Phần II: Văn Việt<br />
<br />
Nghĩa của mày ngài trong câu thơ Râu hùm, hàm én, mày ngài<br />
<br />
Trong d}n gian cũng như trong một bộ phận đ|ng kể của giới nghiên cứu và giảng dạy<br />
văn học, câu thơ s|u chữ trên đ}y, m{ Nguyễn Du dùng để phác họa dung mạo của Từ Hải,<br />
vốn được hiểu là gồm ba cặp ho{n to{n đối xứng với nhau về ngữ ph|p v{ ý nghĩa, tức nếu<br />
diễn đạt một cách thật rõ ràng và nôm na, ba cặp này sẽ có dạng:<br />
“(r}u của Từ Hải tựa như) r}u của con hùm,<br />
(hàm của Từ Hải tựa như) h{m của con én,<br />
(mày của Từ Hải tựa như) mày của con ngài”.<br />
Bên cạnh cách hiểu này, còn có một cách hiểu kh|c, được một số kh| đông c|c nh{<br />
nghiên cứu chủ trương, cụ thể là:<br />
“(r}u của Từ Hải tựa như) r}u của con hùm,<br />
(hàm của Từ Hải tựa như) h{m của con én,<br />
(mày của Từ Hải tựa như) con tằm nằm ”.<br />
[1]<br />
<br />
nghĩa l{ mối quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa trong cặp từ thứ ba được phân tích khác<br />
hẳn mối quan hệ trong hai cặp từ trước: thay vì mối quan hệ xác định có ý nghĩa sở hữu, ở<br />
đ}y ta lại có một mối quan hệ tỷ dụ. Các tác giả chủ trương c|ch ph}n tích n{y cho rằng khi<br />
dùng hai từ mày ngài (hay nét ngài) để tả phụ nữ (như trong mấy c}u thơ số 20, 927 và<br />
1.213), Nguyễn Du muốn nói đến đôi m{y của con ngài (nga my), còn khi dùng hai từ n{y để<br />
tả Từ Hải, ông lại nghĩ đến hình con tằm nằm (ngọa tàm my).<br />
Vậy cách hiểu n{o x|c đ|ng hơn?<br />
Vấn đề n{y tuy cũ v{ nhỏ nhưng cũng có liên quan đến một vài nguyên lý quan trọng<br />
của tiếng ta, cho nên nay có bàn lại chắc cũng không đến nỗi vô bổ: }u cũng l{ một cơ hội để<br />
tìm hiểu thêm cấu trúc của tiếng Việt.<br />
<br />
Trước hết, nó buộc ta nhìn lại xem quan hệ ngữ pháp giữa hai từ đơn tiết ghép lại<br />
thành cặp, không có giới từ hay liên từ đứng giữa – đặc biệt là khi từ đầu chỉ một bộ phận<br />
của cơ thể động vật và từ sau chỉ lo{i động vật có cái bộ phạn ấy, như trong c|c danh ngữ<br />
đang b{n – có thể là những mối quan hệ gì trong tiếng Việt.<br />
Gần gũi nhất với các cặp từ đang b{n l{ những cặp sau đ}y, vốn cũng gồm một từ chỉ bộ<br />
phận cơ thể động vật và một từ chỉ bản th}n động vật, v{ cũng được dùng như những ẩn dụ<br />
để tả người:<br />
(A) bụng cóc đầu tr}u lưng tôm mặt ngựa râu dê<br />
ch}n voi đít vịt mắt ếch mình trắm râu trê<br />
cổ g{ đùi dế mắt lươn phổi bò tai trâu<br />
cổ ngỗng gối hạc mắt phượng răng chuột thân lừa<br />
đầu bò lưng ong mặt chuột răng ngựa xác ve<br />
<br />
[2]<br />
<br />
Trong tất cả các cặp này, quan hệ giữa hai yếu tố đều là quan hệ x|c định có ý nghĩa sở<br />
hữu (“của”– có thể dùng để trả lời câu hỏi X gì ? tức X của con gì ? trong đó X là một bộ phận<br />
của cơ thể. Không có lấy một cặp nào cho thấy một quan hệ tỷ dụ (“như”) theo kiểu “m{y<br />
ngài = mày như con tằm” (có thể dùng để trả lời câu hỏi X như con gì? hay X giống con gì?).<br />
Những cặp danh từ tương tự (cũng gồm một từ chỉ bộ phận cơ thể động vật và một từ<br />
chỉ động vật) dùng để gọi tên, chỉ loại hay miêu tả hình dáng, màu sắc của đồ vật theo phép<br />
ẩn dụ, như:<br />
(B)c{ng cua ch}n chim da b|o đuôi én h{m ếch<br />
cẳng g{ ch}n chó da c| đuôi chồn lòng tôm<br />
cánh én chân rết da g{ đuôi sam lông bò<br />
cánh gà cổ ngỗng da lợn đuôi tôm lông chuột<br />
c|nh phượng cổ vịt da lươn đầu ruồi lưỡi gà<br />
cánh trả cứt ngựa d|i dê gan g{ lưỡi rắn<br />
lưỡi trai mắt cua móng lợn ruột tượng trứng cá<br />
mào gà mỏ ác móng lừa tai mèo vỏ hàu<br />
<br />
mắt cá mỏ quạ răng ngựa tai voi vỏ ốc<br />
mắt cáo mỏ vịt râu tôm trôn ốc vòi voi .<br />
<br />
[3]<br />
<br />
cũng đều cho thấy mối quan hệ x|c định có ý nghĩa sở hữu, chứ không hề có trường<br />
hợp nào cho thấy một mối quan hệ có ý nghĩa tỷ dụ.<br />
Vậy thứ quan hệ này có thể tìm thấy trong những từ tổ như thế nào?<br />
Để tả người, tiếng Việt còn dùng theo phép ẩn dụ những danh ngữ sau đ}y:<br />
(C)mắt bồ câu mồm cá ngão gáy bò tót<br />
mắt cú vọ mũi diều hâu<br />
(D)mặt mẹt mày liễu da chì mặt hoa da phấn<br />
mặt thớt tóc m}y tóc tơ mắt huyền m| đ{o<br />
(Đ)<br />
chân bàn cuốc mặt tr|i xoan lưng tấm phản tóc rễ tre<br />
chân chữ bát mắt hạt huyền óc b~ đậu vú chũm cau<br />
chân vòng kiềng răng hạt huyền mắt ốc nhồi<br />
m| b|nh đúc môi quả tim răng hạt na râu con kiến<br />
mặt chữ điền mắt l| răm mũi c{ chua tóc đuôi g{ v.v.<br />
<br />
[4]<br />
<br />
(E)nước da bánh mật lông mày lá liễu<br />
ngón tay búp măng lông m{y lưỡi mác, v.v.<br />
Các từ tổ ở nhóm (C), gồm ba tiếng, được cấu tạo bằng hai bộ phận có quan hệ x|c định<br />
sở hữu, giống như hai th{nh phần của các từ tổ ở nhóm (A) và nhóm (B). Các từ tổ ở nhóm<br />
(D), gồm hai tiếng như (A) v{ (B), nhưng kh|c với các từ tổ ở hai nhóm này ở chỗ tiếng thứ<br />
hai không phải là từ chỉ động vật. Quan hệ ngữ nghĩa trong c|c tổ hợp (D) là quan hệ tỷ dụ<br />
hoặc có thể hiểu thành quan hệ tỷ dụ. Trong nhóm (Đ) các từ tổ gồm ba tiếng, trong đó tiếng<br />
thứ nhất có quan hệ tỷ dụ với từ tổ gồm hai tiếng sau. Trong nhóm này, chỉ có hai từ tổ sau<br />
cùng gồm một từ chỉ bộ phận của cơ thể đi trước một từ tổ chỉ động vật. Trong nhóm (E),<br />
các từ tổ đều gồm hai thành phần song tiết có quan hệ tỷ dụ với nhau. Ở nhóm này chỉ có từ<br />
<br />
tổ sau cùng kết thúc bằng một từ tổ chỉ động vật. Sau khi điểm qua tất cả các từ tổ từ (A)<br />
đến (E), ta có thể thiết lập mấy quy tắc sau đ}y:<br />
1. Trong các từ tổ gồm hai tiếng, trong đó tiếng thứ nhất chỉ một bộ phận cơ thể và<br />
tiếng thứ hai chỉ một động vật, mối quan hệ duy nhất có thể có được giữa hai tiếng này là<br />
quan hệ x|c định sở hữu.<br />
2. Trong các từ tổ gồm ba (hay bốn) tiếng trong đó tiếng đầu (hay hai tiếng đầu) chỉ<br />
một bộ phận cơ thể và hai tiếng sau chỉ một động vật, có v{i trường hợp cho thấy một quan<br />
hệ tỷ dụ.<br />
3. Trong các từ tổ gồm một hay hai tiếng chỉ bộ phận cơ thể và một hay hai tiếng chỉ<br />
bất động vật, có nhiều trường hợp cho thấy một quan hệ tỷ dụ.<br />
Quy tắc 1 có tính phổ biến và tuyệt đối. Chúng tôi có làm một thí nghiệm đơn giản mà<br />
bất cứ ai cũng có thể làm lại: lấy bất kỳ tiếng nào trong số hơn một trăm tiếng chỉ các bộ<br />
phận trong cơ thể động vật (hay những chất chứa trong cơ thể động vật như sữa, phân,<br />
trứng, v.v.) ghép với bất kỳ tiếng nào trong mấy trăm tiếng (từ đơn }m) chỉ động vật của<br />
tiếng Việt để xem thử bản thân mình và những người Việt khác hiểu các từ tổ đ~ hình th{nh<br />
như thế nào. Theo những kết quả m{ chúng tôi thu được, không hề có trường hợp n{o đi<br />
ngược lại quy tắc nói trên. Ngay trong những trường hợp động vật được nói tới không có<br />
cái bộ phận hữu quan, như trong c|c từ tổ mắt giun, ngà hổ, sừng chim, gan sứa, cánh chuột,<br />
vú gà, v.v., người Việt cũng chỉ có thể hiểu thành quan hệ x|c định sở hữu. Trong những<br />
trường hợp như vậy người ta thường thốt lên: “G{ l{m gì có vú?” hay “Mắt của con giun nó<br />
ở chỗ nào kia chứ?”.<br />
Ba trường hợp được nói tới ở quy tắc 2 - mắt ốc nhồi, râu con kiến và lông mày sâu róm<br />
– xuất hiện trong những điều kiện hạn chế hết sức ngặt nghèo: từ tổ hữu quan, gồm ba tiếng<br />
trở lên, phải là một thành ngữ thông dụng đ~ đi v{o vốn idiom của d}n gian, v{ động vật<br />
được nói tới phải không có cái bộ phận được biểu thị bằng tiếng (hay hai tiếng) đầu của từ<br />
tổ: trong trường hợp ngược lại, người nghe lập tức tri giác một quan hệ x|c định sở hữu (cf.<br />
mắt diều hâu, mày kỳ l}n, nước mắt cá sấu).<br />
Những trường hợp được nói tới ở quy tắc 3 cũng chịu những điều kiện hạn chế khá<br />
nghiêm ngặt. Quan hệ tỷ dụ chỉ có thể có khi nào cái vật được nói tới không hề có một bộ<br />
<br />
phận nào có thể theo phép ẩn dụ mà gọi bằng một từ vốn dùng để chỉ một cơ thể động vật<br />
như trong c|c từ tổ kiểu mặt trống, mắt tre, ch}n giường, mũi dao, lưỡi cày, cổ chai, họng<br />
súng, đuôi |o, đít nồi, răng cưa, tay ghế, dái mít, sọ dừa, cánh cửa, v.v. Chẳng hạn, trong nhóm<br />
(Đ) ta hiểu chân bàn cuốc theo quan hệ tỷ dụ là vì bàn cuốc không thể có chân được. Nếu<br />
thay vì chân bàn cuốc ta lại có chân bàn tiện chẳng hạn, thì mối quan hệ duy nhất có thể<br />
được cảm thức trong từ tổ tất nhiên sẽ là quan hệ x|c định sở hữu. Trong nhóm (D), tất cả<br />
các từ tổ đều có thể hiểu như bao h{m một quan hệ tỷ dụ. Tuy vậy, mặt mẹt, mặt thớt và<br />
mặt mâm còn có thể hiểu như bao h{m quan hệ sở hữu (hiểu như “mặt của cái mẹt” cũng có<br />
lý như “mặt giống cái mẹt”), trong khi tóc tơ, da chì, mắt huyền còn có thể hiểu như bao h{m<br />
quan hệ x|c định chất liệu theo phép ẩn dụ (“tóc bằng tơ”, “môi bằng chì”, v.v., cũng có lý<br />
không kém “tóc như tơ”, “môi m{u chì”).<br />
Đương nhiên hai quy tắc 2 v{ 3 không có liên quan gì đến c|c trường hợp đang b{n,<br />
vốn hoàn toàn thuộc phạm vi hiệu lực của quy tắc 1. Cho nên, không có gì đ|ng lấy làm lạ<br />
nếu tất cả những người Việt bình thường không biết tới điển ngọa tàm my hoặc không thấy<br />
mày ngài với nó là một, đều hiểu mối quan hệ giữa hai yếu tố của các từ tổ râu hùm, hàm én,<br />
mày ngài như một quan hệ đồng nhất: quan hệ x|c định sở hữu. Vốn mang trong máu thịt<br />
các quy tắc vẫn chi phối cách sử dụng cái công cụ giao tế v{ tư duy hằng ngày của họ, và<br />
không bị những nhân tố ngoài ngôn ngữ bóp méo cách hiểu tiếng mẹ đẻ, họ không thể nào<br />
hiểu kh|c đi được. Cách thuyết minh bác học về từ tổ mày ngài tạo nên cái lệ ngoại duy nhất<br />
cho một quy tắc có tác dụng tuyệt đối trong một phạm vi bao gồm hơn hai vạn trường hợp,<br />
và có lẽ cũng l{ c|i lệ ngoại duy nhất trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du, một nh{ thơ<br />
vốn chú tâm sử dụng tiếng Việt đúng như người Việt bình thường vẫn hiểu, đến nỗi có khi<br />
sẵn s{ng đi ngược lại với từ nguyên , và bao giờ cũng tôn trọng sự đối xứng giữa các thành<br />
[5]<br />
<br />
tố song hành của c}u thơ. Quả thật khó lòng có thể tìm được một trường hợp nào khác mà<br />
Nguyễn Du dùng một từ này thay cho một từ kh|c đến mức người Việt chỉ có thể hiểu thành<br />
một ý khác hẳn ý của ông như vậy, v{ cũng thật khó lòng tìm được một c}u thơ n{o kh|c<br />
của Nguyễn Du trong đó có hai hay ba cặp từ (hoặc cụm ba, cụm bốn từ) đối xứng với nhau<br />
chan chát về nghĩa từ vựng như râu hùm, hàm én, mày ngài mà lại bị đặt vào những mối<br />
quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa kh|c nhau đến như trong c|ch thuyết minh này.<br />
<br />