intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng sử dụng sân chơi tự nhiên trong tổ chức hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ mẫu giáo

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

67
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày về thực trạng sử dụng sân chơi tự nhiên trong tổ chức hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ mẫu giáo ở các trường mầm non tại thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp. Nghiên cứu cho thấy, nhiều giáo viên mầm non trên địa bàn thành phố Cao Lãnh chưa sử dụng sân chơi tự nhiên để tổ chức hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ. Bài viết cũng phân tích các nguyên nhân thực trạng và thảo luận phương hướng biện pháp. Dữ liệu nghiên cứu được thực hiện trên 10 trường mầm non trong khu vực với 199 giáo viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng sử dụng sân chơi tự nhiên trong tổ chức hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ mẫu giáo

  1. THỰC TRẠNG SỬ DỤNG SÂN CHƠI TỰ NHIÊN  TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CHƠI NGOÀI TRỜI CHO TRẺ MẪU GIÁO Nguyễn Đức Danh Khoa Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thị Bích Vân Khoa Giáo dục, Trường Đại học Đồng Tháp Tóm tắt Bài viết trình bày về thực trạng sử dụng sân chơi tự  nhiên trong tổ chức hoạt động chơi ngoài   trời cho trẻ  mẫu giáo  ở  các trường mầm non tại thành phố  Cao Lãnh, Đồng Tháp. Nghiên cứu cho   thấy, nhiều giáo viên mầm non trên địa bàn thành phố Cao Lãnh chưa sử dụng sân chơi tự nhiên để tổ  chức hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ. Bài viết cũng phân tích các nguyên nhân thực trạng và thảo   luận phương hướng biện pháp. Dữ liệu nghiên cứu được thực hiện trên 10 trường mầm non trong khu  vực với 199 giáo viên. Từ khóa: sân chơi tự nhiên, chơi ngoài trời, chơi ngoài thiên nhiên 1. Mở đầu Chơi  ở  ngoài trời là một trong những hoạt động được quy định trong chương trình giáo dục   mầm non [1], góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục mầm non. Trong hoạt động  ấy, tổ  chức và sử  dụng có hiệu quả môi trường chơi đóng vai trò quan trọng.  Một số  đăc điêm cua sân ch ̣ ̉ ̉ ơi ngoài trời được bàn luận như  (1) tự do thoat khoi s ́ ̉ ự  anh h ̉ ưởng   ̉ cua ng ươi l ̀ ơn (Smith & Connolly (1980)), (2) c ́ ần có những vật liệu thiên nhiên, (3) là một không gian   mở đa dạng, nơi mà trẻ có thể chạy, nhảy, bò, lăn (Karin H.Spencer & Paul M.Wright) [2]. Sân chơi tự  nhiên có thể đáp ứng được các yêu cầu này. Waite (2006) đã công bố  phương pháp tiếp cận trường học rừng[3].     Hiện tại, trên thế  giới,  nhiều nước như  Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Nhật Bản sử  dụng môi trường thiên nhiên với   những vật liệu sẵn có, mở ra nhiều cơ hội cho trẻ khám phá và phát triển. Thành phố  Cao Lãnh, nơi có những khu di tích lịch sử  nổi tiếng, các cánh đồng lúa bát ngát,   những dòng sông tươi mát, những khu công viên công cộng rộng 7 ha, những vườn trái cây trĩu đầy các  quả xoài, cam, quýt, mận, thanh long… có thể sử dụng như môi trường chơi ngoài trời của các trường   mầm non trong khu vực là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Sân chơi Sân chơi là một trong những thành tố của môi trường chơi ngoài trời,   ảnh hưởng đến việc trẻ  chơi cái gì và chơi như thế nào. Môi trường chơi có nguồn nguyên liệu tốt, được tổ  chức tốt sẽ  giúp   trẻ nhìn thấy cơ hội chơi. Stephanie Feeney và Marion Magarick  cho rằng, “ Tất cả trẻ con, là trai hay   gái, đều có những nhu cầu và khả  năng đặc biệt, phát triển bởi cùng một cách thức và có nhu cầu   chơi giống nhau và lựa chọn vật liệu chơi kỹ càng. Trẻ con cần đồ chơi tốt như người lớn cần công   cụ để lao động” [4].  ̉ Theo tông h ợp cua tác gi ̉ ả Kelly Ross Kantz (2004) [5] co cac loai sân ch ́ ́ ̣ ơi ngoài trời như sau: 1
  2. Sân chơi truyền thống (traditional playground): có thiết bị chơi làm bằng kim loại hoặc gỗ như  xích Ngày nhận bài: ........ Ngày sửa bài: ........ Ngày nhận đăng: ........ Tác giả liên hệ: Lê Thị Bích Vân  Địa chỉ e­mail: levan.ltbv@gmail.com đu, cầu trượt, chỗ leo trèo. Môi trường chơi ngoài trời có khuynh hướng thiết kế nhằm mục tiêu phát  triển thể chất và giải trí. Sân chơi đương đại (contemporary playgound): được bố trí những thiết bị có kết cấu, kiểu dáng  mới lạ và độ cao khác nhau. Mục tiêu chính của sân chơi này cũng là phát triển vận động thô và bài   tập vận động. Sân chơi mang tính phiêu lưu (adventure playground): là những khoảng đất trống, thường được  trẻ  con  ở các vùng ngoại thành sáng tạo các trò chơi với những vật liệu phù hợp , và gồm cả những  công trình xây dựng. Người lớn tạo điều kiện để trẻ chơi với các con vật đang sống trong môi trường  của chúng; chơi với các vật liệu tái chế  như  lốp xe, nước,  cát, bụi,… hoặc là những nguồn nguyên  liệu phù hợp khác (Rohane). Sân chơi này có đặc điểm là trẻ  được tự  do chọn lựa chỗ  chơi, đứa trẻ  không bị hạn chế bởi không gian chơi và nguồn vật liệu chơi. Với sân chơi loại này, trẻ  có thể  chơi  với bất kỳ loại thời tiết nào. Vật liệu chơi là những gì phù hợp trong hoàn cảnh. Trẻ có thể  chơi các  trò như  mặc quần áo, sơn, điêu khắc, nhảy múa hoặc làm vườn. Người lớn sẽ  không can thiệp vào   việc chơi của trẻ nếu chúng không yêu cầu. Sân chơi sáng tạo (creative playground): các vật liệu có thể  có là lốp xe, cột điện thoại, cáp  cuộn, ống phế liệu. Các thiết bị sử dụng lâu dài như cầu tuột, xích đu, khu chơi lắp ráp; khu vực với   những hoạt động đặc biệt như  nghệ  thuật, làm vườn, nuôi động vật. Môi trường chơi này tạo ra   những thử thách về mặt thể chất, xã hội, nhận thức cho đứa trẻ và gia đình. Trẻ con là người tham gia  tích cực trong sự khám phá sân chơi sáng tạo, chúng được cung cấp rất nhiều sự lựa chọn để  chơi và   học. Những cơ hội cho trẻ phát triển ý thức về  bản thân thông qua thành công hay thất bại trong các  hoạt động là triết lý cơ bản của một sân chơi này Sân chơi tổng hợp (comprehensive playground): các thiết bị thể thao nhằm phát triển vận động   thô là mục tiêu chính của sân chơi dạng này. Khu chơi lắp ráp đóng vai trò phát triển nhận thức, xã hội   và xúc cảm. Chơi và học là triết lý nền tảng của sân chơi tổng hợp. Như   vậy,   sân   chơi   tự   nhiên,   theo  sự   phân   loại   trên  chính  là   sân  chơi   mang  tính  phiêu  lưu  (adventure playground), nơi có khoảng đất trống, với các vật liệu chơi là những gì có sẵn. Nhiều   trường mầm non trên thế giới đã sử  dụng rừng như  là một sân chơi tuyệt vời cho các hoạt động bất  tận của trẻ. Sân chơi tự  nhiên cũng phải đảm bảo an toàn cho trẻ, nơi đó không có những mảnh vụn (các  miếng bể  có cạnh sắt, nhọn), các con vật dữ  có thể  tấn công trẻ. Khu vực chơi phải tránh các nguy   hiểm từ giao thông, khói bụi, tiếng ồn [5]. Theo Hendrich, môi trường chơi ngoài trời cần phải gợi lên  cảm xúc thẩm mỹ để thôi thúc trẻ muốn chạm vào và làm việc với nó [5]. 2.1.2. Giá trị của việc chơi trong tự nhiên đối với sự phát triển của trẻ a. Phát triển về thể chất ́ Môi trường xanh la môt thanh phân thiêt yêu cho môi tr Frances Ming Kuo noi “ ̀ ̣ ̀ ̀ ́ ́ ường sông khoe ́ ̉   ̣ ̉ manh cua con ng ươì” [6]. Khi trẻ được tiếp xúc với không khí trong lành của thiên nhiên sẽ có lợi cho hô hấp của trẻ.  Bộ  xương cua tre phân l ̉ ̉ ̀ ớn được câu tao băng sun, đô răn thâp, đô xôp cao, ch ́ ̣ ̀ ̣ ̣ ́ ́ ̣ ́ ứa nhiêu n ̀ ước. Vân đông tich ̣ ̣ ́   cực co tac dung thuc đây s ́ ́ ̣ ́ ̉ ự  phat triên nhanh chong cac x ́ ̉ ́ ́ ương ông theo chiêu dai, đông th ́ ̀ ̀ ̀ ời tăng độ   vưng chăc cua x ̃ ́ ̉ ương nhờ đô đông đăc tr ̣ ̣ ưng cua x ̉ ương ở tre tuôi m ̉ ̉ ẫu giáo [7]. Trong giai đoan 3 – 5 ̣   tuôi,̉  xương hấp thụ nhiều canxi hơn nên khi vận động ngoài trời thường xuyên với thời gian thích hợp  cơ thể trẻ sẽ tự tổng hợp vitamin D góp phần giúp hệ xương phát triển. 2
  3. ̉ ́ ́ ơi thiên nhiên, trong đo co cac điêu kiên khi hâu (nong, lanh, mat me), cac loai th Tre tiêp xuc v ́ ́ ́ ́ ̀ ̣ ́ ̣ ́ ̣ ́ ̉ ́ ̣ ơì  tiêt (năng, gio, m ́ ́ ́ ưa) giup c ́ ơ thê tre thich nghi đ ̉ ̉ ́ ược vơi môi tr ́ ường sông. Khi đ ́ ến thăm một khu nông   trại, hay cánh đồng, vườn cây ăn quả của bác nông dân, tre co thê tham gia vào lao đông, trông va chăm ̉ ́ ̉ ̣ ̀ ̀   ̣ soc cac loai rau, trai. Theo cac nghiên c ́ ́ ́ ́ ứu, điêu nay chăng nh ̀ ̀ ̉ ững mang lai kiên th ̣ ́ ức vê dinh d ̀ ưỡng cho   ̉ tre ma con giup tre h ̀ ̀ ́ ̉ ưng thu ăn cac loai nông san do minh trông, va hinh thanh thoi quen ăn uông khoe ́ ́ ́ ̣ ̉ ̀ ̀ ̀ ̀ ̀ ́ ́ ̉   ̣ manh [6]. ̣ Bên canh đo, ngoài tr ́ ời la không gian thoang đang, n ̀ ́ ̃ ơi tre co thê t ̉ ́ ̉ ự do chay, nhay, la het, leo treo ̣ ̉ ́ ̀  ́ ̉ giup cung cô c ́ ơ quan vân đông, hinh thanh t ̣ ̣ ̀ ̀ ư thê nǵ ười hợp ly va giup hoan thiên cac ch ́ ̀ ́ ̀ ̣ ́ ức năng cua c ̉ ơ  quan thực vât [7].  ̣ Ngoai v ̀ ận động cơ bản, các tố chất vận động, chơi ngoài trời giup tre phat triên cac ́ ̉ ́ ̉ ́  ̣ ̣ vân đông tinh ̉ . Chăng han  ̣ như khi chơi ở bãi cát, trẻ không chi bi ̉ ết dung s ̀ ưc manh đê xuc, b ́ ̣ ̉ ́ ưng cat ma ́ ̀  ̀ ̀ ự kheo leo cua  con dung s ́ ́ ̉ ngón tay để tạo các hoa văn trên cát ướt [8]. Trong môi trường ngoài trời, trẻ  con được khám phá các hiện tượng thời tiết, sự  thay đổi của   mùa và những bóng cây. (e.g. Rivkin, 1995; Bilton, 2002; Ouvry, 2003), chơi các trò chơi tưởng tượng   (Ouvry,   2003)   như   siêu   anh   hùng   (Paley,   1984).   Fjortoft   (2001,   2004)   báo   cáo   nghiên   cứu   từ  Scandinavia, chứng minh rằng, trẻ  em chơi  ở  cảnh quan t ự  nhiên dường như  khỏe mạnh hơn, cải   thiện thể  lực, sự  cân bằng và sự  phối hợp, và thể  hiện sự  sáng tạo hơn trong cách chơi. Fjortoft và   Sageie (2000) chỉ  ra rằng cảnh quan thiên nhiên có những phẩm chất đáp  ứng được nhu cầu của trẻ  con trong môi trường chơi đa dạng và đầy kích thích. Đó là sự  đa dạng của tự  nhiên trong các mùa   khác nhau  ảnh hưởng đến chức năng chơi của trẻ. Ví dụ, rừng và vách đá được sử  dụng để  leo núi,  các khu vực của cây bụi được sử  dụng cho xây dựng các tụ  điểm và nơi trú ẩn, sườn dốc được sử  dụng để  trượt, trong khi không gian mở  được sử  dụng để  chơi rượt đuổi. Fjortoft và Sageie (2000)   nhấn mạnh rằng, khi trẻ chơi trong môi trường thực tế (tự nhiên) có xu hướng thể  hiện các kỹ  năng  vận động tốt hơn những đứa trẻ chơi ở một sân chơi truyền thống [3].  b. Phát triển trí tuệ Như đa noi  ̃ ́ ở trên, không gian tự nhiên la n ̀ ơi ly t ́ ưởng đê tre thoa thich vân đông, nh ̉ ̉ ̉ ́ ̣ ̣ ờ đo, vung ́ ̀   ̀ ̣ ̃ ơn h đôi thi se l ́ ơn. Đây la vung nao bô đam nhiêm tri nh ̀ ̀ ̃ ̣ ̉ ̣ ́ ớ dai han va tri nh ̀ ̣ ̀ ́ ớ liên hê (kha năng hoc va nh ̣ ̉ ̣ ̀ ơ ́ môi liên hê gi ́ ̣ ưa nh ̃ ưng s̃ ự vât v ̣ ới nhau) [7]. Đông th ̀ ời, nâng cao kha năng tâp trung chu y cua tre. ̉ ̣ ́ ́ ̉ ̉ Sự  phat triên cua ky năng nhân th ́ ̉ ̉ ̃ ̣ ưc bao gôm y muôn hoc tâp (nh ́ ̀ ́ ́ ̣ ̣ ư  sự  to mo, long kiên tri), tri ̀ ̀ ̀ ̀ ́  nhơ,́  ky năng suy  ̃ ̣ ̣ nghi,̃ ky ̃ năng hoc tâp co  ́ sự   liên kêt́  manh me  ̣ ̃ vơí  vui  chơi.   Theo  Marianne  B.  Staempfli, chơi giúp trẻ em phát triển “tư duy linh hoạt và khác biêṭ ” từ đó trẻ có khả năng giải quyết   các vấn đề trong thế giới thực. Chơi với nước giúp trẻ học về số lượng, đo lường, biết những vật thể có hình dạng khác nhau  nhưng cùng thể tích, hiểu về tính thuận nghịch, nhận biết các vật nổi hay chìm [9].  Đi qua 1 cây cầu  không có tay vịn, trẻ có thể  học cách thăng bằng; đánh giá được mức độ  để  thể  hiện sức mạnh, tốc  độ; có kế  hoạch cho các chuỗi chuyển động. Chơi cát, trẻ  biết đo, đếm số  xuổng; tính chất của cát   (ướt hay khô), cát khô để đổ/ chở, cát ướt, dính để xây [8]. Như vây, ch ̣ ơi ngoài trời giup tre m ́ ̉ ở rông ̣   ́ ưc vê thê gi kiên th ́ ̀ ́ ới xung quanh. Ở ngoài trời, trẻ có thể tham gia trò chơi mô phỏng, loại trò chơi  ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự  phát triển ngôn ngữ của trẻ bao gôm kha năng nhân th ̀ ̉ ̣ ưc tôt h ́ ́ ơn khi noi,  ́ phát triển khả năng giao tiếp,  hiểu về từ loại và chức năng của từ  , hay hiểu cấu trúc ngữ pháp. Các nhóm từ liên quan đến các trò  chơi vận động như “đi, dừng, đứng, chạy, nhảy, leo, bò, trườn, ném, chụp, đá”. Chơi trong môi trường  thiên nhiên,   trẻ  học được nghĩa của từ  “nóng nực, mát mẻ, trong lành, quang đãng”. Trẻ  học  ngôn  ngữ về thời gian “hôm qua, hôm nay, ngày mai, chút nữa, một lát sau”. Trẻ có thể cảm nhận về đồ vật  và mùi, vị  như  “mặn, ngọt, thơm, mát, nóng nực, oi bức”. Trẻ  học được các từ  về  nghệ  thuật, khoa  học, toán học, âm nhạc, tự nhiên, thực vật và cả về  con người [10], [8]. Kể những câu chuyện ở các  môi trường yêu thích như  rừng cây, thung lũng, hay ngọn núi còn mang lại cho trẻ  cảm giác tò mò,  tuyệt vời [11]. c. Phát triển cảm xuc và các năng l ́ ực xã hội 3
  4. Trong khi chơi, trẻ phát triển năng lực xã hội và trưởng thành về  cảm xuc. Ch ́ ơi ở  môi trường   tự nhiên cũng tìm tàng những rủi ro về  thể chất nhưng chính điều đó giúp trẻ  tự  tin vào bản thân và  biết cách quản lý những rủi ro một cách hiệu quả (Stephenson, 2003) [3]. Chơi ngoài trời cung câp cho tre c ́ ̉ ơ hôi ch ̣ ơi tự do, nghi theo cach tre muôn, không bi anh h ̃ ́ ̉ ́ ̣ ̉ ưởng  trực tiêp b ́ ởi ngươi l ̀ ơn, do đo, ch ́ ́ ơi đóng góp vào sự phát triển các hệ thống tự thân (lòng tự trọng, tự  trị, tự nhận thức, tự lực) [12]. Nghiên cưu cua Gordon, O’Toole & Whitman cho thây ch ́ ̉ ́ ơi lam tăng thêm cam xuc hanh phuc cua ̀ ̉ ́ ̣ ́ ̉   ̉ ̀ ở  nên manh khoe. Niêm vui, s tre giup tinh thân tr ́ ̣ ̉ ̀ ự  thoa thich va t ̉ ́ ̀ ự  do thê hiên khi ch ̉ ̣ ơi giup tre hiêu ́ ̉ ̉   được y nghia cua s ́ ̃ ̉ ự hanh phuc. ̣ ́ Một số trò chơi ngoài trời giúp phát triển cảm xuc và năng l ́ ực xã hội như  trẻ  có thể  biết cách   làm việc cùng nhau hoặc tránh né một số người; giảm căng thẳng (khi chạy tự do);  biết chia sẻ dụng  cụ chơi; biết chờ cho đến lượt [8]. Chơi  ở  ngoài thiên nhiên là biện pháp giáo dục môi trường hiệu quả  [3], giúp trẻ  gắn kết với   thiên nhiên, hình thành thái độ bảo vệ cuộc sống các loài động thực vật xung quanh. 2.2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận Tác giả  tiến hành nghiên cứu định lượng về  thực trạng sử  dụng sân chơi của giáo viên tại 10   trường mầm non trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp (06 trường công lập và 04 trường   ngoài công lập) thông qua điều tra bằng phiếu hỏi. Cỡ  mẫu nghiên cứu được chọn theo công thức .   Trong đó, là quy mô tổng thể,  là tỷ lệ sai số cho phép,  là cỡ mẫu được chọn. Tổng số giáo viên mầm   non trên địa bàn thành phố Cao Lãnh là 357, với sai số  thì cỡ mẫu khảo sát là . Chọn dự  phòng thêm   10%, ta có cỡ mẫu sẽ khảo sát là 208 giáo viên. Sau khi làm sạch dữ liệu, số phiếu khảo sát hợp lệ là   199 phiếu. Dữ liệu được xử lý và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS. Các yếu tố định lượng trong phiếu khảo sát đều được thiết kế theo 5 mức phản hồi. Nội dung   của các mức phản hồi tùy thuộc và từng nội dung cần khảo sát về  thực trạng sử  dụng sân chơi của   giáo viên mầm non. Trong bài viết này, chúng tôi có sử  dụng đến mức đánh giá trung bình của giáo   viên (GV) về các yếu tố cần khảo sát để phân tích, đánh giá. Vì vậy, ý nghĩa giá trị trung bình của các   mức độ đánh giá được qui ước như sau: Giá trị trung bình Ý nghĩa tương đương 1,00 ­ 1,80 (1) Rất không tốt/Rất không đồng ý 1,81 ­ 2,60 (2) Không tốt/Không đồng ý 2,61 ­ 3,40 (3) Bình thường/Phân vân 3,41 ­ 4,20 (4) Tốt/Đồng ý 4,21 ­ 5,00 (5) Rất tốt/Rất đồng ý 2.2.1. Thực trạng sử dụng sân chơi ngoài trời Thành phố Cao Lãnh là nơi gần gũi với thiên nhiên, xung quanh các công trình kiến trúc là những  cánh đồng, vườn cây ăn quả, các khu du lịch sinh thái,.. là những sân chơi tự nhiên lý tưởng cho trẻ. Bảng . Thống kê mức độ sử dụng sân chơi của giáo viên Tỷ lệ % Khu vực Chưa  Hiếm khi Thỉnh thoảng  Thường xuyên  Luôn luôn bao   (1 ­ 8   (1 ­ 4 lần/tháng) (2 ­ 4 lần/tuần) (Mỗi ngày) giờ lần/năm) Trong sân trường 0.0 0.0 11.6 61.8 26.6 Sân chơi tự nhiên Khu đât trông ́ ́ 83.4 16.6 0.0 0.0 0.0 4
  5. Vươn cây ăn qua ̀ ̉ 75.4 24.1 0.5 0.0 0.0 Khu sinh thái 54.8 25.6 19.6 0.0 0.0 Canh đông ́ ̀ 77.9 22.1 0.0 0.0 0.0 Gần bờ sông, kênh rạch 82.9 10.6 6.5 0.0 0.0 Kết quả thống kê trong Bảng 1 cho thấy GV chủ yếu tổ chức hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ  trong khuôn viên sân trường với các mức độ thực hiện từ “thỉnh thoảng” (11.6%) đến “thường xuyên”  (61.8%) và “luôn luôn” (26.6%). Bên cạnh đó, đối với các sân chơi tự  nhiên, mức độ  GV thực hiện   hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ  rất thấp, chủ  yếu  ở  các mức độ  “chưa bao giờ”  và “hiếm khi”.  Trong đó, mức độ “chưa bao giờ” thực hiện với tỷ lệ từ 54,8% đến 83.4%. Như vậy, GV chủ yếu sử  dụng sân chơi của trường mà ít khai thác các sân chơi tự nhiên. Nguyên nhân của thực trạng trên được giải thích qua Bảng 2 và Bảng 3. 2.2.2. Điều kiện sân chơi của trường Bảng . Đánh giá của giáo viên về điều kiện sân chơi của trường Trung  Mức độ Tỷ lệ % Điều  bình kiện   sân  Binh ̀   Rất  Không  Rất  chơi thươǹ Tôt́ không tôt́ tôt́ tôt́ g 66. Sân chơi đủ rộng 3.96 Tốt 2.5 0 13.6 17.6 3 Sân chơi an toàn (có lót thảm/cỏ,…) 3.65 Tốt 1.5 4.5 32.2 51.3 10.6 65. Sân chơi sạch đẹp 4.07 Tốt 2.5 .5 8.0 23.6 3 68. ́ ơi phong phú Goc ch 3.86 Tốt 2.5 1.5 15.1 12.1 8 Đồ chơi đầy đủ, an toàn, mang tính  69. 3.88 Tốt 3.0 0 15.1 12.6 giáo dục 3 63. ̣ ̣ Vât liêu chơi phong phú 3.77 Tốt 2.5 2.0 21.6 10.6 3 Kết quả thống kê trong Bảng 2 cho thấy mức đánh giá trung bình của GV về điều kiện sân chơi   đạt từ 3.65 đến 4.07 thể hiện sự đáp ứng “tốt” của điều kiện sân chơi tại trường đối với việc tổ chức   trẻ chơi ngoài trời. Ngoài ra, tổng tỷ lệ GV phản hồi hai mức “tốt” và “rất tốt” đối với điều kiện sân   chơi của trường đạt từ  61.8% đến 88.9%, trong khi đó mức “bình thường” đạt từ  8% đến 21.6%,  “không tốt” và “rất không tốt” chiếm tỷ lệ thấp từ 2.5% đến 6%.  Điều này cho thấy hầu hết GV đều   cho rằng điều kiện sân chơi tại trường đã đáp  ứng tốt yêu cầu của việc tổ  chức trẻ chơi ngoài trời.  Do đó, GV chủ yếu sử dụng sân chơi của trường để tổ chức hoạt động chơi ngoài trời cho trẻ.  Tuy nhiên, trong số các yếu tố trên về điều kiện sân chơi, hai yếu tố cần được quan tâm là “ Sân  chơi an toàn” và “Vật liệu chơi phong phú”. Đây là hai yếu tố  có tổng tỷ  lệ  GV phản hồi hai mức   “không tốt” và “rất không tốt” lần lượt đạt 6% và 4.5% cao nhất trong các yếu tố  về  điều kiện sân   chơi và mức “bình thường” cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với các yếu tố khác (32.2% và 21.6%). Với ý   kiến phản hồi này, cho thấy việc cải tạo sân chơi an toàn và có phong phú vật liệu chơi là cần thiết.   Hai yếu tố  này hoàn toàn có trong sân chơi tự  nhiên – nơi có bề  mặt là cỏ, cát, đất sẽ  giảm được   5
  6. những chấn thương khi trẻ  va chạm. Bên cạnh đó, sân chơi tự  nhiên, với những vật liệu tự  nhiên  phong phú sẵn có là nơi khơi nguồn cho những ý tưởng chơi bất tận của trẻ. 2.2.3. Những khó khăn của GV khi tổ chức chơi ở ngoài khuôn viên trường Giáo viên khi tổ chức hoạt động giáo dục của mình nói chung và hoạt động chơi nói riêng luôn  có mối liên hệ trực tiếp với trẻ, phụ huynh, ban giám hiệu nhà trường và chính bản thân mình. Các đối   tượng này có sự  ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến công tác tổ  chức hoạt động giáo dục của GV.  Do đó, cần có sự  phối hợp chặt chẽ  giữa các bên để  tạo nên sự  đồng thuận, mang lại hiệu quả  cho   hoạt động [13].  Bảng .1. Thống kê ý kiến của giáo viên về những khó khăn từ phía trẻ  khi tổ chức chơi ở ngoài khuôn viên trường Tỷ lệ % Trung  Nội  Rất  bình Ý nghĩa Rất không  Không  Phân  Đồng  dung đồng  đồng ý đồng ý vân ý ý Trẻ dễ bị nguy hiểm 3.65 Đồng ý 2.5 15.1 10.6 58.8 13.1 Khó quản lý 3.68 Đồng ý 2.5 15.1 4.0 68.3 10.1 Trẻ không hợp tác 3.46 Đồng ý 4.5 15.6 15.1 58.8 6.0 Về  phía trẻ, mức đánh giá trung bình của GV đối với những khó khăn như  “ Trẻ  dễ  bị  nguy   hiểm”, “Khó quản lý”, “Trẻ không hợp tác” đạt từ 3.46 đến 3.68 thể hiện sự  “đồng ý” của GV đối   với khó khăn trên. Ngoài ra, tổng tỷ lệ GV phản hồi hai mức “đồng ý” và “rất đồng ý” đối với các yếu  tố trên đạt từ 64.8% đến 78.4% cho thấy, phần lớn GV đều cho rằng việc tổ chức cho trẻ chơi ngoài  khuôn viên sân trường sẽ  gặp những khó khăn từ  trẻ. Tuy nhiên, tổng tỷ  lệ  GV phản hồi hai mức   “không đồng ý” và “rất không đồng ý” đạt tỷ  lệ  từ  17.6% đến 20.1% cho biết, khá nhiều GV không   gặp khó khăn từ phía trẻ khi tổ chức chơi ngoài khuôn viên trường. Bảng 3.2. Thống kê ý kiến của giáo viên về những khó khăn từ phía phụ huynh  khi tổ chức chơi ở ngoài khuôn viên trường Trung  Tỷ lệ % Ý nghĩa bình Rất  Không  Rất  Nội dung Phân  Đồng  không  đồng  đồng  vân ý đồng ý ý ý Không đồng ý cho trẻ tham  2.96 Phân vân 3.0 32.2 32.7 29.6 2.5 gia Không tham gia hỗ trợ 2.97 Phân vân 3.0 32.2 31.2 31.7 2.0 Phàn nàn khi trẻ bị chấn  3.56 Đồng ý 2.5 16.6 13.1 57.8 10.1 thương Về  phía phụ  huynh, mức đánh giá trung bình của GV đối với những khó khăn khi tổ  chức trẻ  chơi ngoài khuôn viên sân trường như “không đồng ý cho trẻ tham gia”, “không tham gia hỗ trợ” lần  lượt đạt 2.96 và 2.97 thể hiện sự  “phân vân” của giáo viên khi cho rằng việc tổ chức trẻ chơi ngoài   trời gặp khó khăn đối với 2 yếu tố này. Ngoài ra, tổng tỷ  lệ  GV phản hồi hai mức “đồng ý” và “rất   đồng ý” đối với hai yếu tố trên lần lượt đạt 33.2%, 33.7% không có sự chênh lệch đáng kể so với tổng  tỷ lệ GV phản hồi hai mức “không đồng ý” và “rất không đồng ý” đều đạt 35.2%. Điều này cho thấy   6
  7. tỷ  lệ  GV cho rằng hai yếu tố  trên từ  phía phụ  huynh đem đến những khó khăn và không đem đến   những khó khăn cho việc trẻ chơi ngoài khuôn viên trường là tương đối bằng nhau. Đối với yếu tố phụ huynh “phàn nàn khi trẻ bị chấn tương ” nhận mức đánh giá trung bình của   GV là 3.56 thể hiện sự “đồng ý” của GV về khó khăn đối với yếu tố này khi tổ  chức trẻ  chơi ngoài   khuôn viên trường. Ngoài ra, tổng tỷ lệ GV phản hồi hai mức “đồng ý” và “rất đồng ý” đối với yếu tố  này đạt 67.8% cho thấy nhiều GV cho rằng việc tổ chức trẻ chơi ngoài khuôn viên trường gặp khó   khăn vì “phụ huynh phàn nàn khi trẻ bị chấn thương” . Tuy nhiên cũng có khoảng 19.1% GV cho rằng   không gặp khó khăn đối với yếu tố này từ phía phụ huynh khi tổ chức trẻ chơi ngoài trời. Qua trao đổi với ban giám hiệu các trường, chúng tôi được biết có 3 trường mầm non ngoài  công lập đã tổ  chức một số hoạt động chơi ngoài khu vực trường như  đi siêu thị, đi chùa, thư  viện   tỉnh, thậm chí đến những khu vui chơi cách trường 200 km, và được phụ huynh rất mực ủng hộ. Điều   này cho thấy, để phụ huynh yên tâm cho trẻ chơi ở ngoài trường mầm non, nhà trường và GV cần có  những biện pháp tổ chức an toàn. Bảng 3.3. Thống kê ý kiến của giáo viên về những khó khăn từ phía nhà trường  khi tổ chức chơi ở ngoài khuôn viên trường Trung  Tỷ lệ % Nội dung bình Ý nghĩa Rất không  Không  Phân  Đồng  Rất  đồng ý đồng ý vân ý đồng ý Bam giám hiệu không  2.49 Không đồng ý 14.6 44.7 20.1 18.6 2.0 cho phép Hao tốn nhiều kinh  2.42 Không đồng ý 13.6 49.7 19.1 16.1 1.5 phí Mức đánh giá trung bình của GV đối với những khó khăn từ  phía nhà trường như  “Ban giám  hiệu không cho phép” và “Hao tốn nhiều kinh phí” trong việc trẻ chơi ngoài khuôn viên sân trường đạt  2.49 và 2.42 thể hiện sự “không đồng ý” của GV khi cho rằng hai yếu tố trên từ  phía nhà trường gây  ra khó khăn cho việc tổ chức cho trẻ chơi ngoài sân trường. Ngoài ra, tổng tỷ lệ GV phản hồi hai mức  “đồng ý” và “rất đồng ý” đối với hai yếu tố trên lần lượt đạt 17.6% và 20.6%, đồng thời, tổng tỷ  lệ  GV phản hồi hai mức “không đồng ý” và “rất không đồng ý” lại cao gấp 3, lần lượt đạt 63.3% và   59.3%. Điều này, cho thấy một số lượng khá lớn GV cho rằng không gặp khó khăn từ phía nhà trường   trong việc tổ chức trẻ chơi ngoài sân trường. Đây là yếu tố vô cùng thuận lợi để  GV và nhà trường   triển khai các hoạt động chơi ngoài khuôn viên trường. Bảng 3.4. Thống kê ý kiến của giáo viên về những khó khăn từ phía bản thân  khi tổ chức chơi ở ngoài khuôn viên trường Tỷ lệ % Trung  Nội dung Ý nghĩa bình Rất không  Không  Phân  Đồng  Rất  đồng ý đồng ý vân ý đồng ý Sức khỏe không  2.35 Không đồng ý 8.5 63.8 11.6 16.1 0.0 đảm bảo Chưa tự tin 2.52 Không đồng ý 9.5 54.3 13.6 19.6 3.0 để tổ chức Mức đánh giá trung bình của GV đối với những khó khăn từ phía bản thân như “Sức khỏe không   đảm bảo” và “Chưa tự tin để tổ chức” lần lượt đạt 2.35 và 2.52 thể hiện sự “không đồng ý” của GV   7
  8. khi cho rằng hai yếu tố trên từ  phía bản thân GV gây ra khó khăn đối với việc tổ  chức cho trẻ chơi   ngoài khuôn viên sân trường. Ngoài ra, đối với hai yếu tố trên, tổng tỷ lệ GV phản hồi hai mức “đồng  ý” và “rất đồng ý” lần lượt đạt 16.6% và 22.6%, đồng thời tổng tỷ lệ GV phản hồi hai mức “không   đồng ý” và “rất không đồng ý” lần lượt đạt 72.4% và 63.8% . Như vậy, phần lớn GV cho rằng không  gặp khó khăn từ phía bản thân trong việc tổ chức cho trẻ chơi ngoài khuôn viên sân trường. Tóm lại, kết quả khảo sát cho thấy, nhiều GV mầm non trên địa bàn thành phố Cao Lãnh, tỉnh  Đồng Tháp vẫn còn xa lạ với việc tổ chức các hoạt động chơi cho trẻ ở các sân chơi tự nhiên. Nguyên  nhân được tìm thấy là do: (1) GV hài lòng về điều kiện sân chơi của trường, (2) GV gặp khó khăn từ  phía trẻ, (3) Nhiều phụ huynh lo lắng về những rủi ro có thể xảy ra nếu trẻ chơi trong môi trường tự  nhiên. Tuy nhiên GV không gặp nhiều khó khăn về  phía BGH và bản thân, do đó, nếu triển khai tổ  chức hoạt động cho trẻ chơi ngoài khuôn viên trường học là hoàn toàn khả thi khi nhận được sự đồng  thuận của BGH và năng lực tổ chức của GV. 3. Kết luận  Tổ  chức chơi ngoài trời cho trẻ  trong môi trường tự  nhiên đã được nghiên cứu và chứng minh  mang lại những giá trị tuyệt vời cho sự phát triển của trẻ. Hiện tại, việc cho trẻ chơi trong môi trường  tự nhiên không còn là mới lạ ở nhiều quốc gia có nền giáo dục tiên tiến. Tuy nhiên, đối với các trường   mầm non trên địa bàn thành phố  Cao Lãnh, công tác này còn khá mới mẻ  và nhiều GV lo ngại sự  không đồng tình  ủng hộ của phụ  huynh và sự  phối hợp của trẻ. Do đó, cần có những biện pháp để  giúp GV và phụ  huynh nhận thức đầy đủ  hơn về  lợi ích của hoạt động chơi trong môi trường tự  nhiên. Ngoài ra, các kinh nghiệm tổ chức chơi an toàn cũng cần được giới thiệu.  Kết quả nghiên cứu   cũng cho thấy, việc tổ chức chơi  ở các sân chơi tự nhiên hoàn toàn có thể triển khai khi GV đánh giá   bản thân có đủ năng lực để tổ chức và được sự đồng thuận từ phía nhà trường. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ  Giáo dục và Đào tạo, 2017.  Chương trình giáo dục Mầm non 2009 (sau sửa đôi, bô sung) ̉ ̉ .  NXB Giáo dục. 2. Craig H.Hart, 1993. Children on playground. State University of New York Press. 3. Maynard, T., & Waters, J., 2007. Learning in the outdoor environment: a missed opportunity?.  Early years, 27(3), pp. 255­265. 4. Isenberg, J. P., & Jalongo, M. R., 1993. Creative expression and play in the early childhood   curriculum. Simon & Schuster Books For Young Readers. 5. Kantz, K. R., 2004. Understanding the outdoor play environment for preschool children in child   care: should we just let'em go?. Lowa State University.  8
  9. 6.      https://naturalearning.org/sites/default/files/Benefits%20of%20Connecting%20Children%20with %20Nature_InfoSheet.pdf. 7. https://ww2.kqed.org/mindshift/2015/03/26/why­kids­need­to­move­touch­and­experience­to­ learn/. 8. Macintyre, C., 2001. Enhancing learning through play. David Fulton Publisher. 9. Hughes, F.P., 1995. Children, play and development. Allyn & Bacon. 10. Saracho, O., & Spodek, B. (Eds.), 2003. Contemporary perspectives on play in early childhood   education. IAP. 11. Clements, R. ,2004. An investigation of the status of outdoor play. Contemporary issues in early   childhood, 5 (1), pp. 68­80. 12. Wood, E., & Attfield, J., 2009. Play, learning and the early childhood curriculum. London. 13. Nguyễn Thị  Như  Mai, 2015. Phối hợp nhà trường với gia đình và cộng đồng  ở  các trường  mầm non thành phố Hà Nội. Tạp chí Đại học Sư phạm Hà Nội, 60, 103 – 111. ABSTRACT The reality of using natural playground in organizing outdoor play for kindergartners Nguyen Duc Danh Scientific Education faculty, HCMC University of Education Le Thi Bich Van Education faculty, Dong Thap University The paper presents the situation of using the natural playground in outdoor play of preschool children in  kindergartens in Cao Lanh city, Dong Thap. The study shows that many preschool teachers in Cao Lanh  city have not used natural playgrounds to organize outdoor activities for preschoolers. The paper also   analyzes the actual causes and discusses the direction of the measures. Research data was conducted on  10 preschools in the region with 199 teachers. Keywords: natural playground, outdoor play, play in nature  9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1