intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thuyết trình: Hợp đồng dịch vụ

Chia sẻ: Dxfgbfcvbc Dxfgbfcvbc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

350
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài Hợp đồng dịch vụ nhằm trình bày các nội dung chính: khái niệm hợp đồng dịch vụ, quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ theo luật dân sự năm 2005.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thuyết trình: Hợp đồng dịch vụ

  1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA LUẬT KINH TẾ BÀI THUYẾT TRÌNH: HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ Danh sách nhóm 1A: 1. Lê Bá Quyết 2. Phạm Thị Trang Đài 3. Cao Xuân Đăng 4. Nguyễn Phương Mai 5. Nguyễn Thăng Lợi 6. Lưu Thị Thu Trang
  2. Luật Thương Mại II Nhóm 1A Tp Hồ Chí Minh 2012 I. Lý luận 1. Khái niệm Hợp đồng dịch vụ - Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận (Khoản 9 Điều 3 Luật thương mại năm 2005). Hoạt động này bao gồm rất nhiều loại hình dịch vụ trong đời sống thường ngày của người dân như dịch vụ khám chữa bệnh, hướng dẫn du lịch, các loại hình tư vấn… - Điều 518 Luật dân sự năm 2005 nêu khái niệm của Hợp đồng dịch vụ như sau: “Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ” Điểm đặc trưng nói lên bản chất của hợp đồng dịch vụ là nó được hình thành theo sự thỏa thuận của hai bên: bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ (khách hàng); từ đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của hai bên do pháp luật quy định: bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng và nhận thanh toán, còn khách hàng có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Như vậy, hợp đồng dịch vụ là hoạt động song phương có thanh toán. - Chủ thể tham gia hợp đồng dịch vụ: theo Điều 75 Luật thương mại năm 2005 trừ trường hợp pháp luật hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác, chủ thể tham gia hợp đồng là giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với: + Người cư trú tại Việt Nam sử dụng (cung ứng) trên lãnh thổ Việt Nam + Người không cư trú tại Việt Nam sử dụng (cung ứng) trên lãnh thổ Việt Nam + Người cư trú tại Việt Nam sử dụng (cung ứng) trên lãnh thổ nước ngoài + Người không cư trú tại Việt Nam sử dụng (cung ứng) trên lãnh thổ nước ngoài - Hình thức hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Mục đích của quy định này là nhằm tạo điều kiện cho các bên tham gia giao kết hợp đồng được quyền tự do lựa chọn hình thức của hợp đồng, phù hợp với mục đích của giao dịch, hạn chế tranh chấp. Ngoài ra, có một số loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản nhằm bảo đảm sự kiểm soát của Nhà nước và là cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao kết hợp đồng.( Điều 74 Luật thương mại năm 2005)
  3. Luật Thương Mại II Nhóm 1A - Đối tượng của hợp đồng dịch vụ có phạm vi rất rộng, bao gồm tất cả những công việc mà người ta có thể thực hiện được nhằm đáp ứng mọi nhu cầu về vật chất và tinh thần của khách hàng. Tuy nhiên, phạm vi các công việc đó cũng phải tuân theo giới hạn mà pháp luật quy định, đó là công việc trong hợp đồng dịch vụ không được là các công việc bị pháp luật cấm và không được trái với đạo đức xã hội như tổ chức đánh bạc, kinh doanh mại dâm… hoặc phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định thì mới được kinh doanh như đại lý dịch vụ viễn thông, dịch vụ cầm đồ... (Điều 519 Luật dân sự năm 2005; Điều 76 Luật thương mại năm 2005) Danh mục dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện được quy định tại Phụ lục I, II, III ban hành kèm theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Trong trường hợp cần thiết, để bảo vệ an ninh quốc gia và các lợi ích quốc gia khác phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Thủ tướng Chính phủ quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp đối với hoạt động cung ứng hoặc sử dụng dịch vụ, bao gồm việc tạm thời cấm cung ứng hoặc sử dụng đối với một hoặc một số loại dịch vụ hoặc các biện pháp khẩn cấp khác đối với một hoặc một số thị trường cụ thể trong một thời gian nhất định.( Điều 77 Luật thương mại năm 2005) 2. Quyền và nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ 2.1 Quyền bên cung ứng dịch vụ (Điều 523 Luật dân sự năm 2005) Vì đây là hợp đồng song vụ nên nghĩa vụ của khách hàng chính là quyền của bên cung ứng dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết cho việc thực hiện cung ứng dịch vụ; có quyền yêu cầu khách hàng trả tiền dịch vụ. Ngoài ra bên cung ứng dịch vụ được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của khách hàng, mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của khách hàng, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho khách hàng, nhưng bên cung ứng dịch vụ phải báo ngay cho khách hàng biết. Đây là trường hợp đặc biệt mà pháp luật cho phép bên cung ứng dịch vụ được thay đổi điều kiện dịch vụ.Trường hợp này phải bảo đảm có đủ hai yếu tố: + Việc thay đổi điều kiện dịch vụ phải xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của khách hàng. + Việc thay đổi điều kiện dịch vụ này có tính cấp thiết nếu không thay đổ kiẹp thời mà phải chờ ý kiến của khách hàng thì sẽ gây thiệt hại cho khách hàng. 2.2 Nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ Khi thực hiện hợp đồng theo yêu cầu của khách hàng, bên cung ứng dịch vụ có một số nghĩa vụ cơ bản sau ( Điều 78 Luật thương mại năm 2005):
  4. Luật Thương Mại II Nhóm 1A - Cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một cách đầy đủ, phù hợp với thoả thuận và theo quy định của Luật này. Thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điềm mà hai bên đã thỏa thuận là nghĩa vụ cơ bản nhất và quan trọng nhất của bên cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, tùy theo tính chất và yêu cầu cụ thể của từng loại công việc như cung ứng dịch vụ theo kết quả công việc, cung ứng dịch vụ theo nỗ lực và khả năng cao nhất…, nếu các bên còn có các thỏa thuận khác liên quan đến việc thực hiện công việc thì bên cung ứng dịch vụ cũng phải thực hiện theo đúng thỏa thuận. Nếu vi phạm nghĩa vụ này thì khách hàng có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. - Bảo quản và giao lại cho khách hàng tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện dịch vụ sau khi hoàn thành công việc. Nếu khách hàng đã giao cho bên cung ứng dịch vụ các giấy tờ, tài liệu hoặc các phương tiên, thiết bị cần thiết cho việc thực hiện công việc, thì sau khi hoàn thành công việc nếu các bên không có thỏa thuận khác, bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ các tài liệu và phương tiện đó cho khách hàng. Nếu làm mất mát, hư hỏng tài liệu hoặc phương tiện thì bên cung ứng dịch vụ phải bồi thường thiệt hại. - Thông báo ngay cho khách hàng trong trường hợp thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm để hoàn thành việc cung ứng dịch vụ. Trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghĩa vụ này, không kịp thời thông báo ngay cho khách hàng biết hoặc vẫn tiếp tục thực hiện công việc và do các nguyên nhân đó mà kết quả công việc không đạt được theo đúng yêu cầu của khách hàng thì bên cung ứng dịch vụ phải bồi thường thiệt hại. - Giữ bí mật về thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Đây là quy định có tính đặc thù trong hợp đồng dịch vụ. Nghĩa vụ giữ bí mật về những thông tin mà mình biết được trong quá trình cung ứng dịch vụ chỉ đặt ra đối với bên cung ứng dịch vụ khi hai bên có thoả thuận về việc phải giữ bí mật hoặc khi pháp luật có quy định về nghĩa vụ giữ bí mật như pháp luật về hành nghề y quy định thầy thuốc và nhân viên y tế có trách nhiệm giữ gìn bí mật về những điều liên quan đến bệnh tật của người bệnh. Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ giữ bí mật thông tin mà gây thiệt hại cho khách hàng thì bên cung ứng dịch vụ phải bồi thường thiệt hại - Ngoài ra bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ không được giao cho người khác thực hiện thay công việc, nếu không có sự đồng ý của khách hàng (Khoản 2 Điều 522 Luật dân sự năm 2005). Có thể nói đây là quy định có tính đặc thù cho hợp đồng dịch vụ. Trên thực tế có nhiều hợp đồng dịch vụ mà trong đó, khách hàng chỉ muốn thuê chính cá nhân một người nào đó thực hiện công việc cho mình mà không muốn người làm dịch vụ giao lại công việc đó cho người khác làm thay. Chẳng hạn là hợp đồng thuê gia sư, hợp đồng khám chữa bệnh… Do vậy bên cung ứng phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện công việc, không được giao cho người khác thực hiện thay công việc nếu không có sự đồng ý của khách hàng. Nếu vi
  5. Luật Thương Mại II Nhóm 1A phạm nghĩa vụ này thì khách hàng có quyền hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. - Trong trường hợp hợp tác giữa các bên cung ứng dịch vụ thì mỗi bên có các nghĩa vụ sau: + Trao đổi, thông tin cho nhau về tiến độ công việc và yêu cầu của mình có liên quan đến việc cung ứng dịch vụ, đồng thời phải cung ứng dịch vụ vào thời gian và theo phương thức phù hợp để không gây cản trở đến hoạt động của bên cung ứng dịch vụ đó; + Tiến hành bất kỳ hoạt động hợp tác cần thiết nào với các bên cung ứng dịch vụ khác. 3. Quyền và nghĩa vụ của khách hàng 3.1. Quyền của khách hàng (Điều 521 Luật dân sự năm 2005) Vì đây là hợp đồng song vụ nên nghĩa vụ của bên cung ứng dịch vụ chính là quyền của khách hàng. Khách hàng có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và theo các thoả thuận khác tùy theo tính chất của công việc phải thực hiện. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định khi bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ, thì khách hàng mới có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại, nhưng không xác định như thế nào là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong khi nhận thức về mức độ nghiêm trọng của mỗi bên ký kết hợp đồng khác nhau. 3.2 Nghĩa vụ của khách hàng (Điều 85 Luật thương mại năm 2005) - Khách hàng có nghĩa vụ cơ bản là phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Việc trả tiền dịch vụ được thực hiện theo giá và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận. - Về nguyên tắc và theo thông lệ, khách hàng cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ biết những thông tin, tài liệu, nếu các thông tin, tài liệu đó là cần thiết, để bên cung ứng dịch vụ có thể tiến hành thực hiện công việc theo đúng yêu cầu của khách hàng, để việc cung ứng không bị trì hoãn hay gián đoạn. 7. Thời hạn hoàn thành dịch vụ (Điều 82 Luật thương mại năm 2005) - Bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng. - Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ. - Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch
  6. Luật Thương Mại II Nhóm 1A vụ đó không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng. - Trường hợp sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vẫn chưa hoàn thành, nếu khách hàng không phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung ứng theo nội dung đã thoả thuận và phải bồi thường thiệt hại, nếu có.(Điều 84 Luật thương mại năm 2005) Quy định này là cần thiết nhằm mở ra khả năng bên cung ứng dịch vụ có thể chủ động tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi hoàn thành mà không nhất thiết hai bên phải ký kết hợp đồng khác. Trong trường hợp này, sự im lặng không có ý kiến phản đối của khách hàng được coi là sự đồng ý mặc nhiên. Tuy nhiên, nếu khách hàng có ý kiến phản đối và muốn chấm dứt thực hiện hợp đồng thì bên cung ứng dịch vụ phải ngừng thực hiện công việc theo yêu cầu của khách hàng. Lúc đó, hợp đồng sẽ chấm dứt, bên cung ứng dịch vụ phải bàn giao lại kết quả công việc và khách hàng phải trả tiền dịch vụ theo phần công việc mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện; đồng thời nếu việc chậm thực hiện công việc theo thỏa thuận mà gây thiệt hại cho khách hàng thì khách hàng có quyền yêu cầu bên cung ứng dịch vụ bồi thường thiệt hại. 4. Giá dịch vụ và thời hạn thanh toán (Điều 86, Điều 87 Luật thương mại năm 2005) - Trong hợp đồng dịch vụ, các bên thỏa thuận với nhau về giá tiền dịch vụ tùy thuộc vào tính chất công việc, những yêu cầu phải đạt được khi công việc hoàn thành và tùy thuộc vào sức lao động (lao động trí óc hoặc lao động chân tay) mà bên cung ứng dịch vụ phải bỏ ra khi thực hiện công việc. Tuy nhiên, Luật thương mại cũng quy định rõ nếu giữa các bên không có thỏa thuận trước về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ. Quy định này là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên cung ứng dịch vụ theo nguyên tắc công bằng, có làm có hưởng. Khoản 3 Điều 524 Luật dân sự năm 2005 cũng quy định trong trường hợp chất lượng, số lượng dịch vụ không đạt được như thỏa thuận, công việc không được hoàn thành đúng thời hạn do có lỗi của bên cung ứng dịch vụ thì khách hàng có quyền giảm tiền công và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Quy định này của Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ áp dụng trong trường hợp khách hàng vẫn đồng ý nhận kết quả dịch vụ mặc dù kết quả đó không đạt được chất lượng, số lượng hoặc thời hạn mà khách hàng đã yêu cầu. Quy định này không làm loại trừ khả năng khách hàng có quyền không tiếp nhận kết quả dịch vụ mà đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ do bên cung ứng không bảo đảm các yêu cầu đã đặt ra do lỗi của bên cung ứng dịch vụ.
  7. Luật Thương Mại II Nhóm 1A - Các bên trong hợp đồng dịch vụ thỏa thuận về thời hạn thanh toán tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Trong trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không có bất kỳ thói quen nào về việc thanh toán thì khách hàng sẽ thanh toán tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ khi bên cung ứng dịch vụ đã hoàn thành công việc được giao. 5. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trong Hợp đồng dịch vụ (Điều 525 Luật dân sự năm 2005) Việc các bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng trong Hợp đồng dịch vụ bao gồm các trường hợp sau: - Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng do một bên đã không thực hiện được nghĩa vụ của mình trong hợp đồng mà vi phạm đó là điều kiện các bên đã thỏa thuận là khi điều kiện đó xảy ra, bên kia có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hoặc nếu việc không thực hiện nghĩa vụ của một bên xảy ra thì pháp luật cho phép bên kia có quyền đơn phương chấm dựt thực hiện hợp đồng. Ví dụ như nếu khách hàng đã không cung cấp đầy đủ các tài liệu, thông tin cần thiết cho bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, hoặc nếu bên cung ứng dịch vụ đã tự ý giao công việc cho người khác làm thay mà không được sự đồng ý của khách hàng thì khách hàng cũng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. - Trong trường hợp việc tiếp tục thực hiện dịch vụ không có lợi cho khách hàng thì khách hàng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng phải báo cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một khoảng thời gian hợp lý để bên cung ứng dịch vụ có thể kịp thời ngừng ngay việc thực hiện công việc. Trong trường hợp này, khách hàng phải trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng của khách hàng gây thiệt hại cho bên cung ứng. Quy định này phù hợp với thực tế và tạo khả năng cho khách hàng được tùy ý chấm dứt hợp đồng vào bất cứ lúc nào, nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được quyền lợi của bên cung ứng dịch vụ.
  8. Luật Thương Mại II Nhóm 1A II. Thực tiễn TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TỐI CAO VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc TÒA KINH TẾ ---------------------------------- ------------------ Quyết định giám đốc thẩm Số: 25/2009/KDTM-GĐT Ngày 26 tháng 11 năm 2009 V/v: tranh chấp hợp đồng dịch vụ NHÂN DANH NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI Với thành phần Hội đồng giám đốc thẩm gồm có: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Linh; Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Hải; Ông Nguyễn Văn Tiến. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tham gia phiên tòa: Bà Vũ Thị Thanh Nga -Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Ông Nguyễn Đức Thường. Ngày 26 tháng 11 năm 2009, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án kinh doanh, thương mại theo Quyết định số
  9. Luật Thương Mại II Nhóm 1A 31/QĐ-KNGDT-V12 ngày 22/9/2009 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 03/2009/KDTM-PT ngày 16, 19/01/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giữa các đương sự: Nguyên đơn: Công ty cổ phần Sao Nam Phong; có trụ sở tại số 219 đường Hoàng Mai, phường Hoàng Văn Thụ, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; do ông Bùi Tuấn Sơn, Giám đốc Công ty đại diện; Bị đơn: Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội; có trụ sở tại 42 Tô Hiến Thành, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; do ông Vũ Anh Tuấn làm đại diện theo Giấy ủy quyền số 09/HAPEC-TH ngày 11/01/2009 của Giám đốc Công ty. NHẬN THẤY Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/4/2008 (BL5), Đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 22/9/2008 (BL 23) và các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn xuất trình thì: Ngày 15/6/2008, Trung tâm thiết kế điện thuộc Công ty điện lực Hà Nội (sau này cổ phần hóa thành Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội-viết tắt là Công ty HaPec) và Công ty cổ phần Sao Nam Phong (sau đây viết tắt là Công ty Sao Nam Phong) ký Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ về khảo sát, thu thập số liệu phục vụ công tác thiết kế nội dung (tóm tắt) như sau: Điều 1: Nội dung công việc: khảo sát, đo đạc lấy số liệu tại hiện trường; cùng tham gia lập phương án thiết kế; cùng tham gia tính toán lập phương án tổ chức và đề ra giải pháp thi công; cùng tham gia tính toán chi phí cho công trình cải tạo, sắp xếp lại hệ thống cáp xuất tuyến tại Trạm 110 KV-E14. Điều 2: Hai bên thỏa thuận giá trị hợp đồng bằng 35% giá trị tư vấn thiết kế (trước thuế) dược duyệt theo quyết định phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền; Để có cơ sở ký hợp đồng, hai bên thỏa thuận tạm tính giá trị tư vấn thiết kế của công trình là 260.000.000 đ x 35% = 90.000.000 đồng; giá trị để thanh lý hợp đồng sẽ là giá trị của phần tư vấn thiết kế có ghi trong dự toán sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt… Điều 3: Thời gian hoàn thành khối lượng công việc khảo sát để phục vụ công tác thiết kế là 4 tháng, kể từ ngày ký hợp đồng. Điều 4: Trách nhiệm của mỗi bên.
  10. Luật Thương Mại II Nhóm 1A Trung tấm thiết kế điện: chịu trách nhiệm pháp lý với chủ đầu tư, chủ trì thiết kế, tổ chức bảo vệ đề án trước cơ quan có thẩm quyền và chủ đầu tư; cung cấp đầy đủ số liệu, phương án kỹ thuật được duyệt, hồ sơ mặt bằng và các hồ sơ pháp lý liên quan khác để Công ty Sao Nam Phong có thời gian chuẩn bị những điều kiện tham gia khảo sát, thu thập số liệu tại hiện trường phục vụ công tác thiết kế. Công ty Sao Nam Phong : phối hợp khảo sát lấy số liệu thực tế tại hiện trường tham gia khảo sát các yêu cầu và những dự kiến xây dựng hệ thống hạ tầng và các công trình ngầm trong khu vực theo yêu cầu của Trung tâm thiết kế điện…; cấp số liệu thiết kế sơ bộ phải có cơ sở tính toán và các số liệu liên quan khác đủ điều kiện để Trung tâm thiết kế điện hoàn chỉnh hồ sơ thiết kế kỹ thuật… Điều 5: Thể thức thanh toán…thời gian chuyển tiền: Trung tâm thiết kế sẽ tạm ứng cho Công ty Sao Nam Phong số tiền tương đương 30% giá trị hợp đồng ngay sau khi Công ty Sao Nam Phong giao đủ 02 bộ hồ sơ có đầy đủ số liệu khảo sát hiện trường, có cơ sở tính toán và biện pháp thi công hợp lý (có biên bản nghiệm thu bàn giao tài liệu giữa hai bên) để Trung tâm thiết kế hoàn chỉnh đề án đưa đi phê duyệt. Số tiền còn lại sẽ được thanh toán hết theo giá trị tư vấn thiết kế được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt sau khi trừ đi số tiền tạm ứng đợt 1. Sau khi ký hợp đồng trên, Công ty Sao Nam Phong đã thực hiện các công việc theo hợp đồng. Ngày 11/11/2005, hai bên ký Biên bản nghiệm thu bàn giao khối lượng công việc hoàn thành hồ sơ thiết kế kỹ thuật, theo đó đã thống nhất: Công ty Công ty Sao Nam Phong đã hoàn thành và giao cho Trung tâm để trình duyệt: thuyết minh, dự toán, các bản vẽ thi công. Công ty Sao Nam Phong đã hoàn thành với chất lượng đạt yêu cầu của Trung tâm đề ra, là cơ sở cho Trung tâm thiết kế biên tập chỉnh sửa lại Đề án thiết kế kỹ thuật và Báo cáo đầu tư theo quy định của Công ty điện lực Hà Nội và chuyển kinh phí tạm ứng cho Công ty Sao Nam Phong . Sau khi ký biên bản trên, Trung tâm thiết kế đã tạm ứng 30% giá trị tạm tính của hợp đồng là 27.000.000 đồng. Tại Biên bản đối chiếu công nợ ngày 31/12/2006, Công ty HaPec (kế thừa quyền, nghĩa vụ của Trung tâm thiết kế điện) và Công ty Sao Nam Phong đã cùng nhau xác nhận những nội dung sau: Giá trị hợp đồng: chưa có giá trị tổng dự toán được duyệt nên chưa có giá trị thiết kế, Công ty HaPec đã ứng 27.000.000 đồng; Số tiền Công ty HaPec còn nợ Công ty Sao Nam Phong: chưa xác định được giá trị (vì chưa được phê duyệt). Biên bản chỉ xác nhận tại thời điểm hiện tại chưa có giá trị để thanh lý hợp đồng, chưa xác định được tổng dự toán được duyệt của công trình. Hai bên thống nhất thúc đẩy nhanh quá trình duyệt tổng dự toán và tổng mức đầu tư để kết thúc hợp đồng.
  11. Luật Thương Mại II Nhóm 1A Ngày 14/12/2007, Chủ đầu tư là Công ty điện lực Hà Nội đã ban hành Quyết định số 6469/QĐ-ĐLHN-P08 về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: cải tạo và sắp xếp lại cáp xuất tuyến tại Trạm 110 KV–Giám–E14, theo đó tại mục 12. Tổng mức đầu tư của dự án là 22.060.382.754 đồng, trong đó trong phần chi phí tư vấn đầu tư xây dựng có chi phí lập dự án đầu tư là 162.687.876 đồng; chi phí thiết kế xây dựng công trình là 262.872.704 đồng. Ngày 02/4/2008, Công ty điện lực Hà Nội đã ban hành Quyết định số 1757/QĐ- ĐLHN-P08, theo đó tại Điều 1 phê duyệt tổng mức đầu tư hiệu chỉnh dự án “Cải tạo và sắp xếp lại cáp xuất tuyến tại Trạm 110 KV–Giám–E14”, trong đó tại mục 12. Tổng mức đầu tư điều chỉnh của Dự án 22.740.890.582 đồng. Tại Điều 2 của Quyết định xác định tổng mức đầu tư hiệu chỉnh này thay thế tổng mức đầu tư đã được phê duyệt tại Quyết định số 6469/QĐ-ĐLHN-P08 ngày 14/12/2007. Trong mục 2 về chi phí tư vấn đầu tư xây dựng thì chi phí lập dự án đầu tư (tiểu mục 2.1) và chi phí thiết kế công trình (tiểu mục 2.2) được giữ nguyên. Sau khi Công ty điện lực Hà Nội ban hành 02 Quyết định nêu trên, Công ty Sao Nam Phong đã có công văn yêu cầu Công ty HaPec thanh toán số tiền còn lại của giá trị tư vấn thiết kế nhưng Công ty HaPec chưa đồng ý thanh toán với lý do Đề án thiết kế chưa được cấp có thẩm quyên phê duyệt. Vì vậy, ngày 16/4/2008, Công ty Sao Nam Phong có đơn khởi kiện Công ty HaPec tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng với yêu cầu buộc Công ty HaPec phải thanh toán: tiền nợ gốc là 121.946.203 đồng [(162.687.876 đồng + 262.872.704 đồng) x 35% - 27.000.000 đồng]; tiền lãi được trả là 61.178.654 đồng. Sau đó, tại phiên tòa sơ thẩm ngày 08, 09/10/2008, Công ty Sao Nam Phong bổ sung yêu cầu kiện, theo đó đề nghị buộc Công ty HaPec thanh toán tiền lãi chậm trả 108.836.986 đồng (tính từ ngày 11/11/2005 đến ngày 29/9/2008) và trả tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 17.873.544 đồng (tính theo tỷ lệ 12% giá trị hợp đồng bị vi phạm). Đại diện của bị đơn- Công ty HaPec trình bày: xác nhận việc ký kết, thực hiện hợp đồng và ký biên bản nghiệm thu khối lượng công việc hoàn thành do Trung tâm thiết kế điện đã ký như trình bày của nguyên đơn là đúng. Tuy nhiên, theo Điều 2 và Điều 5 của Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ ngày 15/6/2005 thì Công ty Sao Nam Phong chỉ được thanh toán khi giá trị của phần tư vấn thiết kế có ghi trong dự toán của chủ đầu tư phê duyệt. Quyết định số 6469/QĐ-ĐLHN-P08 ngày 14/12/2007 và Quyết định số 1757/QĐ-ĐLHN-P08 ngày 02/4/2008 của Công ty điện lực Hà Nội mới phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình và tổng mức đầu tư hiệu chỉnh dự án. Còn giai đoạn thiết kế kỹ thuật (bản vẽ thi công), tổng dự toán chưa được chủ đầu tư phê duyệt nên chưa có cơ sở để thanh toán cho Công ty Sao
  12. Luật Thương Mại II Nhóm 1A Nam Phong. Khi nào có văn bản phê duyệt thiết kế, tổng dự toán và giá trị tư vấn thiết kế thì Công ty HaPec sẽ thanh lý hợp đồng với Công ty Sao Nam Phong . Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2008/KDTM-ST ngày 08, 09/10/2008, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng đã căn cứ vào khoản 2 Điều 8 Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về việc chuyển Công ty Nhà nước thành Công ty cổ phần; Điều 37, Điều 53, Điều 54 và Điều 59 Luật Xây dựng; khoản 1, 2 Điều 5, Điều 6, Điều 7; khoản 1 Điều 9, điểm b khoản 1 Điều 14, khoản 1, 2, 3 Điều 16, Điều 39, Điều 40 Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; mục 8 phần I Quyết định số 11/2005/TT-BXD ngày 25/7/2007 của Bộ Xây dựng hướng dẫn việc lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình…và quyết định: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần Sao Nam Phong đối với Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội về việc yêu cầu thanh toán nghĩa vụ hợp đồng, tiền phạt và tiền lãi chậm trả theo Hợp đồng số 78/HĐKT- TTTKĐ ngày 15/6/2005. Không xem xét các yêu cầu khác của các bên đương sự”. Ngày 04/10/2008, Công ty Sao Nam Phong có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên với yêu cầu đề nghị chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn. Lý do và căn cứ kháng cáo là: tuy hợp đồng số 78 chưa thanh lý nhưng sản phẩm của Công ty Sao Nam Phong đã được nghiệm thu, bàn giao. Cả hai bên đều cùng thực hiện hợp đồng với nội dung lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật với tổng dự toán công trình…Thực chất Công ty Sao Nam Phong đã lập Dự án đầu tư, thiết kế bản vẽ kỹ thuật và tổng dự toán. Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 03/2009/KDTM-PT ngày 16, 19/01/2009,Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã căn cứ: khoản 2 Điều 8 Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ; Điều 37, Điều 53, Điều 54, Điều 59 Luật Xây dựng; khoản 3 Điều 14; khoản 1, 2, 3 Điều 16, Điều 39, Điều 40 Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình; mục 8, 9 phần I Quyết định số 11/2005/TT- BXD ngày 25/7/2007 của Bộ Xây dựng hướng dẫn việc lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình…và quyết định: “Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Công ty Sao Nam Phong đối với Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội về việc thanh toán số tiền còn thiếu của Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ ngày 15/6/2005. Cụ thể: Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội phải trả Công ty cổ phần Sao Nam Phong số nợ gốc 121.946.203 đồng; lãi chậm thanh toán của số tiền trên là 23.608.000 đồng. Cộng là 145.554.203 đồng…Ghi nhận Công ty cổ phần Sao Nam Phong rút yêu cầu Tòa án buộc Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội phải chịu phạt 12% giá trị hợp đồng, số tiền 17.873.544 đồng…”
  13. Luật Thương Mại II Nhóm 1A Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty HaPec có đơn đề nghị xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm. Tại Quyết định số 31/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 22/9/2009, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 03/2009/KDTM-PT ngày 16, 19/01/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và đề nghị Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo trình tự giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2008/KDTM-ST ngày 08, 09/10/2008 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng và Bản án phúc thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo trình tự sơ thẩm, bảo đảm đúng quy định của pháp luật với nhận định (tóm tắt) như sau: - Căn cứ vào nội dung Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ ngày 15/6/2005 ký giữa Công ty Sao Nam Phong với Trung tâm thiết kế điện và Hợp đồng số 23/HĐTV- P12-2005 ngày 05/11/2005 ký giữa Trung tâm thiết kế điện với Ban quản lý dự án lưới điện – Công ty điện lực Hà Nội về khảo sát, lập dự án đầu tư và thiết kế kỹ thuật xây dựng công trình “Cải tạo và sắp xếp lại cáp xuất tuyến tại E14”, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng lẽ ra Công ty cổ phần Sao Nam Phong và giữa Trung tâm thiết kế điện phải ký lại hợp đồng để thực hiện Hợp đồng số 23 nêu trên nhưng do cả hai bên đã thực hiện Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ, giữa Trung tâm thiết kế điện đã thanh toán 30% giá trị hợp đồng tạm tính nên Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ không bị vô hiệu. - Theo Quyết định số Quyết định số 6469/QĐ-ĐLHN-P08 ngày 14/12/2007 và Quyết định số 1757/QĐ-ĐLHN-P08 ngày 02/4/2008 của Công ty điện lực Hà Nội có hai khoản” chi phí lập dự án đầu tư là 162.687.876 đồng và chi phí thiết kế kỹ thuật là 262,872,704 đồng nhưng giữa Công ty cổ phần Sao Nam Phong và Trung tâm thiết kế điện mới nghiệm thu, bàn giao khối lượng công việc, chưa có Biên bản thanh lý Hợp đồng số 78 nên chưa xác định được nội dung công việc tại Điều 1 của Hợp đồng số 78 là lập Dự án đầu tư hay thiết kế kỹ thuật. Tại Biên bản hòa giải ngày 23/5/2008, Công ty Sao Nam Phong xác nhận: “theo phía chúng tôi thì chưa xác định được giá trị nhưng HaPec vẫn đang nợ chúng tôi tiền” (BL69, 70) và tại Biên bản hòa giải ngày 9/6/2008, Công ty Sao Nam Phong thừa nhận Công ty chỉ khảo sát lấy số liệu thực tế, tính toán để Trung tâm hoàn thiện hồ sơ thiết kế kỹ thuật (BL94, 95). Từ đó, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá chưa có cơ sở để tính giá trị hợp đồng là phù hợp nhưng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Sao Nam Phong, không xem xét các yêu cầu khác của các đương sự là gây thiệt hại đến quyền lợi của Công ty Sao Nam Phong. Tòa án cấp phúc thẩm dựa vào 02 Quyết định nêu
  14. Luật Thương Mại II Nhóm 1A trên của Công ty điện lực Hà Nội để cho rằng Công ty Sao Nam Phong có đủ cơ sở để yêu cầu thanh toán nốt số tiền còn lại là không phù hợp với khoản 1 Điều 2 Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ vì Công ty Sao Nam Phong và Trung tâm thiết kế điện chưa thanh lý để thống nhất Công ty Sao Nam Phong thực hiện phần nào của giá trị tư vấn thiết kế trong dự toán công trình chưa được phê duyệt. Cho nên, Công ty HaPec chưa có căn cứ thanh toán cho Công ty Sao Nam Phong. - Ngoài ra, Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn nêu nội dung Công văn số 040/CV-ĐLHN-P12 ngày 23/01/2009 của Ban quản lý dự án lưới điện Hà Nội gửi Công ty HaPec theo đó thì “về chi phí lập thiết kế kỹ thuật-dự toán: theo Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, tại Điều 39 đã nêu rõ: Tổng mức đầu tư dự án là khái toán chi phí của toàn bộ dự án được xác định trong giai đoạn lập dự án gồm chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, các chi phí khác…Tổng mức đầu tư dự án được ghi trong quyết định đầu tư là cơ sở để lập kế hoạch quản lý vốn đầu tư, do đó, chi phí thiết kế ghi trong tổng mức đầu tư chỉ là giá trị khái toán, chưa xác định được chính xác giá trị này được làm cơ sở thanh toán” và “…sản phẩm thiết kế bản vẽ thi công-Dự toán công trình do bên B (Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội) lập đã hoàn thành và bàn giao cho bên B (Ban quản lý lưới điện Hà Nội) nhưng chưa được chủ đầu tư (Công ty điện lực Hà Nội) phê duyệt do đó chưa thể thanh toán được chi phí thiết kế cho Quý Công ty”. Với những nhận định trên, tổng hợp lại, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã có sai lầm trong đánh giá hợp đồng giữa Công ty cổ phần Sao Nam Phong với Công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện lực Hà Nội, gây thiệt hại đến quyền lợi của các bên đương sự. XÉT THẤY Tại Điều 2 Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ ngày 15/6/2005, Công ty Sao Nam Phong và Trung tâm thiết kế thỏa thuận “…giá trị hợp đồng bằng 35% giá trị tư vấn (trước thuế) được phê duyệt theo quyết định phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền…” và “giá trị để thanh lý hợp đồng sẽ là giá trị của phần tư vấn thiết kế có ghi trong dự toán sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tại Điều 5 Hợp đồng nêu trên, hai bên cũng thỏa thuận “… số tiền còn lại sẽ được thanh toán hết theo giá trị tư vấn thiết kế được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt sau khi trừ số tiền tạm ứng đợt một”. Mặt khác, sau khi ký Biên bản nghiệm thu bàn giao khối lượng công việc hoàn thành ngày 11/11/2005 thì ngày 31/12/2006, Công ty Sao Nam Phong và Công ty HaPec đã lập Biên bản đối chiếu công nợ, theo đó thống nhất: giá trị hợp
  15. Luật Thương Mại II Nhóm 1A đồng chưa có giá trị tổng dự toán nên chưa có giá trị thiết kế…, số tiền Công ty HaPec nợ Công ty Sao Nam Phong chưa xác định được giá trị (vì chưa được phê duyệt), chưa có giá trị để thanh lý hợp đồng, chưa xác định được tổng dự toán được duyệt của công trình. Hai bên thống nhất thúc đẩy nhanh quá trình duyệt tổng dự toán và tổng mức đầu tư để kết thúc hợp đồng. Như vậy, căn cứ vào các tài liệu trên thì hai bên đã xác định giá trị tư vấn thiết kế sẽ được thanh lý, thanh toán khi dự toán của công trình “cải tạo sắp xếp lại hệ thống cáp xuất tuyến tại trạm 110 kV- Giám-E14” được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt/ Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì Chủ đầu tư là Công ty điện lực Hà Nội mới phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình theo Quyết định số 6469/QĐ-ĐLHN-P08 ngày 14/12/2007 và phê duyệt tổng mức đầu tư hiệu chỉnh dự án trên theo Quyết định số 1757/QĐ-ĐLHN- P08 ngày 02/4/2008. Tại Công văn số 155/HAPEC-TH ngày 23/6/2008 và Công văn số 202/PTH ngày 10/9/2008 của Công ty HaPec gửi Ban quản lý dự án lưới điện Hà Nội đã đề nghị Chủ đầu tư “xác nhận tại thời điểm này đề án thiết kế KTTC chưa được phê duyệt, do đó chưa xác định được giá trị phần KTTC làm cơ sở thanh toán các chi phí liên quan đến Công tác tư vấn thiết kế” và được Ban quản lý dự án lưới điện Hà Nội, thay mặt chủ đầu tư dự án xác nhận “hiện tại hồ sơ TKBVTC-DT công trình đang trình thẩm định tại P08, chưa được chủ đầu tư phê duyệt”. Vì vậy, đã có đủ căn cứ xác định tại thời điểm xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm thì dự toán của công trình trên chưa được Công ty điện lực Hà Nội phê duyệt. Theo Điều 39, Điều 40, Điều 42 Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 07/02/2005 của Chính phủ quy định về tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng công trình, dự toán và tổng dự toán xây dựng công trình và thanh toán vốn đầu tư xây dựng công trình và theo điểm 9 mục I Quyết định số 11/2005/QĐ-BXD ngày 15/4/2005 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng về việc ban hành định mức chi phí lập dự án và thiết kế xây dựng công trình thì: “Khi thương thảo để xác định giá trị hợp đồng giao nhận thầu thiết kế, chi phí xây dựng (hoặc chi phí thiết bị) được tạm xác định theo chi phí xây dựng (hoặc chi phí thiết bị) trong tổng mức đầu tư được duyệt để tạm để tạm xác định giá trị hợp đồng. Giá trị thanh toán của hợp đồng giao nhận thầu thiết kế được tính theo chi phí xây dựng (hoặc chi phí thiết bị) trong tổng dự toán hoặc dự toán được duyệt”. Với những phân tích và quy định của pháp luật đã dẫn ở trên thì việc Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Quyết định số 6469/QĐ-ĐLHN-P08 ngày 14/12/2007 và Quyết định số 1757/QĐ-ĐLHN- P08 ngày 02/4/2008 của Công ty điện lực Hà Nội để buộc Công ty HaPec phải thanh toán giá trị tư vấn thiết kế còn lại là 121.946.203 đồng và tiền lãi chậm thanh toán của số tiền trên là 23.608.000 đồng là không phù hợp với thỏa thuận của hai bên đương sự và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án này. Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự thì Công ty Sao Nam Phong “chưa đủ điều kiện khởi kiện” đối với vụ án này. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định tại trang 9 của bản án sơ thẩm “…Mặc dù Công ty Sao Nam Phong đã thực hiện nghĩa vụ theo hợp
  16. Luật Thương Mại II Nhóm 1A đồng nhưng chưa có cơ sở để tính giá trị hợp đồng, do vậy cũng chưa có căn cứ để thanh lý hợp đồng” là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nhưng việc quyết định “không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Sao Nam Phong …không xem xét các yêu cầu khác của các bên đương sự” là không đúng với quy định tại khoản 2, Điều 192, điểm đ khoản 1 Điều 168 và khoản 3 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, theo thỏa thuận tại Điều 2 và Điều 5 của Hợp đồng số 78/HĐKT-TTTKĐ ngày 15/6/2005 đã ký giữa các bên, quan điểm và cam kết của Công ty HaPec thể hiện tại các Văn bản ngày 20/7/2008, ngày 05/01/2009 về việc khi cơ quan có thẩm quyền duyệt thiết kế, tổng dự toán và giá trị tư vấn thiết kế, Công ty sẽ cùng Công ty Sao Nam Phong thanh lý hợp đồng và nội dung Công văn số 040/CV-ĐLHN-P12 ngày 23/01/2009 của Ban quản lý dự án lưới điện Hà Nội gửi Công ty HaPec thì không cần thiết áp dụng khoản 2 Điều 192 và khoản 3 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự để hủy bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm để đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại đơn khởi kiện… cho Công ty Sao Nam Phong, cũng như giải quyết tiền tạm ứng án phí Công ty Sao Nam Phong đã nộp khi khởi kiện mà cần hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 03/2009/KDTM-PT ngày 16, 19/01/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2008/KDTM-ST ngày 08, 09/10/2008 của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật theo hướng: nếu trong quá trình thụ lý lại vụ án mà Công ty Sao Nam Phong cung cấp được tài liệu chứng minh giá trị tư vấn thiết kế ghi trong dự toán đã được chủ đầu tư phê duyệt thì tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung. Trong trường hợp Công ty Sao Nam Phong chưa có tài liệu để chứng minh nghĩa vụ của Công ty HaPec trong việc thanh toán giá trị tư vấn thiết kế còn lại thì cần căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 192 và khoản 3 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, xóa tên vụ án trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ cho Công ty Sao Nam Phong ; đồng thời, trả lại tiền tạm ứng án phí cho Công ty Sao Nam Phong . Bởi các lẽ trên; Căn cứ vào khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297; khoản 1, 3 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự, QUYẾT ĐỊNH Hủy Bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 03/2009/KDTM-PT ngày 16, 19/01/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 05/2008/KDTM-ST ngày 08, 09/10/2008 của Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Hai
  17. Luật Thương Mại II Nhóm 1A Bà Trưng, thành phố Hà Nội để xét xử sở thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật CÁC THẨM PHÁN Nguyễn Văn Tiến Bùi Thị Hải (Đã ký) (Đã ký) THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA Bùi Thế Linh (Đã ký)
  18. Luật Thương Mại II Nhóm 1A III. Hợp đồng cụ thể CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ----------------o0o---------------- HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀU ( HULL ) Số: 12/GDI/HHA/1211/HĐBH/0004 Hôm nay, ngày 01 tháng 01 năm 2012, Tại trụ sở Công ty Cổ Phần Bảo Hiểm PJICO-Chi nhánh Gia Định, 49F Phan Đăng Lưu – Phường 3 - Quận Bình Thạnh – TP Hồ Chí Minh. NGƯỜI BẢO HIỂM: CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PJICO CHI NHÁNH GIA ĐỊNH Sau đây gọi là PJICO – GIA DINH Địa chỉ : 49F Phan Đăng Lưu – Phường 3 - Quận Bình Thạnh – TP Hồ Chí Minh. Điện Thoại : 08. 35512610 - Fax: 08. 35512614 Tài khoản Việt Nam đồng số: 018.100.0248826 Tại : Ngân hàng Ngoại thương chi nhánh Bình Thạnh Do Ông/Bà : BÙI ANH TUẤN làm đại diện. Chức vụ : PHÓ GIÁM ĐỐC (Theo giấy ủy quyền số: 88/GDI/2010 ngày 04/08/2010 của Giám đốc Chi nhánh PJICO Gia Định) Sau đây gọi là NGƯỜI BẢO HIỂM. NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM CHỦ TÀU: CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH VÀ VẬN TẢI DƯƠNG ĐÔNG Địa chỉ : 21-23 Đường O Mỹ Giang II, Phú Mỹ Hưng, Phường Tân Phong, Quận 7, Tp.HCM Điện thoại : (08) 54146969 - 54156969 Fax: (08) - 54155959 Mã số thuế : 0304383964 Do Ông/bà : TRƯƠNG TIẾN VINH Chức vụ : TỔNG GIÁM ĐỐC - làm đại diện. Sau đây gọi là NGƯỜI ĐƯỢC BẢO HIỂM. Cùng nhau thỏa thuận nguyên tắc về thực hiện Hợp đồng bảo hiểm thân tàu như sau: ĐIỀU 1: NGUYÊN TẮC CHUNG 1. Người được bảo hiểm đồng ý tham gia bảo hiểm thân tàu (Vỏ tàu, máy móc, trang thiết bị ) cho các tàu DƯƠNG ĐÔNG thuộc quyền quản lý của mình với Người bảo
  19. Luật Thương Mại II Nhóm 1A hiểm theo đúng quy định hiện hành trong bộ luật Hàng hải Việt nam ban hành ngày 14/06/2005. 2. Người bảo hiểm đồng ý nhận bảo hiểm về thân tàu cho các tàu DƯƠNG ĐÔNG mà Người được bảo hiểm yêu cầu với điều kiện tàu phải đảm bảo an toàn đi biển theo đúng quy định hiện hành của Bộ luật Hàng hải Việt Nam và Luật lệ, Tập quán Hàng hải Quốc tế. 3. Giá trị bảo hiểm của tàu là giá trị do hai bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với giá thực tế tại thời điểm tham gia bảo hiểm. ĐIỀU 2: LUẬT, ĐIỀU KHOẢN, ĐIỀU KIỆN CHI PHỐI HỢP ĐỒNG. 1. Luật áp dụng đối với Hợp đồng bảo hiểm này là Bộ luật Hàng hải Việt Nam. Những điểm Bộ luật Hàng hải Việt Nam chưa quy định thì áp dụng Luật, Tập quán bảo hiểm hàng hải Anh. 2. Điều khoản và điều kiện bảo hiểm áp dụng cho từng tàu và được ghi trên Đơn bảo hiểm, Giấy sửa đổi bổ sung (nếu có). Đơn bảo hiểm và Giấy sửa đổi bổ sung là các bộ phận cấu thành không thể tách rời của Hợp đồng bảo hiểm này. ĐIỀU 3: THỦ TỤC BẢO HIỂM 1. Yêu cầu bảo hiểm: Người được bảo hiểm tuỳ theo điều kiện về con tàu, khả năng tài chính của mình lựa chọn hình thức bảo hiểm thời hạn hoặc chuyến, điều kiện bảo hiểm, cho thích hợp để kê khai trong Giấy yêu cầu bảo hiểm. Giấy yêu cầu bảo hiểm phải gửi cho Người bảo hiểm trước 10 ngày kể từ ngày yêu cầu bảo hiểm có hiệu lực với nội dung kê khai theo mẫu in sẵn của Người bảo hiểm. Đối với tàu tham gia bảo hiểm lần đầu tại Người bảo hiểm ngoài Giấy yêu cầu bảo hiểm phải kèm theo các tài liệu sao chụp sau: - Giấy chứng nhận đăng ký tàu. - Các Giấy phép Đăng kiểm của con tàu còn hiệu lực, kèm theo Biên bản kiểm tra từng phần của Đăng kiểm. - Biên bản kiểm tra khi giao nhận tàu. 2. Chấp nhận bảo hiểm: Khi nhận được Giấy yêu cầu bảo hiểm và các tài liệu liên quan nêu tại Điều 3.1, Người bảo hiểm sẽ xem xét và có thể tiến hành kiểm tra tình trạng thực tế của tàu. Nếu tàu thực sự đảm bảo an toàn đi biển, Người bảo hiểm sẽ chấp nhận và cấp Đơn bảo hiểm cho tàu. 3. Hiệu lực của bảo hiểm: Ngoài những điều quy định trong Bộ luật Hàng hải Việt Nam và điều kiện bảo hiểm áp dụng cho từng tàu, hiệu lực bảo hiểm cũng tự động chấm dứt khi: - Người được bảo hiểm không thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn theo quy định tại điều 4.3 dưới đây ( trừ trường hợp có thoả thuận khác ). - Tàu được chuyển chủ. - Giấy phép đăng kiểm hết hiệu lực ( trừ khi tàu đang ở ngoài khơi ) - Tàu thay đổi nơi Đăng kiểm mà không báo cho Người bảo hiểm bằng văn bản. - Tàu bị trưng dụng, trưng thu. ĐIỀU 4: PHÍ BẢO HIỂM 1. Tỷ lệ phí bảo hiểm – phí bảo hiểm:
  20. Luật Thương Mại II Nhóm 1A Tỷ lệ phí bảo hiểm 0.5% (Chưa bao gồm VAT) Phí bảo hiểm : 350.000.000 VNĐ Thuế VAT : 35.000.000 VNĐ Tổng cộng : 385.000.000 VNĐ (Ba trăm tám mươi lăm triệu đồng chẵn) Tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ điều chỉnh tăng cho các tàu, Chủ tàu có tỷ lệ bồi thường tổn thất lớn và điều chỉnh giảm khi có tỷ lệ bồi thường thấp hoặc không có tổn thất. Tuy vậy về nguyên tắc, tỷ lệ phí bảo hiểm sẽ do hai bên thoả thuận. 2. Loại tiền đóng phí bảo hiểm: Tàu hoạt động tuyến nước ngoài, phí bảo hiểm thanh toán bằng Đô-la Mỹ. Tàu hoạt động trong vùng lãnh hải Việt Nam, phí bảo hiểm thanh toán bằng đồng Việt nam. 3. Thời hạn thanh toán phí bảo hiểm: 3.1- Phí bảo hiểm được thanh toán làm 04 kỳ trong năm. Kỳ 1: Thanh toán chậm nhất trước ngày 15/01/2012 số tiền: 96.250.000 VNĐ Kỳ 2: Thanh toán chậm nhất trước ngày 15/04/2012 số tiền: 96.250.000 VNĐ Kỳ 3: Thanh toán chậm nhất trước ngày 15/07/2012 số tiền: 96.250.000 VNĐ Kỳ 4: Thanh toán chậm nhất trước ngày 15/10/2012 số tiền: 96.250.000 VNĐ 3.2- Đối với những tàu tham gia bảo hiểm trên 06 tháng, phí bảo hiểm được thanh toán làm 02 kỳ, mỗi kỳ 1/2 số phí ghi trên Thông báo thu phí vào 15 ngày đầu mỗi kỳ. 3.3- Trường hợp tàu được bảo hiểm theo thời hạn mà bị tổn thất toàn bộ thì sau 15 ngày kể từ ngày tàu bị tổn thất toàn bộ, Người được bảo hiểm phải thanh toán toàn bộ số phí bảo hiểm còn lại cho tàu chưa đến kỳ thanh toán. 3.4- Trường hợp bảo hiểm chuyến, Người được bảo hiểm thanh toán toàn bộ 1 lần ngay khi cấp đơn bảo hiểm theo thông báo thu phí của Người bảo hiểm. 3.5- Phí bảo hiểm được coi là thanh toán đầy đủ và đúng hạn khi tiền đã vào tài khoản của Người bảo hiểm, hoặc có xác nhận của Ngân hàng về việc chuyển trả phí bảo hiểm của Người được bảo hiểm theo đúng thời hạn và đúng số tiền ghi trên Thông báo thu phí và Giấy sửa đổi bổ sung (nếu có). 3.6- Nếu Người được bảo hiểm không thanh toán phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn, thì ngoài việc phải thanh toán số phí cho thời gian tàu đã được bảo hiểm, Người được bảo hiểm còn phải thanh toán cả lãi suất của số phí còn nợ cho thời gian kể từ ngày phát sinh nợ đến ngày thanh toán ( trừ trường hợp có thoả thuận khác bằng văn bản). 3.7- Đối với hoạt động cập mạn chuyển tải, Người bảo hiểm đồng ý không thu bổ sung thêm phí bảo hiểm nhưng Người được bảo hiểm phải có trách nhiệm thông báo từng chuyến chuyển tải (bằng văn bản) cho Người bảo hiểm. 4. Phương thức thanh toán phí bảo hiểm: Phí bảo hiểm được thanh toán vào tài khoản của Người bảo hiểm theo quy định về phương thức thanh toán hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2