M, Bouma, J. and Schaltegger, S. (2005). Implementing environmental management accounting: Status and challenges. Springer, Dordrecht, Netherlands, Vol.18. [3]. Herzig, C. (2012). Environmental management accounting: Case studies of South East companies. Published by Routhledge by Talor and Francis Group, London and New York. 64 Hội thảo Quốc gia 2022
  8. [4]. Jalaludin, D., Sulaiman, M. & Ahmad, N. N. N. (2011). Understanding Environmental Management Accounting (EMA) adoption: A new institutional sociology perspective. Social Responsibility Journal, 7(4), 540 - 557. [5]. Doan, N. P. A & Tran. T. T. B. (2017). Reality and factors affecting the levels of disclosure of social responsibility information of listed enterprises in Vietnam’s Stock market. Proceedings: Research and training accounting and auditing of Vietnamese Universities according to international standards, National Economics University, Vietnam. [6]. Holland Leigh & Foo Yee Boon (2003). Differences in environmental reporting practices in the UK and the US: The legal and regulatory context. British Accounting Review. [7]. Frost G. R. (2007). The introduction of mandatory environmental reporting guidelines: Australian evidence. Abacus, 43 (2). [8]. Aerts W., Cormier D., Magnan M. (2008). Corporate environmental disclosure, financial markets and the media: An international perspective. Ecological Economics, 64(3), 643 - 659. [9]. Clarkson P. M., Li Y., Richardson G. D., Vasvari F. P. (2008). Revisiting the relation between environmental performance and environmental disclosure: An empirical analysis. Accounting Organizations & Society, 33(4 - 5), 303 - 327. [10]. Pan Ane (2012). An assessment of the quality of environmental information disclosure of corporation in China. Systems Engineering Procedia, 5, 420 - 426. [11]. Zheng & Xiang (2013). An empirical study on influencing factors of environmental information disclosure in 175 Chinese listed companies. Science and Technology Progress and Countermeasure. [12]. Zhijuan, L., C. Zhou (2017). An empirical study on the influencing factors of environmental information disclosure of Chinese mining listed companies. International Conference on Economics, Finance and Statistics. Doi 10.2991/icefs-17.2017.66. [13]. Schaltegger, S.; Bennett, M.; Burritt, R.; Jasch, C. (2008). Environmental management accounting for cleaner production. Springer: Dordrecht, the Netherlands. [14]. Dương Thị Thanh Hiền (2018). Vai trò và định hướng phát triển kế toán môi trường trong các doanh nghiệp thủy điện.  Tạp chí Tài chính. https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh- nghiep/vai-tro-va-dinh-huong-phat-trien-ke-toan-moi-truong-trong-cac-doanh-nghiep. [15]. Trần Thị Thùy (2019). Thực trạng cung cấp thông tin môi trường trên báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính kế toán, số 08 (193) - 2019. [16]. Trần Phương Thúy (2020). Kế toán quản trị môi trường tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ khách sạn trên địa bàn tỉnh Nam Định. [17]. Nguyen L. S., T. M. Dung., N. T. X. Hong & L. Q. Hoi (2017). Factors affecting disclosure levels of environmental accounting information: The case of Vietnam. Accounting and Finance Research 6(4): 255. http://doi10.5430/afr.v6n4p255. [18]. Nguyen T. D. (2021). Factors influencing environmental accounting information disclosure of listed enterprises on Vietnamese stock markets. Journal of Asian Finance, Economics and Business, Vol. 7, No 11, 877 - 883. http://doi10.13106/jafeb.2020vol7no11.877. [19]. Le. A. T., N. T. H. Tran., N. X. Hung., N. V. T. Long (2022). Disclosure of environmental accounting information at business enterprises in the hotel sector: Case study in Vietnam. Geo Journal of Tourism and Geosites, Vol. 42, No 2, p. 700 - 707. http://doi:10.30892/gtg.422spl08-879. [20]. Bộ Tài chính (2015). Thông tư số 155/2015/TT-BTC về việc hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, ban hành ngày 06 tháng 10 năm 2015. BBT nhận bài: 28/8/2022; Chấp nhận đăng: 31/10/2022 Hội thảo Quốc gia 2022 65
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2