THỰC TRẠNG ĐÁP ỨNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN<br />
CHO PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÔNG MINH Ở VIỆT NAM<br />
<br />
ThS. Nguyễn Thị Lệ<br />
Trường Đại học Thương mại<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Đô thị hóa và sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 làm cho sự ra<br />
đời và phát triển của các đô thị thông minh trở thành một điều tất yếu. Việt Nam<br />
cũng không nằm ngoài xu hướng này, chính phủ đã phê duyệt đề án phát triển đô<br />
thị thông minh ở nước ta giai đoạn 2018 – 2025 và định hướng đến năm 2030. Để<br />
có thể nghiên cứu thí điểm và phát triển thành công đô thị thông minh ở Việt Nam<br />
cần có sự chuẩn bị tốt những tiền đề về công nghệ thông tin. Tuy nhiên, lĩnh vực<br />
công nghệ thông tin ở Việt Nam chưa có được sự phát triển và bắt kịp với nhu cầu<br />
vận hành thành phố thông minh. Qua bài viết, tác giả đưa ra những đánh giá về<br />
mức độ phát triển của công nghệ thông tin cho sự phát triển đô thị thông minh Việt<br />
Nam làm cơ sở cho việc kiến nghị một số giải pháp hướng tới nước ta xây dựng<br />
được 5 thành phố thông minh đến năm 2020.<br />
Từ khóa: Công nghệ thông tin, đô thị thông minh<br />
<br />
1. Quan điểm về đô thị thông minh<br />
Hiện nay, chưa có nhà khoa học nào chỉ ra khái niệm thống nhất về đô thị<br />
thông minh. Theo nguồn Bách Khoa toàn thư mở Wikipedia (2019): “Thành phố<br />
thông minh hay đô thị thông minh như là một hệ thống hữu cơ tổng thể được kết nối<br />
từ nhiều hệ thống thành phần với hệ thống trí tuệ nhân tạo có thể hành xử thông<br />
minh như con người, gồm mạng viễn thông số (dây thần kinh), hệ thống nhúng<br />
thông minh (não bộ), các cảm biến (giác quan) và phần mềm (tinh thần và nhận<br />
thức) để nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện chất lượng phục vụ của chính<br />
quyền thành phố, giảm tiêu thụ năng lượng, quản lý hiệu quả các nguồn tài nguyên<br />
thiên nhiên”.<br />
Có nhiều lĩnh vực trong cuộc sống ở các thành phố, các khu đô thị được ứng<br />
dụng thông tin, ứng dụng hệ thống cảm biến và trở nên thuận lợi hơn giúp người<br />
dân có sự hài lòng cao hơn về chất lượng cuộc sống như: Ở Trung Quốc, Brazil,<br />
Qatar, nhờ việc ứng dụng cảm biến để theo dõi tình hình rò rỉ nước sạch nhằm<br />
chống thất thoát nước ở thành phố đã làm giảm được giảm 40-50% rò rỉ nước. Hệ<br />
thống quản lý rác thải thông minh tại thành phố Cincinnati của Mỹ đã giảm được<br />
17% tỷ lệ phát xạ ô nhiễm từ rác thải. Cũng nhờ việc áp dụng hệ thống giao thông<br />
<br />
<br />
151<br />
thông minh ở các đường cao tốc ở Anh đã làm giảm 30% thời gian đi lại và 50%<br />
các vụ tai nạn giao thông.<br />
Như vậy có thể hiểu đơn giản hơn nữa: Thành phố thông minh là thành phố<br />
có thể sử dụng dữ liệu tiện ích để cải thiện mức độ hài lòng của cư dân, là thành phố<br />
giàu thông tin và được kết nối trong một mạng lưới hạ tầng đô thị và dịch vụ đầy<br />
đủ, năng động và an toàn. Là nơi mà các dịch vụ internet được vận hành một cách<br />
an toàn để quản lý tài sản của thành phố như hoạt động của các bộ máy tổ chức, hệ<br />
thống thông tin, trường học, hệ thống giao thông, thư viện, bệnh viện, hệ thống cấp<br />
nước, xử lý chất thải, các dịch vụ công cộng…<br />
2. Thực trạng công nghệ thông tin ở Việt Nam thời 4.0<br />
Những năm gần đây, với việc mong muốn xây dựng chính phủ điện tử cũng<br />
như đáp ứng nhiều hơn cho nhu cầu của doanh nghiệp và người dân nên hệ thống cơ<br />
sở hạ tầng công nghệ thông tin đã có những đầu tư khá lớn. Việt Nam là một quốc<br />
gia có hạ tầng CNTT và viễn thông tiên tiến. Năm 2016, cả nước đạt số thuê bao di<br />
động/100 dân là 139,2/100 dân mà số thuê bao cố định chỉ đạt 6,04/100 dân và có<br />
xu hướng ngày càng đi xuống. Xu thế này cũng hợp với xu hướng chung của thế<br />
giới trước những giá trị sử dụng to lớn mà điện thoại di động mang lại cho cuộc<br />
sống hàng ngày nhờ những nội dung phong phú và tương tác trực tiếp mọi nơi, mọi<br />
lúc. Số lượng người sử dụng internet trên thị trường băng rộng cố định tăng nhanh<br />
làm nền tảng cho sự phát triển các sản phẩm ngành công nghệ thông tin. Theo thống<br />
kê của bộ thông tin và truyền thông số người sử dụng internet đã tăng đến 50,23<br />
triệu người trong năm 2016.<br />
Số doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin cũng<br />
tăng lên khá nhanh trong những năm gần đây. Đến năm 2017, số doanh nghiệp phần<br />
cứng, điện tử đăng ký hoạt động là trên 3.404 doanh nghiệp, doanh nghiệp phần<br />
mềm là trên 7.433 doanh nghiệp và doanh nghiệp nội dung số là 2.700 doanh<br />
nghiệp. Với số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập lớn như vậy cho thấy thị<br />
trường công nghệ thông tin ở Việt Nam là rất tiềm năng. Doanh thu mà ngành công<br />
nghiệp công nghệ thông tin đem lại lên tới trên 67.693 triệu USD trong năm 2017.<br />
Ngành công nghệ thông tin không chỉ dừng lại ở phục vụ nhu cầu trong nước mà đã<br />
tiến tới xuất khẩu ra nước ngoài với kim ngạch đạt 6.789 triệu USD và ngành này<br />
đã đóng góp cho ngân sách khoảng 93 nghìn tỷ đồng năm 2016. Với lượng doanh<br />
nghiệp đăng ký tăng sẽ là cơ hội cho việc hợp tác và chuyển giao tốt các công nghệ<br />
mới phục vụ cho sự phát triển thành phố thông minh ở Việt Nam.<br />
Bên cạnh đó, tỷ lệ số người sử dụng internet ở Việt Nam là khá cao. Đến<br />
năm 2015, Việt Nam có 49,3 triệu người dùng internet và đến năm 2016 Việt Nam<br />
có 50,2 triệu người dân sử dụng internet. Tỷ lệ số người sử dụng internet của Việt<br />
<br />
152<br />
Nam đạt gần 50% cao hơn của tỷ lệ chung trên thế giới là 42.2% của châu Á là<br />
34,8%. Điều này giúp cho Việt Nam có lợi thế cho sự phát triển của đô thị thông<br />
minh do lượng người truy cập và sử dụng internet nhiều. Bên cạnh đó, người dân<br />
Việt Nam được đánh giá khá nhanh nên dễ tiếp cận được với các công nghệ mới.<br />
Các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới cũng nhận định công nghệ tiên tiến vào<br />
Việt Nam rất nhanh và nước ta có nhiều chính sách tốt để thu hút những công nghệ<br />
mới này. Với thực tế về số lượng sử dụng dịch vụ internet khá đông đảo đã làm cho<br />
doanh thu ở lĩnh vực viễn thông, internet của nước ta đã đạt mức 6.062,23 triệu<br />
USD năm 2015 và 6.158,08 triệu USD năm 2016 với sự góp mặt của các nhà mạng<br />
lớn là Viettel, Mobifone, Vietnammobile, VNPT.<br />
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước giúp cho<br />
việc giảm thiểu các thủ tục hành chính cũng như các chi phí phát sinh. Tính đến<br />
năm 2016, tỷ lệ máy tính trên tổng số cán bộ công chức thuộc cơ quan ngang bộ và<br />
cơ quan thuộc chính phủ là 87,94% và ở các Ủy ban nhân dân tỉnh, tỉnh phố trực<br />
thuộc trung ương là 95,26%. Tỷ lệ máy tính kết nối internet là trên 94%. Theo số<br />
liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông đến năm 2016, 100% các cơ quan<br />
nhà nước đã có trang/cổng thông tin điện tử, có đơn vị chuyên trách về công nghệ<br />
thông tin, có mạng nội bộ. Các dịch vụ công trực tuyến đã được nghiên cứu và triển<br />
khai như: Thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, kê khai hóa đơn thuế<br />
qua mạng, đấu thầu qua mạng, đăng ký kinh doanh qua mạng, đăng ký giao dịch<br />
đảm bảo, cấp giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy và giấy xác nhận công bố phù<br />
hợp quy định an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, theo báo cáo chỉ số thương mại điện tử<br />
năm 2017, chỉ có 45% các doanh nghiệp có website, 99,64% doanh nghiệp đã kê<br />
khai thuế điện tử (694.000 doanh nghiệp) và 95,31% doanh nghiệp làm thủ tục hải<br />
quan điện tử. Việt Nam đang hướng tới việc điện tử hóa các thủ tục quản lý hành<br />
chính công. Điều này đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân cũng như<br />
doanh nghiệp về thời gian và chi phí đi lại.<br />
Hơn nữa, qua báo cáo về chỉ số sẵn sàng cho sự phát triển và ứng dụng công<br />
nghệ thông tin (ICT) ở Việt Nam (2018), về mức độ xếp hạng chung của các bộ, cơ<br />
quan ngang bộ có dịch vụ công thì Bộ Tài Chính xếp thứ nhất trong năm 2018 với<br />
chỉ số là 0,9263 và xếp thứ hai là Bảo hiểm xã hội Việt Nam (0,9175), Ngân hàng<br />
Nhà nước Việt Nam (0,727), các cơ quan còn lại có mức đánh giá ở mức 0,6 và thấp<br />
nhất là Thanh tra chính phủ có chỉ số sẵn sàng cho sự phát triển và ứng dụng công<br />
nghệ thông tin là 0,0466.<br />
Về xếp hạng ICT theo các thành phố trực thuộc trung ương thì Đà Nẵng xếp<br />
vị trí thứ nhất (0,9407), TP Hồ Chí Minh xếp thứ 2 (0,6652), Hà Nội đứng thứ ba<br />
(0,6473), Quảng Ninh xếp thứ 4 (0,6396) và thấp nhất là tỉnh Hậu Giang các chỉ số<br />
đều là 0. Do đó, Việt Nam không thể xác định phát triển đô thị thông minh ở tất cả<br />
<br />
<br />
153<br />
các tỉnh thành mà hiện tại tập trung vào 5 thành phố lớn có sự phát triển mạnh về cơ<br />
sở hạ tầng công nghệ thông tin cũng như các yếu tố liên quan đến dân cư là: Đà<br />
Nẵng, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh và Phú Yên.<br />
Mặc dù có những điểm mạnh nhất định trong việc ứng dụng công nghệ thông<br />
tin để phát triển đô thị thông minh nhưng những yếu tố này vẫn còn những điểm<br />
yếu là:<br />
Về cơ sở dữ liệu để xây dựng thành phố thông minh ở Việt Nam vẫn chưa<br />
được thực sự đồng bộ, số liệu và dữ liệu giữa các ngành còn lệch và chưa ăn khớp.<br />
Tính minh bạch của dữ liệu chưa cao. Qua phần phân tích chỉ số ứng dụng thông tin<br />
của các bộ, cơ quan ngang bộ đã cho thấy sự khập khiễng trong hệ thống hành chính<br />
khi mà bộ tài chính có chỉ số ứng dụng rất cao nhưng về thanh tra chính phủ và Bộ Tài<br />
nguyên và môi trường lại chiếm thấp 0,33 và thấp hơn nữa là 0,0466. Điều này làm cho<br />
việc phát triển đô thị thông mình đã có sự tập trung ở những thành phố lớn có chỉ số<br />
ứng dụng công nghệ thông tin cao vẫn gặp phải những trở lực nhất định.<br />
Về nguồn nhân lực công nghệ thông tin vẫn còn nhiều bất cập điều này sẽ<br />
khiến cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các đô thị thông minh sẽ bị hạn<br />
chế bởi công nghệ luôn có sự thay đổi không ngừng. Theo số liệu thống kê từ Bộ<br />
Thông tin và Truyền thông (2017), tính đến năm 2016, ngành công nghệ thông tin<br />
của Việt Nam đã thu hút được trên 780 nghìn người lao động trong đó: 568 nghìn<br />
người lao động làm việc trong lĩnh vực công nghiệp phần cứng, điện tử; 97 nghìn<br />
người làm việc trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm; 47 nghìn người làm trong<br />
lĩnh vực công nghiệp nội dung số và 68 nghìn người làm trong lĩnh vực dịch vụ<br />
công nghệ thông tin (trừ bán buôn và phân phối). Và mức lương của người lao động<br />
trong ngành công nghệ thông tin ở mức khá cao so với mức thu nhập bình quân đầu<br />
người ở Việt Nam. Cụ thể, theo số liệu thống kê năm 2017, thu nhập bình quân 1<br />
lao động trong lĩnh vực phần cứng, điện tử là 3.866 USD/người/năm, lĩnh vực phần<br />
mềm là 6.849 USD/người/năm; lĩnh vực nội dung số là 6.189 USD/người/năm; lĩnh<br />
vực dịch vụ công nghệ thông tin là 5.609 USD/người/năm. Với mức lương khá cao<br />
như vậy, ngành công nghệ thông tin vẫn giữ vai trò là ngành “hot” trong việc thu<br />
hút lực lượng lao động tham gia vào như: Lập trình ứng dụng điện thoại, quản trị cơ<br />
sở dữ liệu, kỹ sư phần mềm, thiết kế game video, quản trị mạng, chuyên gia bảo<br />
mật, chuyên gia phân tích hệ thống máy tính, phát triển và thiết kế website, thông<br />
tin y tế kỹ thuật, quản lý công nghệ.<br />
Nhân lực cho ngành công nghệ thông tin trong giai đoạn 4.0 ở nước ta là vấn<br />
đề rất cần sự quan tâm vì hiện nay nhu cầu nhân lực của các doanh nghiệp trong<br />
ngành này là rất lớn và cấp bách, vượt qua khả năng đáp ứng của ngành đào tạo<br />
nhân lực. Trong báo cáo của Measureing the Informaton Society 2014 của ITU, chỉ<br />
số kỹ năng CNTT - TT của Việt Nam năm 2011 đứng ở vị trí 108/152 và năm 2012<br />
là 99/152 nhưng 2013 lại là 101/152. Điều này cho thấy mặc dù kỹ năng công nghệ<br />
<br />
154<br />
thông tin ở Việt Nam có tăng theo sự phát triển của khoa học công nghệ. Nhưng<br />
việc chạy đua trong cuộc cách mạng 4.0 của nhân lực Việt Nam so với nước trong<br />
khu vực và trên thế giới vẫn còn những hạn chế. Theo phát biểu của ông Phan Tâm<br />
- Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông (14/11/2018): “Trong báo cáo về mức<br />
độ sẵn sàng cho nền sản xuất trong tương lai do Diễn đàn Kinh tế Thế giới mới đây<br />
công bố, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia chưa sẵn sàng cho cuộc cánh mạng<br />
4.0, chỉ xếp thứ 70/100 về nguồn nhân lực và 81/100 về lao động có chuyên môn<br />
cao. So sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á về nguồn nhân lực, Việt<br />
Nam xếp sau Malaysia, Thái Lan, Philippines.”<br />
Hiện nay, khoảng cách giữa nội dung đào tạo và yêu cầu của nhà tuyển dụng<br />
trong lĩnh vực công nghệ thông tin còn khá lớn. Theo con số thống kê tháng 12/2010<br />
của Bộ Thông tin và Truyền thông, Việt Nam có 277 trường đại học, học viện và cao<br />
đẳng đào tạo nhân lực ngành công nghệ thông tin. Và hiện nay, các trường đại học<br />
chưa có nhiều khoa học, môn học chuyên sâu về công nghệ nội dung số. Theo thông<br />
tin từ Văn phòng hỗ trợ du học Viet Future: “Dự báo đến năm 2020, nếu vẫn giữ tốc<br />
độ phát triển như hiện nay, Việt Nam sẽ thiếu 400.000 nhân sự ngành CNTT, tức là<br />
mỗi năm các công ty thiếu 80.000 nhân sự. Trong khi đó, mỗi năm nước ta chỉ có<br />
khoảng 32.000 sinh viên ngành CNTT tốt nghiệp. Nhưng trong số đó, lại có rất ít sinh<br />
viên đáp ứng đủ nhu cầu của các doanh nghiệp.” Sinh viên ngành công nghệ thông tin<br />
nói riêng và khối kỹ thuật nói chung có nhược điểm là thiếu nghiêm trọng kiến thức<br />
xã hội về môi trường công nghiệp. Do vậy, ngay cả khi đã được tuyển dụng, sinh viên<br />
mới ra trường gần như không có hiểu biết về cấu trúc doanh nghiệp, cơ cấu ra quyết<br />
định của doanh nghiệp và do đó không hiểu được lộ trình nghề nghiệp của bản thân<br />
và không khớp được lợi ích của mình với lợi ích của doanh nghiệp. Hơn nữa, trình độ<br />
ngoại ngữ của người lao động là một trở lực khá lớn cho việc tham gia vào làm việc<br />
tại các doanh nghiệp IT lớn, có nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam.<br />
Bên cạnh đó, mặt bằng chung chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại các trường<br />
đại học công nghệ mới chỉ đáp ứng được yêu cầu nhỏ của các doanh nghiệp thuộc<br />
ngành công nghệ thông tin. Phần lớn, các doanh nghiệp này khi sử dụng lao động mới<br />
ra trường đều cần một khoảng thời gian nhất định để đào tạo, huấn luyện thêm kỹ năng<br />
làm việc cũng như trình độ chuyên môn. Hơn thế nữa, ý thức, thái độ và trách nhiệm<br />
của nhân lực trong ngành này cũng không ổn định, tính chất công việc có nhiều biến<br />
đổi làm cho người lao động có tâm lý nhảy việc. Theo điều tra của Viện nghiên cứu<br />
quốc tế Stanford, người ta chỉ cần 25% kiến thức chuyên môn, còn lại là 75% kỹ năng<br />
mềm để đạt được thành công trong công việc. Làm việc trong lĩnh vực công nghệ<br />
thông (đặc biệt là nội dung số), người lao động cần phải am hiểu về tâm lý người dùng,<br />
tư duy sáng tạo, truyền thông thương hiệu,… Nhưng những kiến thức này hầu hết các<br />
trường kỹ thuật chưa cho sinh viên tiếp cận và trải nghiệm.<br />
<br />
<br />
155<br />
3. Một số giải pháp về công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu phát triển<br />
đô thị thông minh ở Việt Nam<br />
Sự nhanh nhạy, sự hòa nhịp của người dân vào việc xây dựng đô thị thông<br />
minh chính là đòn bẩy cho các cơ quan chức năng nghiên cứu để sớm triển khai<br />
thành phố mà chất lượng đời sống, sinh hoạt của người dân trở nên tốt hơn. Trong<br />
nội dung bài viết, tác giả xin đề xuất một số giải pháp như sau:<br />
Thứ nhất, cần phát triển tốt hạ tầng công nghệ thông tin ở tất cả các cơ quan<br />
bộ, ngang bộ. Qua đó giúp cho sự điều phối từ phía nhà nước đối với đô thị thông<br />
minh hiệu quả hơn. Đồng thời, việc kịp thời đón nhận và xử lý những góp ý, thắc<br />
mắc của người dân trở nên nhanh chóng. Có như vậy, chất lượng các dịch vụ tại đô<br />
thị thông minh mới thực sự đem lại sự hài lòng cao cho người dân sống trong các<br />
thành phố thông minh đó.<br />
Thứ hai, phát triển cơ sở dữ liệu một cách đồng bộ. Có như vậy việc ra quyết<br />
định xử lý trong thành phố thông minh mới trở nên thống nhất và hiệu quả. Cùng<br />
với việc phát triển cơ sở dữ liệu là việc phải đảm bảo mức độ an toàn, bảo mật cho<br />
những dữ liệu này để tránh tình trạng kẻ xấu sử dụng những thông tin, dữ liệu này<br />
với mục đích phi pháp.<br />
Thứ ba, phát triển tốt nhân lực ngành công nghệ thông tin để có thể kịp thời<br />
bắt kịp với những thay đổi trong công nghệ mới. Tránh đưa thành phố thông minh<br />
nhưng lại sử dụng toàn là các công nghệ lỗi thời. Để có thể phát triển tốt nhân lực<br />
cho ngành công nghệ thông tin cần có sự kết hợp từ phía nâng cao chất lượng giáo<br />
dục tại các trường học, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực tại doanh<br />
nghiệp và càng hiệu quả hơn khi có sự phối kết hợp giữa các doanh nghiệp trong và<br />
ngoài nước với các cơ sở giáo dục trong và ngoài nước trong việc đào tạo nhân lực<br />
công nghệ thông tin cho Việt Nam.<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Bộ Thông tin và Truyền Thông (2017), “Sách trắng về công nghệ thông tin và<br />
truyền thông Việt Nam 2017”, NXB Thông tin và Truyền thông.<br />
2. Bô Thông tin và Truyền thông (2018), “Báo cáo chỉ số sẵn sàng cho sự phát<br />
triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam năm 2018”,<br />
Hội tin học Việt Nam.<br />
3. Thủ tướng chính phủ (2018), Quyết định 950/QĐ-TTg Phê duyệt đề án phát triển đô thị<br />
thông mình bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng năm 2030.<br />
4. Đ.K. Hà (2017), Smart city: Đô thị thông minh là gì, cập nhật 28/2/2019,<br />
https://doimoisangtao.vn/news/2017/10/9/phn-1-tng-quan-v-th-thng-minh-<br />
smart-city.<br />
<br />
156<br />