intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ

Chia sẻ: Nguyen Ha | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:38

119
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp từ nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần thiết

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ

  1. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ Tiểu luận Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ 1
  2. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ LỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ .. 7 1.1. Khái niệm ........................................................................................................ 7 1.2. Đặc điểm .......................................................................................................... 8 1.3. Quyền năng chủ thể ......................................................................................... 8 1.4. Phân loại .......................................................................................................... 9 CHƯƠNG 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 10 2.1. Quan điểm truyền thống ............................................................................... 10 2.1.1. Quốc gia....................................................................................................... 10 2.1.1.1. Các yếu tố cấu thành Quốc gia .................................................................. 10 2.1.1.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của Quốc gia .......................................... 11 2.1.2. Dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết ..................................................... 12 2.1.2.1. Khái niệm .................................................................................................. 12 2.1.2.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết ...................................................................................................... 13 2.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ ................................................................... 14 2.1.3.1. Khái niệm .................................................................................................. 14 2.1.3.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ .......... 15 2.1.4. Chủ thể đặc biệt ........................................................................................... 16 2.2. Quan điểm hiện đại........................................................................................ 17 2.2.1. Cá nhân ....................................................................................................... 18 2.2.1.1. Trách nhiệm pháp lý .................................................................................. 19 2
  3. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ 2.2.1.2. Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên toà án quốc tế ............................... 19 2.2.1.3. Vị thế pháp lý (status) của một số nhóm cá nhân trong luật quốc tế ........... 20 2.2.2. pháp nhân - Công ty xuyên Quốc gia .......................................................... 21 2.2.2.1. Khái niệm .................................................................................................. 21 2.2.2.2. Vai trò chủ thể quan hệ quốc tế của Công ty xuyên quốc gia. ..................... 21 2.2.3. Các tổ chức phi chính phủ........................................................................... 25 2.2.3.1. Khái niệm .................................................................................................. 25 2.2.3.2. Vai trò của tổ chức phi chính phủ trong quan hệ quốc tế ........................... 25 CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CÁC QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ ......................................................................................................... 27 3.1. Ưu và nhược điểm của quan điểm truyền thống .......................................... 27 3.1.1. Ưu điểm ....................................................................................................... 27 3.1.2. Nhược điểm ................................................................................................. 28 3.2. Ưu và nhược điểm của quan điểm hiện đại .................................................. 29 3.2.1. Ưu điểm ....................................................................................................... 29 3.2.1.1. Cá nhân .........................................................Error! Bookmark not defined. 3.2.1.2. Pháp nhân và các Tổ chức phi chính phủ .......Error! Bookmark not defined. 3.2.2. Nhược điểm ................................................................................................. 29 3.2.2.1. Cá nhân .........................................................Error! Bookmark not defined. 3.2.2.2. Pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ ........Error! Bookmark not defined. 3.3. Đánh giá quan điểm cá nhân, pháp nhân là chủ thể của luật quốc tế……..31 3.3.1. Về đối tượng điều chỉnh của Luật Quốc tế .................................................. 33 3
  4. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ 3.3.2. Về phương pháp điều chỉnh ........................................................................ 34 3.3.3. Về biện pháp chế tài..................................................................................... 34 3.3.4. Về chủ thể .................................................................................................... 34 3.3.5. Nguồn luật điều chỉnh ................................................................................. 35 3.3.6. Quan điểm về chủ thể của luật quốc tế ở Việt Nam ..................................... 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO. ................................................................................ 38 4
  5. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ LỜI MỞ ĐẦU Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp từ nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần thiết vì giúp tìm ra đâu là nguồn của luật, quan hệ nào thuộc sự điều chỉnh của luật. Thực tế trên thế giới hiện nay ngoài quan điểm truyền thống cho rằng quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh, tổ chức liên chính phủ, chủ thể đặc biệt khác là chủ thể của luật thì còn có quan điểm (hiện đại) cho rằng cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, tổ chức phi chính phủ cũng nên được xem là chủ thể của luật Quốc Tế. Đây là quan điểm mới và cũng được một số nước trên thế công nhận. Hiện tại ở Việt Nam mặc dù cũng có nhiều ý kiến về vấn đề mới này nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu về quan hiện đại. Câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta có suy nghĩ gì về vấn đề này? Có nên công nhận quan niệm hiện đại? Đây là đề tài được xem là khá mới mẻ và còn nhiều vấn đề cần phải làm rõ nên chúng ta cần phải nghiên cứu sâu hơn để tìm ra lời giải đáp phù hợp với thực tiễn hiện nay. Đề tài áp dụng phương pháp thống kê để thu thập những bài viết có liên quan, đồng thời phân tích, so sánh, đối chiếu để làm rõ các vấn đề có liên quan đến chủ thể của Luật. Tổng hợp những nhận định, ý kiến của nhiều người để từ đó đưa ra quan điểm chung về vấn đề này. Việc nghiên cứu sẽ giúp chúng ta nắm được những vấn đề cơ bản về chủ thể của luật Quốc Tế đồng thời giúp mọi người tìm ra được sự khác biệt giữa chủ thể của luật Quốc tế với các ngành Luật khác. Giúp người đọc có cái nhìn rộng hơn về chủ 5
  6. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ thể của Luật Quốc tế, tiếp xúc với nhiều quan điểm, ý kiến mới để từ đó có cái nhìn bao quát hơn. Việc nên hay không nên công nhận thêm các chủ thể khác vào Luật Quốc tế hiện nay là chuyện rất dài và tốn nhiều thời gian. Đề tài này mong muốn giúp đọc giả có được nhiều cách nhìn nhận hơn về chủ thể của Luật Quốc Tế. Nếu có sự thay đổi đáng kể về chủ thể của luật có thể sẽ có nhiều vấn đề được giải quyết hiệu quả hơn. Xin chân thành cảm ơn! Nhóm thực hiện đề tài Nhóm 6 lớp K09504 6
  7. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý, để xác định được đối tượng của Luật Quốc tế cần phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản sau:  Có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế do Luật Quốc tế điều chỉnh.  Có ý chí độc lập (không phụ thuộc vào chủ thể khác) trong sinh hoạt quốc tế.  Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế.  Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể gây ra. Cùng với quá trình phát triển khách quan của xã hội thì sự tồn tại và phát triển của Luật Quốc tế cũng đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, do đó trong từng giai đoạn lịch sử mà phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế có sự thay đổi dẫn tới chủ thể của Luật Quốc tế cũng có sự khác nhau nhất định. Trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ thì chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia chủ nô, các liên đoàn chính trị tôn giáo của các quốc gia thành thị. Trong thời kỳ phong kiến, chủ thể Luật Quốc tế là các quốc gia phong kiến, các nhà thờ thiên chúa giáo. Đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa thì chủ thể của Luật Quốc tế là các quốc gia có chủ quyền và các tổ chức quốc tế. 1 Từ những cơ sở trên, chúng ta có thể định nghĩa tổng quát khái niệm chủ thể của Luật Quốc tế như sau: chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về Luật Quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia 1994, tr 30 7
  8. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ quyền và nghĩa vụ quốc tế và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện. 1.2. Đặc điểm Xét về vị trí, tính chất, vai trò chức năng và bản chất pháp lý… thì các chủ thể của Luật Quốc tế có sự khác nhau, tuy nhiên chúng bao giờ cũng có chung các đặc điểm cơ bản và đặc trưng sau:  Là thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia quan hệ pháp Luật Quốc tế.  Độc lập về ý chí, không chịu sự tác động của các chủ thể khác.  Được hưởng quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế.  Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể đó gây ra.  Không có một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế. 1.3. Quyền năng chủ thể Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế là thuộc tính cơ bản, là khả năng pháp lý đặc biệt của những chủ thể được hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ pháp Luật Quốc tế. Quyền năng chủ thể bao gồm hai phương diện và chỉ khi có đầy đủ hai phương diện này thì mới được coi là chủ thể của Luật Quốc tế. Năng lực pháp luật quốc tế: là khả năng chủ thể của Luật Quốc tế được mang những quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế, khả năng này được ghi nhận trong các quy phạm pháp luật Quốc tế. Năng lực hành vi quốc tế: là khả năng chủ thể được thừa nhận trong Luật Quốc tế bằng những hành vi pháp lý độc lập của mình tự tạo ra cho bản thân quyền năng chủ thể và có khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế do các hành vi của mình gây ra. 8
  9. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ 1.4. Phân loại Hiện nay, trong quan hệ pháp Luật Quốc tế hiện đại thì chủ thể của Luật Quốc tế bao gồm:  Quốc gia, đây là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật Quốc tế.  Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, đây là chủ thể tiềm tàng của Luật Quốc tế.  Các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đây là chủ thể phái sinh của Luật Quốc tế, được hình thành bởi sự hợp tác của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực hướng đến lợi ích của các quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng.  Các chủ thể đặc biệt khác. Tuy nhiên trong trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, vai trò của các cá nhân, tập đoàn, công ty đa quốc gia, các hiệp hội phi chính phủ trong quan hệ quốc tế ngày càng tăng cho nên việc thừa nhận các chủ thể có sự tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế ở một số lĩnh vực nhất định, do đó có quan điểm cho rằng đây cũng là chủ thể của Luật Quốc tế. 9
  10. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ CHƯƠNG 2: NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ 2.1. Quan điểm truyền thống Theo quan điểm truyền thống thì luật quốc tế có 4 loại chủ thể sau đây: Một là, các quốc gia có độc lập, chủ quyền – Chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật quốc tế Hai là, các tổ chức quốc tế liên chính phủ - Chủ thể hạn chế, chủ thể phái sinh của Luật quốc tế Ba là, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết Bốn là, các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác (các vùng lãnh thổ) – Chủ thể đặc biệt của Luật quốc tế 2.1.1. Quốc gia 2.1.1.1. Các yếu tố cấu thành Quốc gia Quốc gia là một phần tạo nên cộng đồng quốc tế, hiện nay trong khoa học pháp lý quốc tế chưa có một định nghĩa thống nhất được chấp nhận chung về thuật ngữ "quốc gia". Tuy nhiên, tại điều 1 Tuyên bố Montevideo về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia được thông qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu Mỹ ngày 27/12/1933 có đưa ra một vài yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia, đó là: Thứ nhất, có lãnh thổ xác định: đây là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành quốc gia. Không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được xác định là một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là ranh giới để xác định chủ quyền quốc gia đối với dân cư của mình. Vấn đề kích thước lãnh thổ rộng hay hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia. 10
  11. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ Thứ hai, có cộng đồng dân cư ổn định: Theo nghĩa rộng, dân cư của một quốc gia là tất cả những người sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia nhất định và tuân theo pháp luật của nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng để chỉ tất cả những người có quốc tịch của quốc gia đó. Mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa nhà nước với cộng đồng dân cư của quốc gia chủ yếu thông qua chế định quốc tịch. Thứ ba, có chính phủ với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập, không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác. Thứ tư, có khả năng độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế: "khả năng" này có được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại của mình 2.1.1.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của Quốc gia Quyền năng chủ thể LQT của quốc gia là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà quốc gia có được khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Quốc gia là chủ thể duy nhất có quyền năng đầy đủ khi tham gia quan hệ quốc tế, điều này thể hiện ở các quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản sau: * Quyền quốc tế cơ bản:  Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi.  Quyền được tự vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể.  Quyền được tồn tại trong hòa bình và độc lập.  Quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ.  Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế.  Quyền được trở thành thành viên của các tổ chức quốc tế phổ biến. *Nghĩa vụ quốc tế cơ bản:  Tôn trọng chủ quyền của các quốc gia. 11
  12. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ  Tôn trọng sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ của các quốc gia khác.  Không áp dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực.  Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.  Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình, an ninh quốc tế.  Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế.  Tôn trọng những quy phạm Jus Cogens và những cam kết quốc tế.  Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình. Ngoài các quyền và nghĩa vụ trên đây, các quốc gia khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ của mình trong những lĩnh vực và phạm vi nhất định, không trái với các quy ước quốc tế. VD: Thụy Sỹ tự hạn chế quyền và nghĩa vụ của mình khi tuyên bố theo đuổi con đường trung lập. Cũng có trường hợp quốc gia có thể gánh vác thêm những quyền và nghĩa vụ bổ sung nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế 2.1.2. Dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết 2.1.2.1. Khái niệm Từ “ dân tộc” ở đây được hiểu là bộ phận dân tộc đại diện cho một quốc gia chứ không phải dân tộc là chủng tộc hay một sắc tộc đơn lẻ. Dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết là dân tộc mới có chủ quyền dân tộc chứ chưa có chủ quyền quốc gia. Khi tham gia quan hệ quốc tế và thực hiện các chức năng chính trị của mình, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết được luật quốc tế hiện đại thừa nhận là những chủ thể đang trong giai đoạn quá độ để tiến lên thành lập một quốc gia dân tộc độc lập, có chủ quyền. Nói cách khác, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập là chủ thể quá độ lên chủ thể cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Tuy nhiên, với tính chất chủ thể như vậy, nên các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các quốc gia đều 12
  13. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ là những chủ thể chủ yếu của luật quốc tế hiện đại và là những chủ thể bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Các điều kiện để dân tộc được coi là chủ thể của Luật Quốc tế: Dân tộc đó phải đang bị quốc gia, dân tộc khác áp bức, bóc lột. Nghĩa là trên thực tế dân tộc đó đang bị một dân tộc hay quốc gia khác đô hộ, chi phối, áp đặt mọi mặt về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… của dân tộc mình. Đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc này hoàn toàn bị lệ thuộc vào dân tộc, quốc gia đang nắm quyền cai trị, bóc lột họ. Dân tộc bị bóc lột không có quyền và không thể thực hiện được ý chí của mình một cách độc lập với các dân tộc hay quốc gia đô hộ mình. Ví dụ: dân tộc Việt Nam bị cai trị bởi quốc gia Pháp. Trên thực tế đang tồn tại một cuộc đấu tranh với mục đích giải phóng dân tộc, giành quyền tự quyết và thành lập một quốc gia độc lập Đã thành lập được cơ quan lãnh đạo phong trào, đại diện cho dân tộc đó trên trường quốc tế. Nghĩa là cuộc đấu tranh của dân tộc phải có tổ chức chặt chẽ, thống nhất thể hiện thông qua một cơ quan đại diện cho quyền lợi, ý chí của dân tộc đó trong các quan hệ quốc tế, độc lập với quốc gia, dân tộc đang đô hộ họ. cơ quan lãnh đạo phong trào sẽ vạch ra đường lối, chủ trương kháng chiến giải phóng dân tộc, thành lập một quốc gia độc lập trong tương lai 2.1.2.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết Đặc trưng quyền năng chủ thể luật quốc tế của các dân tộc đang đấu tranh có những điểm riêng biệt so với các chủ thể khác của Luật Quốc tế. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết phát sinh từ chủ quyền dân tộc, được dân tộc đó thực hiện và bảo vệ. Xuất phát từ chủ quyền dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết, các dân tộc đang đấu tranh nhằm thành lập một quốc gia dân tộc độc lập có những quyền dân tộc cơ bản sau: 13
  14. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ  Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ dạng nào, kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị mình;  Được pháp luật quốc tế bảo vệ và bảo đảm trong phạm vi và mức độ nhất định như việc Luật Quốc tế đang bảo vệ và bảo đảm cho quyền năng chủ thể như những quốc gia độc lập khác. Được các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, các tổ chức quốc tế...giúp đỡ;  Quyền được thiết lập những quan hệ với các chủ thể khác của LQT hiện đại;  Được tham gia vào hoạt động của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế liên chính phủ;  Được tham gia vào quá trình xây dựng các quy phạm luật quốc tế và độc lập trong quá trình thực thi luật quốc tế.  Cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại, đi đôi với các quyền quốc tế cơ bản, các dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết cũng có những nghĩa vụ quốc tế cơ bản. Đó là nghĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của các dân tộc khác, của các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại 2.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ 2.1.3.1. Khái niệm Trong thời đại ngày nay, tổ chức quốc tế giữ vai trò rất quan trọng trong việc hợp tác quốc tế, giải quyết các vấn đề quốc tế quan trọng, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tổ chức quốc tế là chủ thể của luật quốc tế được hiểu là tổ chức quốc tế liên chính phủ- là tổ chức do các quốc gia thành lập lên trên cơ sở một điều ước quốc tế nhằm thực hiện các quyền năng nhất định theo tôn chỉ, mục đích thành lập tổ chức đó, phù hợp với pháp luật quốc tế hiện đại. 14
  15. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ Như vậy, khác với quốc gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ thể luật quốc tế không phải căn cứ vào thuộc tính tự nhiên vốn có là chủ quyền, mà do sự thỏa thuận của các quốc gia thành viên. Phạm vi quyền năng chủ thể của các tổ chức quốc tế liên quốc gia được xác định cụ thể trong điều lệ của chính tổ chức đó. Do đó, số lượng các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức quốc tế khác nhau sẽ khác nhau Điểm khác biệt này thể hiện ở chỗ: Quốc gia có thể tham gia ký kết bất kỳ điều ước quốc tế nào xuất phát từ lợi ích của chính mình. Còn tổ chức quốc tế không tự xác định được phạm vi quyền và nghĩa vụ cho mình khi tham gia quan hệ pháp lý quốc tế, mà tham gia trong phạm vi được các thành viên trao quyền. Do đó, tổ chức quốc tế là chủ thể phái sinh, chủ thể có quyền năng hạn chế (không đầy đủ) của luật quốc tế. Ví dụ: WTO không được tham gia ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề an ninh, quốc phòng...theo thỏa thuận của các thành viên, WTO chỉ tham gia các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực thương mại hành hoá, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ... 2.1.3.2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có được quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không phải căn cứ vào “những thuộc tính tự nhiên” vốn có như quốc gia mà do thỏa thuận của những quốc gia thành viên trao cho. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất hiện vào khoảng giữa thế kỉ XIX nhưng vấn đề quyền năng chủ thể luật quốc tế của thực thể này chỉ được đặt ra trong lý luận và thực tiễn sinh hoạt quốc tế từ nửa đầu thế kỷ XX. Quyền năng chủ thể Luật Quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ dựa trên điều kiện (hiến chương, quy chế…) của mỗi tổ chức, trong đó quy định rõ phạm vi quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Như vậy, các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác nhau thì sẽ có những phạm vi quyền năng chủ thể Luật Quốc tế không giống 15
  16. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ nhau. Nhìn chung các tổ chức quốc tế liên chính phủ có các quyền quốc tế cơ bản sau đây:  Quyền được ký kết các Điều ước quốc tế;  Quyền được tiếp nhận cơ quan đại diện của các quốc gia thành viên và nhận các quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa là thành viên của tổ chức cử đến;  Quyền được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao;  Quyền được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau;  Quyền được yêu cầu có các kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của Liên hợp quốc;  Quyền được giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên với nhau và giữa thành viên với tổ chức quốc tế.  Hưởng các quyền theo quy định của điều ước quốc tế mà tổ chức tham gia ký kết với các quốc gia hoặc các tổ chức quốc tế khác. Ngoài các quyền cơ bản nêu trên, tổ chức quốc tế liên chính phủ có nghĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của luật quốc tế; thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một chủ thể luật quốc tế. 2.1.4. Chủ thể đặc biệt Ngoài các loại chủ thể trên thì Luật Quốc tế còn có 1 loại chủ thể đạc biệt khác, đó là các thực thể có quy chế pháp lý – chính trị đặc biệt khác (các vùng lãnh thổ) như Vatican, Đài Loan, Ma Cao, Hồng Kông. Hiện nay, có rất nhiều quan điểm cho rằng Vatican là quốc gia nhỏ nhất thế giới. Tuy nhiên, trên thực tế Vatican không phải là một quốc gia độc lập theo đúng nghĩa. Nhìn dưới góc độ các yếu tố cấu thành ta thấy: Tòa thánh Vatican có lãnh thổ xác dịnh với diện tích rất nhỏ khoảng 0,4km2 và nằm trọn trong lãnh thổ của Italia, có dân cư sinh 16
  17. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ sống khoảng 1000 người, có bộ máy điều hành, có khả năng tham gia một cách độc lập vào các quan hệ pháp luật quốc tế nhất định (Tòa thánh Vatican đã tham gia một số công ước quốc tế như: Công ước Viên 1961 về thiết lập quan hệ ngoại giao, tòa thánh còn tham gia với tư cách quan sát viên của một số tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc...). Nhìn vào hình thức bên ngoài, Tòa thánh giống như một quốc gia tồn tại độc lập, nhưng nếu xem xét sâu xa các yếu tố này, Vatican lại không phải một quốc gia, vì:  Về lãnh thổ mà Vatican đặt trụ sở thực chất thuộc về Italia, Vatican có được lãnh thổ này là do một điều ước quốc tế được ký kết giữa Italia và Vatican.  Về dân cư, thực chất những người dân sống tại Vatican đều là công dân của rất nhiều quốc gia khác nhau: Thụy Sỹ, Italia... họ chỉ được coi là dân cư của Vatican khi họ phục vụ cho Giáo hoàng. Yếu tố dân cư không mang tính ổn định, họ xuất hiện chủ phục vụ cho Giáo hoàng yếu mang tính thực hiện công vụ với Vatican.  Về Chính phủ: Giáo hoàng của Vatican không phải là một thiết chế quyền lực và Vatican không có các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước. Do đó, khi cần để duy trì quyền lực nhà nước hay trật tự, Vatican cần phải có sự trợ giúp của Italia. Chính Phủ này không giống Chính phủ khác trên thế giới. Từ những phân tích trên đây có thể thấy, Vatican chỉ là một thiết chế mang tính tôn giáo. Sở dĩ nó đựợc cho là chủ thể của Luật Quốc tế vì trong các giai đoạn lịch sử phát triển của Luật Quốc tế, Vatican đóng vai trò quan trọng khi trở thành trung gian hòa giải một số tranh chấp, bất hoà trong quan hệ quốc tế. Do đó, họ được phép tham gia vào một số điều ước quốc tế nhất định 2.2. Quan điểm hiện đại Theo quan điểm hiện đại, chủ thể của luật quốc tế ngoài 4 loại trên còn có thêm 3 loại nữa là cá nhân, pháp nhân (các công ty xuyên quốc gia), tổ chức phi chính phủ 17
  18. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ 2.2.1. Cá nhân Trong suốt lịch sử phát triển của mình, luật quốc tế, trong một thời gian dài, đã phủ nhận cá nhân con người và chỉ quan tâm đến những vấn đề có liên quan đến quốc gia. Từ đầu thế kỷ XX, đặc biệt là sau Đại chiến thế giới thứ hai tình thế đã thay đổi, Luật quốc tế hiện đại gắn chặt với vấn đề nhân quyền. Hiến chương Liên hợp quốc xác định một trong những mục đích chính của mình là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Nhiều điều ước, quốc tế về quyền con người đã được ký kết. Thế nhưng điều đó có đồng nghĩa với tính chủ thể pháp lý quốc tế của cá nhân con người hay không? Cá nhân là chủ thể của Luật quốc tế là một vấn đề đang được tranh cãi chưa ngã ngũ. Nhà luật học quốc tế người Anh A.Brownlee có những quan điểm trái ngược nhau về vấn đề này. Một mặt ông cho rằng theo điều luật chung cá nhân không thể là chủ thể của luật quốc tế được, nhưng trong một số lĩnh vực nhất định cá nhân được xem xét như chủ thể của luật quốc tế; mặt khác theo ý kiến của Brownlee thì “thật là vô ích nếu như xếp cá nhân vào “hàng ngũ” những chủ thể của luật quốc tế, bởi vì làm như vậy là vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên thực tế không có, phủ nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể khác trong luật quốc tế”. L.Oppenhame từ năm 1947 đã để ý rằng: “Mặc dù chủ thể chính của luật quốc tế là quốc gia nhưng nhà nước có thể xem cá nhân như một chủ thể của các quyền và nghĩa vụ quốc tế và trong khuôn khổ đó công nhận cá nhân là một chủ thể của luật quốc tế”. Tiếp đó ông đã làm rõ ý kiến của mình bằng ví dụ: Những cá nhân làm nghề cướp biển trước hết chịu trách nhiệm pháp lý theo những qui tắc của luật quốc tế, chứ không phải nội luật của nhiều quốc gia khác nhau. Quan điểm mới cho rằng cá nhân có thể là chủ thể của Luật Quốc tế vì các nguyên nhân sau: 18
  19. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ 2.2.1.1. Trách nhiệm pháp lý Điều lệ của Toà án binh quốc tế 1945 khẳng định cá nhân là chủ thể của trách nhiệm pháp lý quốc tế. Theo Điều 6 thì kẻ lãnh đạo, chủ mưu, tòng phạm, tham gia vào việc soạn thảo hay trực tiếp thực hiện kế hoạch, âm mưu chống hoà bình, chống loại người, tội phạm chiến tranh phải chịu trách nhiệm về những hành động đó. Các công chức cao cấp thậm chí là người đứng đầu các nhà nước cũng không thể được miễn truy tố trách nhiệm pháp lý hay được giảm nhẹ mức độ hình phạt (Điều 8). Kẻ bị xét xử nếu hành động theo lệnh của cấp trên hay của Chính phủ cũng không được miễn trách nhiệm pháp lý. Theo Công ước quốc tế 1968 về việc không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, trong trường hợp các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người, không phụ thuộc vào việc các tội phạm đó diễn ra vào thời bình hay thời chiến, không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm. Theo Công ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948, những cá nhân gây nên nạn diệt chủng, đồng phạm diệt chủng, âm mưu, kích động và những ý định thực hiện việc diệt chủng sẽ bị trừng phạt mà không phụ thuộc vào việc kẻ đó là lãnh đạo một quốc gia hay tư nhân. Tội phạm diệt chủng bị xử bởi toà án quốc gia bị diệt chủng hoặc Toà án hình sự quốc tế. Toà do các nước thành viên tham gia Công ước hoặc Liên hợp quốc lập ra. 2.2.1.2. Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên toà án quốc tế Theo Điều 25 của Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người 1950 bất kỳ cá nhân nào đều có quyền gửi đơn thỉnh cầu đến Hội đồng Châu Âu về quyền con người. Đơn cần phải đưa ra những dẫn chứng cụ thể, thuyết phục về việc vi phạm nhân quyền đối với người làm đơn do Nhà nước tham gia Công ước gây ra. Đơn được lưu trữ tại Ban thư ký của Hội đồng Châu Âu và được xem xét chỉ sau khi mọi biện pháp, phương 19
  20. Tiểu luận: Đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của luật quốc tế còn có cá nhân, pháp nhân và các tổ chức phi chính phủ tiện pháp lý đã được áp dụng trong nước theo khuôn khổ của luật quốc tế nhưng không có tác dụng, trong thời hạn sáu tháng kể từ khi các cơ quan pháp lý trong nước có quyết định cuối cùng về vụ việc này. Theo Điều 190 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án quốc tế về biển. Quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các toà án quốc tế cũng được công nhận ở nhiều tài liệu khác của luật quốc tế. 2.2.1.3. Vị thế pháp lý (status) của một số nhóm cá nhân trong luật quốc tế Theo Công ước về vị thế của người tị nạn 1951, vị thế pháp lý của người dân bị nạn được xác định bởi pháp luật của nước mà họ đang sống. Công ước quy định cho người tị nạn có những quyền như quyền lao động theo hợp đồng, quyền lựa chọn nghề nghiệp, quyền tự do di chuyển… Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của các kiều dân và thành viên trong gia đình họ 1990 tuyên bố: Mỗi kiều dân lao động và thành viên trong gia đình có quyền được công nhận là chủ thể pháp lý, trước hết là những chủ thể pháp lý quốc tế. Theo Điều 35 của Công ước thì Nhà nước không được cản trở sự di dân quốc tế của nhân dân lao động và các thành viên trong gia đình họ. Luật quốc tế cũng được xác định vị thế pháp lý quốc tế của người phụ nữ có chồng, của trẻ em và nhiều nhóm cá nhân khác. Qua những chứng cứ và ví dụ trên đây chúng ta có thể tạm cho rằng Nhà nước trong một số lĩnh vực (mặc dù không nhiều lắm) đã tạo cho cá nhân một số đặc thù của tính chủ thể pháp lý quốc tế. Phạm vi của tính chủ thể pháp lý đó ngày càng được mở rộng hơn bởi vì mỗi thời đại lịch sử lại sản sinh ra những chủ thể mới của luật quốc tế. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2