intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận môn Thị trường lao động: Phân tích tình hình cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Ngoc Tuấn | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:40

822
lượt xem
73
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm nhận diện và phân tích những cơ hội cũng thách thức về vấn đề nhân lực và nguồn lao động tại thành phố trong những năm tiếp theo. Từ đó có thể hiểu và nắm được quy luật cung - cầu lao động và những cơ hội thách thức về vấn đề lao động tại thành phố, biết được sự tham gia và hoạt động của các đơn vị liên quan góp phần vào việc giải quyết vấn đề nóng bỏng này tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận môn Thị trường lao động: Phân tích tình hình cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

  1. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN BOÄ LAO ÑOÄNG THÖÔNG BINH & XAÕ HOÄI TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC LAO ÑOÄNG ­ XAÕ HOÄI ( CƠ SỞ II) KHOA QUAÛN LÍ LAO ĐỘNG ­­­­­­­ TIỂU LUẬN  MÔN  THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG    PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH CUNG CẦU LAO ĐỘNG   TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY GVBM : NGUYỄN NGỌC TUẤN NHÓM SINH VIÊN : LỚP :  NIÊN KHÓA :  SVTH:  1   
  2. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN                                      TPHCM, Tháng 06 năm 2010 LỜI MỞ ĐẦU  Thế   giới  ngày càng phát  triển   tăng tiến  về   mọi  mặt.  Gồm  sự   tăng  trưởng kinh tế và cùng với nó là sự hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh   tế, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Bước sang thế kỷ XXI,  nền kinh tế  thế  giới đều vận động theo chiều hướng toàn cầu hóa và hội   nhập. Hội nhập kinh tế trên quy mô khu vực và toàn cầu là xu thế  tất yếu   của kinh tế  mỗi nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu   này. Cùng với quy luật phát triển của thế  giới Việt Nam gia nhập tổ chức   thương mại thế giới WTO đã đánh dấu bước đầu phát triển kinh tế nước ta   trong thời hội nhập. Đây là một cơ hội lớn và cũng là thách thức lớn đối với   nước ta hiện nay. Một trong những cơ hội lớn đó là giúp tạo thêm nhiều cơ  hội việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống, việc làm cho người lao động   và người lao động có điều kiện làm việc ở những lĩnh vực mới, các khu vực  mới, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư  nước ngoài; khu vực dịch vụ; khu  vực doanh nghiệp vừa và nhỏ… Vì các khu vực này có xu hướng ngày càng   gia tăng về  nhu cầu sử dụng lao động, cả  về  số  lượng lẫn chất lượng, có   tác động trực tiếp đến vấn đề  đào tạo và tuyển dụng lao động.  Tuy nhiên,  cạnh tranh cũng sẽ  quyết liệt hơn và việc sử  dụng lao động đang đòi hỏi   phải thực hiện đầy đủ  các tiêu chuẩn lao động quốc tế  đặt ra, là yêu cầu  phải nâng cao chất lượng nguồn lao động để  đáp ứng nhu cầu của các nhà   đầu tư cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cùng với tình hình đó, thành phố Hồ Chí Minh – một trong những trung  tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam cũng chịu tác động  không nhỏ. Thị  trường lao động thành phố Hồ Chí Minh hiện nay phát triển   theo các qui luật mới của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hội nhập   khu vực và quốc tế với tư  cách một hệ  thống động và mở: cung và cầu lao  động biến động rất cao, số lao động không ổn định việc làm, mất việc làm,   tái bố trí lại việc làm hàng năm cũng rất lớn. Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay đối với thành phố Hồ Chí   Minh nói riêng và đất nước ta nói chung là phải phân tích tận dụng cơ hội   để  phát triển thị  trường lao động và nghiên cứu, đề  ra những giải pháp để  vượt qua những khó khăn, thách thức trong vấn đề thị trường lao động, tiến   tới cân bằng cung cầu lao động. Từ  đó, tạo điều kiện cho chúng ta phát về  mọi mặt, đặc biệt là giúp  chúng ta phát triển đạt đến một nền kinh tế  hiện đại làm cho đại bộ  phận   SVTH:  2   
  3. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN cuộc sống của người dân trong xã hội trở nên tươi đẹp hơn vì mục tiêu dân  giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bài tiểu luận này nhóm chúng   em đã tham khảo nhiều nguồn tài liệu về vấn đề cung cầu lao động và được  sự  giúp đỡ  tận tình từ  thầy Nguyễn Ngọc Tuấn trường ĐH Lao Động Xã   Hội (cơ  sở II). Vì vậy, trước khi vào nội dung bài viết em xin gửi lời cảm   ơn tới thầy đã tạo điều kiện giúp chúng em hoàn thành đề tài này. Nhóm thực hiện. SVTH:  3   
  4. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN PHẦN: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết sự phát triển về kinh tế và sự ổn định về chính trị  ­ xã hội không chỉ là cơ sở mà còn là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của   một đất nước. Nó là nền tảng vững chắc của một đất nước phát triển. Vì   thế  phát triển về  kinh tế  ­ xã hội có nội dung và ý nghĩa khá toàn diện, là  mục tiêu và ước vọng của các dân tộc trên thế gới nói chung và của dân tộc   ta nói riêng. Phát triển kinh tế  ­ xã hội bao hàm trong nó mối quan hệ biện   chứng giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế  ­   xã hội là điều kiện tuyên quyết và cơ bản để nâng cao đời sống nhân dân và  đảm bảo công bằng xã hội thông qua việc ổn định việc làm và nâng cao thu   nhập cho người lao động. Nó không chỉ là mục tiêu phấn đấu của nhân loại   mà còn là động lực của sự phát triển đất nước. Vì vậy, toàn Đảng toàn dân  ta phải tích cực và chủ  động thống nhất đưa ra các biện pháp có tích chất  quyết định đối với sự phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước một cách toàn   diện và bền vững lâu dài. Nhằm đưa đất nước ta phát triển một cách vượt   bậc trên mọi phương diện: kinh tế ­ văn hóa – xã hội – ngoại giao… Nhưng   trước hết, chúng ta cần phải xác định được những cơ hội và thách thức hiện  tại mà nước ta đang có và phải đối mặt vượt qua. Việc gia nhập vào tồ chức   thương mại thế giới đã đem lại nhiều cơ hội: tăng cơ hội việc làm và nâng  cao thu nhập cho người lao động, xuất hiện thêm nhiều ngành nghề  mới ở  những khu vực – lĩnh vực mới, các khu công nghiệp (KCN), khu chế  xuất   (KCX) được mọc lên... thì kèm theo đó cũng có không ít những khó khăn, thử  thách được đặt ra cho chung ta như:  Sản phẩm sản xuất ra với chất lượng vẫn còn thấp nên gặp   nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ, đặc biệt là trong hoạt động xuất khẩu ra  nước ngoài hoặc nếu có xuất khẩu được thì cũng với giá rẻ hơn những sản   phẩm cùng loại của các quốc gia khác. Đó là do trình độ tay nghề và kỹ năng   làm việc của công nhân nước ta còn thấp.  Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân còn thấp gây khó   khăn trong việc áp dụng những công nghệ  mới, khoa học – kỹ  thuật hiện   đại vào quy trình sản xuất. SVTH:  4   
  5. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN  Việc   đầu  tư   cho   công   nghệ   mới,   máy   móc,   thiết   bị   và   dây  chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại vẫn còn rất hạn chế vì các doanh nghiệp   ít kinh phí.  Cơ  chế  pháp lý và hệ  thống hành chính, Luật Pháp Việt Nam   vẫn còn nhiều bất cập gây khó khăn trong việc thu hút và tạo điều kiện   thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài.  Sự  di chuyển lao động giữa các vùng miền và ra nước ngoài  thông qua hoạt động xuất khẩu lao đông gây khó khăn trong việc quản lý và  điều tiết lao động. Chính vì nước ta đang trong thời kỳ hội nhập, cộng với tiến trình phát  triển tất yếu của đất nước, đang tiến lên công nghiệp hóa – hiện đại hóa   đất nước một cách toàn diện và phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở  thành   một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Điều này sẽ kích sự di chuyển   lao động giữa các vùng miền, địa phương, các cơ  sở  sản xuất, các doanh   nghiệp thậm chí là giữa các khu vực. Đó chính là một trong những lý do gây   ra việc cung – cầu lao động giữa những vùng miền, khu vực mất cân bằng.   Đây là  một vấn đề nóng bỏng và thực sự cần thiết phải có những giải pháp  hiệu quả  và thiết thực để  giải quyết. Và thực trạng  ấy cũng chính là thực   trạng mà thành phố  Hồ  Chi Minh hiện đang mắc phải. Do đó, việc nắm  vững và điều tiết thị trường cung – cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh   trong thời gian tới một cách hiệu quả là hết sức khó khăn. Vì vậy, cần thiết   phải có sự  phối hợp hoạt động và giải quyết của những cơ  quan, đơn vị  chuyên trách và những bộ phận có liên quan. Tuy nhiên, việc phân tích thực   trạng và đưa ra các giải pháp khắc phục tình trạng này ở thành phố  Hồ Chí   Minh trong thời gian qua dường như chưa đủ  mạnh, chưa hiệu quả và chưa  thiết thực với thực tế. Đây chính là lý do mà nhóm chúng em quyết định   chọn đề tài sau đây để phân tích và đưa ra giải pháp chiến lược cho vấn đề  cung cầu lao động thành phố Hồ Chí Minh: “Phân tích cung cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh” 2. Mục tiêu nghiên cứu Trong bối cảnh kinh tế  thị  trường hiện nay thì vấn đề  cung cầu lao  động đang là một vấn đề  bức xúc cấp thiết cần phải có những biện pháp   giải quyết một cách triệt để.  Ở  đây, bên cạnh việc tìm lời giải đáp những   vướng mắc của nhóm về  thực trạng cung ­ cầu lao động tại thành phố  Hồ  Chí Minh hiện nay. Chúng em cũng đề  ra một số  yêu cầu và mục đích khi   nghiên cứu đề  tài. Nhằm nhận diện và phân tích những cơ  hội cũng thách  thức về vấn đề nhân lực và nguồn lao động tại thành phố trong những năm   tiếp theo. Từ  đó có thể  hiểu và nắm được quy luật cung ­ cầu lao động và   những cơ  hội thách thức về  vấn đề  lao động tại thành phố, biết được sự  tham gia và hoạt động của các đơn vị liên quan góp phần vào việc giải quyết   vấn đề nóng bỏng này tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Mặt khác, cũng  SVTH:  5   
  6. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN giúp chúng em trang bị   được thêm những kiến thức cần thiết cho ngành  nghề  quản trị  nhân lực của chúng em trong tương lai. Ngoài ra, chúng em   mong muốn rằng cuốn tiểu luận này sẽ có thể là nguồn tài liệu có ích giúp  cho các nhà nghiên cứu thị trường, các nhà hoạch định chiến lược có thể đưa  ra các biện pháp giải quyết hiệu quả để  giải quyết triệt để  vấn đề  cung –   cầu lao động tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tiếp theo. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ­ Đối tượng nghiên cứu: tình hình cung cầu lao động tại thành phố  Hồ Chí  Minh + Các doanh nghiệp sản xuất cũng như các KCX, KCN đang hoạt động   trên đại bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. + Các cơ sở, trung tâm việc làm ­ dạy nghề và công ty tư vấn trong khu  vực thành phố. ­ Phạm vi nghiên cứu: toàn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2010. 4. Số liệu ́ ̣ ư s Sô liêu t ̀ ở Lao Động Thương Binh­ Xã Hội thành phố Hồ Chí Minh ̣ ương lao đông, giao trinh quan tri nhân l Giao trinh thi tr ́ ̀ ̀ ̣ ́ ̀ ̉ ̣ ực, giao trinh ́ ̀   ̉ ̣ ̣ quan tri doanh nghiêp, giáo trình th ị trường lao động. ̣ ̉ ̉ Báo thanh niên, tap chi Tuôi tre… ́ Các trang Web như: http://nhantainhanluc.com http://www.ubvk.hochiminhcity.gov.vn http://vieclamthainguyen.vn http://www.giaoduc.edu.vn http://vietbao.vn/Viec­lam http://hieuhoc.com.; thanh phô hô chi minh; s ̀ ́ ̀ ́ ở  công nghiêp thành ph ̣ ố  Hồ Chí Minh; doanh nhân; hôi ch ̣ ợ viêc lam; chinh phu; v.v… ̣ ̀ ́ ̉ 5. Phương pháp nghiên cứu Căn cư vao giao trinh đa tim hiêu; ́ ̀ ́ ̀ ̃ ̀ ̉ Căn cư vao viêc tim kiêm va thu thâp thông tin t ́ ̀ ̣ ̀ ́ ̀ ̣ ừ cac website, bao chi ́ ́ ́ Dựa vao s ̀ ự hô tr ̃ ợ cua cac chuyên gia, cac đ ̉ ́ ́ ơn vi c ̣ ơ quan trong xa hôi ̃ ̣ Được thực hiên d ̣ ựa trên cơ  sở  sử  dung ph ̣ ương phap thu thâp sô liêu, ́ ̣ ́ ̣   ̉ thông kê, tông h ́ ợp va phân tich sô liêu va đ ̀ ́ ́ ̣ ̀ ưa ra nhân đinh. ̣ ̣ 6. Kết cấu SVTH:  6   
  7. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ  CUNG CẦU LAO  ĐỘNG TẠI  THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHẦN: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN I. Một số khái niệm 1. Thị trường lao động Trong   hệ   thống   các   thị   trường   (thị   trường   hàng  hóa,   thị   trường   lao  động, thị  trường vốn, thị  trường đất đai…) thì thị  trường lao động là thị  trường quan trọng bậc nhất. Bởi vì, lao động là nhu cầu của con người. Lao   động là nguồn gốc tạo ra phần lớn của cải vật chất trong xã hội. Lao động   là nhân tố  quyết định sự  hoạt động và phát triển của tất cả  các loại thị  trường.  Theo Adam Smith “ Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng  hóa sức lao động ( hoặc dịch vụ lao động ) giữa một bên sử  dụng lao động  và một bên là người lao động ”. Theo tiến sỹ  Leo Maglen “ Thị  trường lao động là một hệ  thống trao   đổi giữa những người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao   động) với những người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động   để sử  dụng ( cầu lao động )” Theo tổ  chức lao động quốc tế  ( ILO ) “ Thị  trường lao động là thị  trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình  SVTH:  7   
  8. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN thỏa thuận để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ  tiền cộng” Từ  đó có thể  nêu lên một định nghĩa khái quát về  thị  trường lao động   như  sau: “ Thị  trường lao động là nơi ngưới có nhu cầu tìm việc làm và   người có nhu cầu sử dụng lao động trao đổi với nhau, mua bán dịch vụ  lao  động thông qua các hình thức giá cả  ( tiền công, tiền lương ) và các điều  kiện thỏa thuận khác ( thời gian làm việc, điều kiện lao động, bảo hiểm xã   hội…) trên cơ sở một hợp đồng lao động bằng văn bản  hoặc bằng miệng,   hoặc thông qua các dạng hợp đồng hay thỏa thuận khác. Như  vậy mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng các định   nghĩa nêu trên đều thống nhất với nhau nhũng nội dung cơ bản về thị trường  lao động là thị trường mà trong đó: ­ Có người cần bán sức lao động, cung cấp dịch vụ lao động (người lao  động). ­ Có người cần mua sức lao động ( người sử dụng lao động) ­   Có   các   quan   hệ   cung   cầu   lao   động,   giá   cả   sức   lao   động   (tiền công, tiền lương), các quan hệ  thỏa thuận khác (thời gian làm việc,  điều kiện lao động, môi trường lao động, bảo hiểm xã hội…) ( giáo trình thị  trường lao động, 2008, tr 11­ 14) 2. Cung lao động Cung lao động là số lượng lao động đang tham gia và sẵn sàng tham gia   vào thị  trường lao động  ở  những thời điểm nhất định (thời điểm xem xét).  Cung lao động phụ thuộc vào tốc độ tăng nguồn lao động, sự biến động về  cầu lao động, trình độ  đào tạo hướng nghiệp – dạy nghề  và tiền lương   (tiền công) trên thị trường lao động. (giáo trình thị  trường lao động, 2008, tr  53) Có thể  hiểu rõ hơn cung về  lao động là tổng nguồn sức lao động do   người lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội.  Tức là tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao động và cả  số nhân lực không nằm trong độ tuổi lao động, nhưng đã chính thức tham gia   vào quá trình tái sản xuất xã hội. Xét về mặt số lượng, khi nói đến cung trên   thị  trường lao động, người ta thường phân biệt rõ thành hai phạm trù: cung   thực tế  và cung tiềm năng. Cung tiềm năng về  lao động bao gồm những   người đủ  15 tuổi trở  lên đang làm việc, những người thất nghiệp, những   người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang  làm công việc nội trợ hoặc không có nhu cầu làm việc. Cung thực tế về lao   động bao gồm tất cả  những người  đủ  15 tuổi trở  lên đang làm việc và  những người thất nghiệp, hoặc thiếu việc làm. Bên cạnh đó, cung về lao động còn được xem xét từ giác độ chất lượng  lao động, tức là các phẩm chất cá nhân của người lao động. Trong đó, trình  SVTH:  8   
  9. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN độ học vấn, trình độ đào tạo, các kỹ năng chuyên môn, kỷ luật lao động…là   những yếu tố chính, quyết định chất lượng của loại hàng hóa đặc biệt này. Từ  đó có thể  thấy rằng các nhân tố  chủ  yếu  ảnh hưởng đến cung lao  động là: quy mô và tốc độ tăng dân số; quy định pháp lý về độ tuổi lao động;   tỷ  trọng cư  dân trong độ  tuổi lao động và tỷ  lệ  tham gia vào lực lượng lao   động; tỷ  lệ  tham gia của lực lượng lao động vào thị  trường lao động; tình  trạng tự nhiên của người lao động; các phẩm chất cá nhân về học vấn, trình   độ tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động, và một số  các chỉ số khác. 3. Cầu lao động Cầu về lao động là số lượng lao động được thuê mướn trên thị  trường  lao động. Hay nói cách khác, cầu lao động là toàn bộ  cầu về  sức lao động  của một nền kinh tế (hoặc của một ngành, địa phương, doanh nghiệp…)  ở  một thời kỳ  nhất đinh, bao gồm cả  mặt số  lượng, chất lượng, cơ  cấu và  thường được xác định thông qua chỉ  tiêu việc làm. (giáo trình thị  trường lao   động, 2008, tr 76) Nhu cầu về  cầu lao động thể  hiện qua khả  năng thuê mướn lao động   trên thị trường lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất   lao động không biến đổi, cầu về lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và   tốc độ  sản xuất. Nếu quy mô sản xuất không đổi, cầu về  lao động tỷ  lệ  nghịch với năng xuất lao động. Còn xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao   năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri thức…của doanh nghiệp   càng ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng lao động. Trong đó, các   chỉ số quan trọng nhất thể hiện chất lượng lao động là: trình độ  tinh thông  nghề nghiệp, mức độ phù hợp của nghề nghiệp được đào tạo với công việc  được giao, kỷ luật lao động… Theo báo cáo của Bộ Lao đông Thương Binh Xã Hội, ở Việt Nam, hiện   việc tính cầu tiềm năng về  lao động, tức là việc tính toán nhu cầu về  lao   động cho tổng số chỗ làm việc có thể có được, sau khi đã tính đến các yếu  tố  có khả  năng tạo việc làm trong tương lai như  vốn, đất đai, tư  liệu sản   xuất, công nghệ, và cả  những điều kiện khác như  chính trị  xã hội…chưa   được thực hiện. Các chỉ số quan trọng để  tính thực tế cầu về lao động, tức là nhu cầu  thực tế về lao động cần sử dụng tại một thời điểm nhất định, thể hiện qua   số lượng chỗ làm việc mới, chỗ làm việc bỏ trống, hầu như chưa được thu  thập, hoặc có nhưng không đầy đủ, không hệ  thống. Như  vậy cầu thực tế  về  lao động  ở  nước ta cho đến nay mới chỉ  được xem xét giới hạn trong   tổng số chỗ làm việc mới được tạo ra hàng năm. Theo số liệu thống kê của   Bộ LĐ­TB­XH, số lượng chỗ làm việc mới có xu hướng gia tăng trong suốt  thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2000. Nếu trong giai đoạn 1991­1995, số chỗ  làm việc tăng thêm bình quân hàng năm khoảng 863 ngàn chỗ  thì đến giai   SVTH:  9   
  10. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN đoạn 1996­2000, bình quân mỗi năm đã có khoảng 1,2 triệu chỗ  làm việc   mới được tạo ra. So với số lượng người bước vào độ tuổi lao động tăng lên  hàng năm (trên 1,1 triệu người), thì số  chỗ  làm mới cho những người này.  Tuy nhiên, trên thực tế, do những méo mó của thị  trường lao  động này,  những người mới tham gia vào lược lượng lao động lại là nhóm người bị  thất nghiệp hoặc thiếu việc làm nhiều nhất. 4. Quan hệ cung cầu lao động Việc nghiên cứu thị trường lao động bắt đầu và kêt thúc bằng sự phân   tích cung cầu lao động và mối quan hệ giữa chúng. Những kết quả của hoạt   động thị  trường lao động liên quan chặt chẽ  đến điều kiện lao động (suất  lương, tổng mức lương, điều kiện làm việc) và mức độ  làm việc. Bất cứ  kết quả  hoạt động nào của thị  trường lao động cũng là kết quả  hoạt động,  tương tác của hai lực lượng cung và cầu lao động. (giáo trình thị trường lao   động, 2008, tr 141) Cung cầu lao động có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn  tại. Sự tác động lẫn nhau của hai chủ thề này quyết định tính cạnh tranh của   thị trường: khi bên cung sức lao động lớn hơn nhu cầu về loại hàng hoa này,  thì bên mua  ở vào địa vị  có lợi hơn trên thị  trường lao động (thị  trường của   bên mua). Ngược lại, nếu cầu về sức lao động trên thị trường lớn hơn cung   thì người bán sẽ có lợi hơn, có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn công việc, giá  cả  sức lao động vì thế  có thể  được nâng cao (thị  trường của bên bán). Bên  cạnh đó, cũng như bất kỳ mọi dạng thị trường khác, thị trường lao động còn   chịu tác động của nhiều yếu tố  khác, trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới  động thái phát triển của thị trường này. II. Các vấn đề mang tính lý luận liên quan đến cung và cầu lao động 1. Kinh tế ­ xã hội Gia nhập WTO, Việt Nam đã và đang có những điều kiện thuận lợi   chuẩn bị  cho hội nhập kinh tế quốc tế. Riêng trong lĩnh vực lao động, lực   lượng lao động Việt Nam có nhiều ưu thế: lực lượng lao động dồi dào, trẻ,  có trình độ văn hoá khá, đặc biệt khả năng tiếp thu của lao động Việt Nam   được các nước trên thế giới đánh giá là nhanh nhạy. Đặc biệt giá nhân công   của Việt Nam lại rẻ, đây cũng là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam. Thị  trường lao động Việt Nam và các hoạt động dịch vụ liên quan đã có hơn 10  mười năm phát triển và đang từng bước hoàn thiện. Hệ thống pháp luật lao   động Việt Nam được xây dựng về  cơ bản là tương đối đầy đủ  và phù hợp   với điều kiện nền kinh tế thị trường, đảm bảo được cơ  bản các tiêu chuẩn  lao động quốc tế. Các chính sách về  an sinh xã hội đã được Việt Nam chú   tâm phát triển trong những năm gần đây. Với những điều kiện hiện có như  vậy, khi Việt Nam gia nhập WTO có nhiều thuận lợi. Đầu tư  nước ngoài   tăng, tạo thêm nhiều việc làm mới cùng với nó là hiện tượng dịch chuyển   lao động khiến cơ cấu lao động trở nên năng động hơn. Có thể  khẳng định  SVTH:  10   
  11. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN chắc chắn rằng Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều c ơ hội v ề vi ệc   làm và thu nhập cho người lao động. Người lao động cũng có nhiều cơ  hội   hơn để  tiếp cận trực tiếp với nền sản xuất hiện đại, nâng cao trình độ, kỹ  năng, tác phong lao động, kinh nghiệm quản lý. Bên cạnh đó, hội nhập kinh   tế  quốc tế, gia nhập WTO cũng mang lại cho Việt Nam những thách thức  về lao động, việc làm. Gia nhập WTO, nguy cơ đầu tiên mà người lao động  Việt Nam phải đối đầu là sẽ  có nhiều người mất việc làm. Đó có thể  là  những   lao  động   giản   đơn,   trình   độ   thấp   hoặc   lao  động   trong   các   doanh  nghiệp sắp xếp lại tổ  chức, thu hẹp sản xuất hoặc do c ải cách về  công   nghệ  hoặc do bị  phá sản, giải thể  do không thể  cạnh tranh với các doanh   nghiệp nước ngoài…  2. Pháp luật Nhà nước Trong gần một thập kỷ qua, những chủ trương, đường lối chỉ đạo của  Đảng đã lần lượt được thể chế hóa và đưa vào thực hiện. Trong số các văn   bản pháp lý   quan trọng   điều chỉnh  việc  hình  thành và  vận  hành  của  thị  trường lao động  ở  nước ta, quan trọng nhất phải kể  đến là Bộ  Luật Lao   động ( năm 1994), các Luật, Pháp lệnh, Nghị  định, Thông Tư  liên bộ  liên   quan đến lao động, việc làm. Chỉ tính riêng từ  ngày 1/1/1995 đến nay, cùng   với sự ra đời của Bộ Luật Lao động, đã có hàng trăm văn bản pháp quy liên   quan đến thị  trường lao động được ban hành, về  căn bản đã tạo ra khung  khổ pháp lý cho thị trường lao động ở Việt Nam. Bộ  luật Lao động của nước CHXHCN Việt Nam, được ban hành năm  1994 và bắt đầu có hiệu lực từ 1/1/1995 với 198 Điều đã tạo thành nền tảng   cho khung khổ  pháp lý của thị  trường lao động  ở  nước ta bằng việc công  nhận quyền tự  do mua, bán sức lao động trên thị  trường. Điều 16 Bộ  luật  Lao động đã ghi rõ: Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử  dụng lao động nào và ở bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm; và người   sử  dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ  chức dịch vụ  việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với   nhu cầu sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Như vậy quyền tự  do tìm việc làm và quyền lựa chọn người làm việc cho mình – hai yếu tố cơ  bản tạo ra quan hệ cung cầu cho thị trường lao động đã được Bộ  luật này   xác nhận.  Một điểm quan trọng nữa là Bộ  luật Lao động còn khẳng định khái  niệm mới về  việc làm. Nếu như  trước đây, chỉ  có làm việc trong khu vực  quốc doanh và tập thể  mới đựoc coi là việc làm, thì ngày nay Điều 13 của   Bộ luật lao động đã chỉ rõ mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập và không bị  pháp luật cấm, đều được thừa nhận là việc làm. Quy định này của Bộ  lao  động đã giúp cởi bỏ những quan niệm cũa về  việc làm, thúc đẩy tinh thần   tích   cực,   chủ   động   của   người   lao   động   trong   việc   tìm   kiếm   việc   làm,  khuyến khích các chủ sử dụng lao động tạo công ăn việc làm mới, góp phần   nâng cao tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động. SVTH:  11   
  12. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN Ngoài ra, Bộ  luật Lao động còn điều chỉnh nhiều mối quan hệ  quan  trọng của thị  trường lao động và quan hệ  xã hội khác có liên quan như; các  quy định về học nghề; về hợp đồng lao động; về tiền lương­ tiền công; về  kỷ luật lao động; về an toàn vệ sinh lao động; về bảo hiểm xã hội; về quan  hệ với công đoàn; về quản lý nhà nước đối với lao động,… Những quy định  này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền có cơ  hội bình   đẳng về  việc làm, và được trả  công bình đẳng của  các nhóm dân cư  khác  nhau, bảo vệ quyền làm việc, lợi ích và các quyền khác của người lao động,   quyền và các lợi ích hợp pháp của người sử  dụng lao động, tạo điều kiện  cho mối quan hệ  lao động được hài hòa và  ổn định, góp phần phát huy trí  sáng tạo và tài năng của người lao động, của người sử dụng và người quản   lý lao động. Ngoài Bộ Luật Lao động, các văn bản pháp quy khác có liên quan cũng   được ban hành và áp dụng rộng rãi trong những năm gần đây. Trong đó, đáng  chú ý nhất là Nghị  định 198/ CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ  quy định  chi tiết và hướng dẫn thi hành một số  điều của Bộ  luật Lao động về  hợp   đồng lao động. Nghị  đinh 72/CP (ngày 31/10/1995) của Chính phủ  quy định  chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ  luật Lao động về  việc   làm. Nghị đinh 72/CP có tầm quan trọng đặc biệt đối với thị trường lao động   bởi đây là văn bản pháp quy đầu tiên quy định rõ ràng về chức năng, nhiệm   vụ, quyền hạn của các trung tâm dịch vụ  việc làm – một thể  chế  giao dịch   không thể  thiếu của thị  trừong lao động. Các quy định về  bảo hiểm xã hội  được   chi   tiết   hóa   tại  Nghị   định  12/CP  (ngày  26/1/1995)   của   Chính   phủ,   Thông tư  06/LĐTBXH (ngày 4/4/1995) của Bộ  LĐ­TB­XH và thông tư  58­ TC/HCSN (ngày 24/7/1995). Liên quan đến vấn đề  dạy và học nghề, có   Nghị   đinh   90/CP   (ngày   15/12/1995)   của   Chính   phủ   quy   định   chi   tiết   và  hướng dẫn một số  điều của Bộ  luật Lao động về  dạy và học nghề; và   Thông tư  số 20/LĐTTBXH­TT (ngày 21/9/1996) của Bộ LĐ­TB­XH hướng  dẫn về  việc mở  và quản lý cơ  sở  dạy nghề. Các nghị  định 195/CP (ngày   31/12/1994)   của   Chính   phủ   về   thời   gian   làm   việc,   nghỉ   ngơi;   Nghị   định  196/CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ  về  thỏa  ước lao  động tập thể;  Nghị đinh 197/CP (ngày 31/12/1994) của Chính phủ  về tiền lương… đều là  những văn bản pháp lý quan trọng quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện   một số điều của Bộ luật lao động. Đây chính là nền tảng pháp lý chế  định  các quan hệ cung và cầu lao động, cho phép hình thành thị  trường lao động  kiểu mới ở Việt Nam trong thời gian qua. Ngoài ra, các luật hoặc văn bản pháp quy khác như  Nghị  đinh 66/CP,   Luật Doanh nghiệp, Luật khuyến khích đầu tư  trong nước, luật khuyến  khích đầu tư  nước ngoài, Bộ  Luật dân sự, Luật Đất đai… cùng với các  chính sách kinh tế  ­ xã hội khác của Đảng và Nhà nước đều đã thực hiện   góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tiềm năng lao động xã   hội; trực tiếp hoặc gián tiếp có ảnh hưởng đến việc hình thành và vận hành  của thị trường lao động ở nước ta trong những năm gần đây. SVTH:  12   
  13. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN 3. Về đào tạo Phát triền kinh tế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi người lao động phải  có trình độ tay nghề nhất định. Nhận ra yêu cầu bức bách này, trong những  năm gần đây, Nhà nước đã ngày càng chú trọng đến công tác đào tạo, bồi  dưỡng tay nghề cho người lao động. Điều này cò thể nhìn thấy được thông   qua những biến đổi của cơ cấu các nghề được đào tạo: nếu như  trước đây   chỉ chú trọng đào tạo các nghề  như  cơ khí chế tạo, mộc, nề, sửa chữa, dân  dụng… thì ngày nay hoạt động đào tạo đã mở rộng sang các ngành nghề mới  như  điện tử, tin học, tài chính, quản trị  kinh doanh, các ngành nghề  truyền   thống dân tộc,..v.v. Các hoạt động dạy và học nghề  được thực hiện không  chỉ ở các trường, các lớp, mà còn được thực hiện ngay tại các doanh nghiệp.   Các doanh nghiệp được khuyến khích đào tạo lao động tại chỗ, hoặc gửi  người đi học tại  các cơ sở đào tạo trong hoặc ngoài nước. Nhà nước có chính sách miễn giảm thuế cho các cơ  sở dạy nghề dành   riêng cho người tàn tật, trẻ  mồ  côi không nơi nương tựa, người dân tộc   thiểu số, đối tượng tệ nạn xã hội; miễn giảm thuế cho các cơ sở dạy nghề  có dưới 10 học viên, dạy nghề theo hình thức kèm cặp tại xưởng, nhà máy   (miễn thuế doanh thu, thuế lợi tức). Ngoài ra, Nhà nước còn giảm 50% thuế  doanh thu cho các cơ  sở  dạy nghề  truyền thống, trạm, trổ, khảm trai, sơn   mài, mây tre, gốm sứ, dệt lụa tơ  tằm. Bên cạnh đó sau khi thành lập lại  Tổng  cục   dạy   nghề   (trực   thuộc   Bộ   Lao   Động­Thương   binh   và   Xã   hội)  Chính phủ  đang chỉ  đạo việc hoàn thiện và tăng cường công tác dạy nghề  nhằm làm cho công tác dạy nghề gắn liền với lao động và việc làm đáp ứng   yêu cầu phát triển kinh tế­xã hội trong giai đoạn tới. Về mặt lý thuyết, đào   tạo và bồi dưỡng, nâng cao kỹ  thuật, tay nghề  vốn được coi là một trong   những chính sách phát triển thị  trường lao động chủ  động quan trọng nhất.   Việc Nhà nước ta chú trọng chính sách đào tạo là điều kiện thuân lợi để thị  trường này có thể phát triển trong tương lai. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG  TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH I. Thực trạng cung cầu lao động cả nước Thị trường lao động nước ta phát triển không đồng đều, quan hệ cung­ cầu lao động giữa các vùng, các khu vực, ngành nghề  mất cân đối nghiêm  trọng. Theo báo cáo về thực trạng cung cầu lao động, lực lượng lao động cả  nước hiện có trên 48 triệu người, trong đó, 73% số  lao động tập trung  ở  nông thôn. Trong 47 triệu lao động có việc làm, có tới 70% lao động có việc  làm không  ổn định, dễ  bị  tổn thương và rơi vào nghèo đói, chủ  yếu là lao  động tự do hoặc làm việc trong gia đình không hưởng lương. Lao động làm   việc trong các khu vực cũng có sự chênh lệch lớn. Chỉ có 4 triệu người kiếm  được việc làm tại khu vực nhà nước, 1,67 triệu người làm việc ở  khu vực   SVTH:  13   
  14. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước có tới  40 triệu người. Dù chiếm tỷ lệ lao động lớn nhất, nhưng khối kinh tế ngoài  nhà nước chỉ đóng góp 47% GDP và 35% giá trị sản xuất công nghiệp, trong   khi khối khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp gần 19% GDP và gần   45% giá trị  sản xuất công nghiệp. Chính sự phát triển, phân bố không đồng  đều khiến thị  trường lao động rơi vào tình trạng “thừa mà thiếu”. Nhiều   doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, kể cả lao  động qua đào tạo và lao động phổ thông. Theo báo cáo của các địa phương,   tình trạng lao động không có việc làm vẫn  ở  mức cao trong khi nhu cầu   tuyển dụng hiện nay rất lớn.  Cụ thể như ở Đồng Nai, hàng năm địa phương này thiếu hụt 20.000 lao  động (5.000 lao động đã qua đào tạo và 15.000 lao động phổ  thông). Còn  ở  Thành phố  Hồ  Chí Minh, từ  đầu năm đến nay, có trên 23.000 lao động mất  việc làm, nhưng nhu cầu tuyển dụng lên đến trên 61.000 người. Tại Bình  Dương, số  lao động cần tuyển là gần 42.000 người, Cần Thơ  cần 5.212   người, Vũng Tàu cần khoảng 5.000 người. Kết quả  tổng hợp từ  các trung  tâm giới thiệu việc làm và sàn giao dịch việc làm trên cả  nước cũng cho   thấy, năm 2009 có trên 100.000 chỗ  làm cần tuyển người. Tuy nhiên, số  người đến đăng ký tuyển dụng chỉ  bằng 17% nhu cầu này,  trong đó số  người đáp  ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng chỉ  chiếm khoảng 6%.   Trong số vị trí tuyển, có đến 80% là nhu cầu lao động phổ thông, chủ yếu là  các doanh nghiệp may mặc, giầy da, chế biến nông, lâm sản. Chất lượng lao   động qua đào tạo thấp dẫn đến hệ  quả  là nguồn cung lao động không đáp   ứng nhu cầu. Chỉ khoảng 30%­40% sinh viên tốt nghiệp đại học có việc làm  ngay, số còn lại phải đào tạo bổ sung kiến thức, kỹ năng.  Sắp bước sang quý  2 của năm 2010, nhưng việc việc tuyển dụng lao   động của các doanh nghiệp tại các khu công nghiệp, khu chế xuất trong cả  nước vẫn đang ở tình trạng cung không đủ cầu. Theo ý kiến chung của nhiều cán bộ nhân sự  tại các khu công nghiệp,   khu chế xuất trên địa bàn Hà Nội và Hưng Yên đều cho rằng, “chưa bao giờ  tuyển lao động lại khó như thời điểm này”. Tình trạng “khủng hoảng” thiếu  công nhân ở mức báo động đã làm ảnh hưởng trầm trọng đến kế hoạch sản  xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khảo sát gần 90 doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch việc làm Hà Nội  trong ngày 10/3 với nhu cầu tuyển 3.500 lao  động nhưng kết quả  doanh  nghiệp chỉ tuyển được 312 lao động có nghề và 78 lao động phổ thông. Phụ  trách nhân sự của Công ty Cổ phần May Hưng Long  ở Phố Nối, Hưng Yên  cho biết: công ty đang có nhu cầu từ 300 đến 500 lao động phổ thông và sẵn  sàng chu cấp chi phí ăn,  ở  trong 3 tháng để  dạy nghề  cho lao động mới  nhưng chỉ mới tuyển được hơn 200 người. Được biết, đây là công ty may có   mức thu nhập vào loại cao (lương bình quân của người lao động đạt 3 triệu   SVTH:  14   
  15. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN đồng/tháng, thưởng Tết cuối năm 2009, công nhân có năng suất lao động  trung bình cũng đạt 9 triệu đồng/người).  Nhiều doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu đồ gỗ nội thất ở Hà Nội cũng  lâm vào cảnh lao đao, chạy đôn chạy đáo tìm lao động phổ  thông, thợ  có  nghề.  Còn tại các khu công nghiệp tỉnh Long An, theo bà Nguyễn Thị Hương,  Phó trưởng phòng Quản lý lao động của Ban quản lý các khu công nghiệp,  các nhà máy sản xuất  ở  các khu công nghiệp trong tỉnh đang gặp khó khăn   thiếu hơn 10.000 lao động cho 6 tháng đầu năm 2010. Điều này đã làm ảnh   hưởng không nhỏ đến việc phát triển sản xuất của các nhà máy năm 2010.  Tình trạng thiếu lao động chủ  yếu tập trung  ở  ngành dệt, may. Điển  hình như Công ty Cổ phần Công thương Astagolden (Khu công nghiệp Đức  Hòa 3); Công ty TNHH Túi xách Simone (Khu công nghiệp Long Hậu (Cần  Đước); Công ty TNHH Giày Giai Hiệp (Khu công nghiệp Đức Hòa 1); Công   ty dệt Kim Đông Phương (Khu công nghiệp Xuyến Á) đang thiếu từ  100­ 500 công nhân. Công ty TNHH Giày Ching­luh Việt Nam (Khu công nghiệp  Thuận Đạo, huyện Bến Lức) có tới 23.000 lao động, nhưng sau tết công   nhân bỏ  nghỉ, hiện nay thiếu 5% lao động  ở  khâu may. Đó là chưa kể  các   khu công nghiệp  ở huyện Đức Hòa, Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc đang  chuẩn bị đi vào hoạt động trong quý 2/2010 nhưng vẫn chưa có lao động... II. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là  trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Thành   phố   Hồ   Chí   Minh  tọa   độ  10°10'   –   10°38'   Bắc   và   106°22'   –  106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh,  Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa ­ Vũng  Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh  Long An  và  Tiền Giang. Nằm trong vùng  chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, thành  phố  Hồ  Chí Minh  hình thành nhờ  công cuộc khai  phá miền Nam của nhà  Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự  ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để  phục vụ  công cuộc  khai thác thuộc địa, thành phố  Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát  triển, trở  thành một trong hai đô thị  quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh  danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ  đô của  Liên Bang Đông Dương giai đoạn 1887­1901. Năm 1954, Sài Gòn trở  thành  thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong  những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ  năm  1975, lãnh thổ  Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Ngày  2 tháng 7  năm  1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành  "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam  Dân chủ Cộng hòa. SVTH:  15   
  16. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN Thành phố  Hồ  Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng   diện tích 2.095,01  km². Theo kết quả  điều tra dân số  chính thức vào thời   điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.123.340 người  (chiếm 8,30% dân số  Việt Nam),  mật độ  trung bình 3.401 người/km². Tuy  nhiên nếu tính những người cư  trú không đăng ký thì dân số  thực tế  của  thành phố vượt trên 8 triệu người. Giữ  vai trò quan trọng trong nền kinh tế  Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 20,2 % tổng sản phẩm và 27,9 %  giá trị sản xuất công nghiệp của cả quốc gia. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận   lợi, nằm ở miền Nam Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730  km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách cách bờ  biển Đông 50 km theo  đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực  Đông Nam Á, thành phố  Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường  thủy và đường không trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt  Nam và Đông Nam Á.Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du  lịch quốc tế, tức 70 % lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực  giáo dục,  truyền thông, thể thao, giải trí, thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan  trọng bậc nhất. Thành phố Hồ  Chí Minh giữ  vai trò đầu tàu kinh tế  của cả  Việt Nam.  Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm  tới 20,2% tổng sản phẩm, 27,9% giá trị  sản xuất công nghiệp và 34,9% dự  án nước ngoài. Vào năm  2005, thành phố  Hồ  Chí Minh có 4.344.000 lao  động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham   gia làm việc. Năm  2008, thu nhập bình quân đầu người  ở  thành phố  đạt   2.534 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm. Nền kinh tế của thành phố Hồ  Chí Minh đa dạng về  lĩnh vực, từ  khai   mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài  chính... Cơ  cấu kinh tế  của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%,  ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước  ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần   còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và   thủy sản chỉ chiếm 1,2%.  Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp thành  phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án  có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ  USD và 19,5 nghìn  tỉ  VND. Thành phố  cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn   đầu tư  trực  tiếp nước ngoài với 2.530 dự  án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm   2007. Riêng trong năm 2007, thành phố  thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ  USD. Về  thương mại, Thành phố  Hồ  Chí Minh có một hệ  thống trung tâm  mua sắm, siêu thị, chợ  đa dạng. Chợ  Bến Thành là biểu tượng về  giao lưu  thương mại từ  xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ  một vai trò quan   trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất  SVTH:  16   
  17. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN hiện như  Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của thành phố  Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp   1,5 lần thủ đô Hà Nội. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh,  có mã giao dịch là VN­Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến  ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được   niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 nghìn tỷ  đồng. Tuy vậy, nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với  nhiều khó khăn. Toàn thành phố  chỉ  có 10% cơ  sở  công nghiệp có trình độ  công nghệ  hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ  sở  ngành dệt may, 4/40 cơ  sở  ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm,   18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ  thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ  tầng của thành phố  lạc hậu, quá tải, chỉ  giá tiêu dùng cao, tệ  nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn   cho nền kinh tế. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh  vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn. III. Thực trạng cung cầu lao động ở thành phố Hồ Chí Minh 1. Về cung lao động 1.1 Cung lao động xét từ giác độ số lượng Theo quy định của Bộ luật Lao động, ở Việt Nam, độ tuổi lao động bao   gồm những người từ 15 đến 60 tuổi đối với nam, và 15 đến 55 tuổi đối với  nữ. Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 thành phố Hồ Chí Minh có   dân số  7.123.340 người , gồm 1.812.086 hộ  dân, bình quân 3,93 người/hộ.  Phân theo giới tính: Nam có 3.425.925 người chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415   người chiếm 51,9% . Dân số  thành phố  tăng nhanh, trong 10 năm từ  1999­ 2009   dân   số   thành   phố   tăng   thêm   2,086.185   người,   bính   quân   tăng   gần  209.000 người/năm, tốc độ  tăng 3,53%/năm, chiếm 22% số  dân tăng thêm  của cả  nước trong vòng 10 năm.  Thành phố  Hồ  Chí Minh   có nguồn nhân  lực 4,7 triệu người. Tông sô lao đông đang lam viêc co 3,3 triêu ng ̉ ́ ̣ ̀ ̣ ́ ̣ ươi, t ̀ ổng   số  người đến tuổi lao động hàng năm bao gồm người  ở  tại thành phố  và  người ở từ các tỉnh, thành phố khác chuyển đến có nhu cầu đào tạo nghề và  tìm việc làm có trên 300.000 người. Tỷ  lệ  lao động thất nghiệp năm 2009  của thành phố bình quân ở mức 5,4%. Các chỉ tiêu về lao động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh năm   2010 Đơn vị tính: người Tốc   độ   tăng  2005 2010 bình quân 2006­ Chỉ tiêu 2010 (%) SVTH:  17   
  18. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN DÂN SỐ  6.239.938 7.200.000 2,90 A.   NGUỒN   LAO  ĐỘNG 3.981.375 4.625.360 3,04 1. Số  người trong tuổi  lao động 3.964.160 4.618.000 3,10 ­ Mất sức lao động 68.515 76.680 2,28 ­ Có khả năng lao động 3.895.645 4.541.320 3,11 2.   Ngoài   tuổi   có   tham  gia lao động 85.730 84.040 ­0,40 ­ Trên tuổi lao động 58.230 57.100 ­0,39 ­ Dưới tuổi lao động 27.500 26.940 ­0,41 B.   PHÂN   PHỐI   LAO  ÐỘNG        1. Lao động đang làm  việc 2.676.420 3.184.000 3,53 a.   Khu   vực   I   (nông   ­  lâm nghiệp ­ thủy sản) 145.282 121.000 ­3,59 b.   Khu   vực   II   (công  nghiệp ­ xây dựng) 1.226.932 1.468.000 3,65      Công   nghiệp   ­   tiểu  thủ công nghiệp 1.033.271 1.263.700 4,11     Xây dựng 193.661 204.300 1,08 c. Khu vực III (dịch vụ) 1.304.206 1.595.000 4,11     Thương mại 408.425 519.200 4,92 SVTH:  18   
  19. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN     Dịch vụ 895.781 1.075.800 3,73 2. Học sinh 432.585 515.270 3,56 3. Nội trợ 527.020 590.140 2,29 4. Chưa có việc làm 345.350 335.950 ­0,55 Trong đó: Thất nghiệp 245.690 232.000 ­1,14 Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu Viện Kinh tế 1.2 Cung lao động xét từ giác độ chất lượng - Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng: Hiện ở thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 46% lao động qua đào tạo và  tỷ lệ này ở cả nước chỉ khoảng 30%. Trong khi đó, ở các nước châu Âu, tỷ  lệ học sinh theo học trường nghề lên đến 56%, các nước châu Á trung bình   50%. Do đó, việc phát triển, mở  rộng nâng cao chất lượng đào tạo  ở  các  trường nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề là rất cần thiết. ­ Trình độ học vấn của người lao động: Năm 2004,  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh tỷ  lệ  nhập học  ở  các cấp giáo   dục là 75%. Tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành là 93,2%, HDI 0,814. ­ Tình trạng thể lực của lao động: Người lao động Việt Nam có thể  lực kém, thể  hiện qua các chỉ  số  về  cân nặng, chiều cao trung bình, sức bền. Cụ  thể, trong khi chiều cao trung   bình của người lao động Việt Nam là 1,47 m; cân nặng 34,4 kg thì các con  số tương ứng của người Philippin là 1,53m; 45,5 kg; người Nhật là 1,46 m;   53,3 kg. ­ Kỷ luật lao động của người lao động: Đại bộ phận người lao động hiện nay của thành phố Hồ Chí Minh còn  chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp, tùy tiện về giờ giấc và  hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức kỹ năng làm việc  theo nhóm, không có khả  năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy   sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Điều này có thể thấy rõ qua hiện  tượng các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ( trong các khu chế xuất, khu   công nghiệp), phải mất hàng tháng chỉ  để  đào tạo tác phong cho công nhân  mới được tuyển đến làm việc tại xí nghiệp. SVTH:  19   
  20. THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG                                     GVHD: NGUYỄN NGỌC  TUẤN Nhiều vụ  việc mâu thuẫn chủ  ­ thợ  tại các xí nghiệp liên doanh, xí  nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài có nguồn gốc ban đầu từ  những vụ  vi  phạm kỷ luật lao động công nghiệp, từ ý thức kỷ luật lao động kém của bản   thân người lao động. 1.3 Thực trạng cung lao động thành phố năm 2010 Tháng 5­2010, chỉ  số  cung nhân lực cũng giảm 21,53% so với tháng 4  do lực lượng lao động của các tỉnh, thành phố  khác vào tìm việc tại thành   phố  Hồ  Chí Minh cũng giảm nhiều so với các năm trước. Sự  thiếu hụt lao  động và dịch chuyển lao động vẫn tiếp tục xảy ra, khả năng nguồn cung chỉ  đáp  ứng được từ  65%­75% tổng nhu cầu việc làm, đặc biệt vẫn thiếu hụt   trên 50% lao động phổ  thông, sơ  cấp nghề. Trước đây, do thiếu việc làm,  thu nhập  ở các đô thị  cao hơn nên dòng chảy lao động nhập cư  chỉ  có một   hướng duy nhất đổ  dồn về các thành phố lớn, nhất là ở  phía Nam, đặc biệt  là thành phố Hồ Chí Minh. Còn bây giờ  ở  phía Bắc, miền Trung, người lao  động có thể tìm được việc làm tại chỗ hoặc các khu vực lân cận mà không   cần xa nhà do nhiều KCN mới mọc ra, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã khởi  động đi vào hoạt động. Lý do nữa là một phần vì cuối năm 2008 và đầu năm 2009, nhiều công   ty quá khó khăn đã cho công nhân nghỉ việc, công nhân đã đi tìm công ty khác   để  có việc làm mới hay chuyển sang các ngành dịch vụ  khác. Hiện nay,   doanh nghiệp sau khi có đơn hàng trở lại đã không còn đủ công nhân để thực  hiện. Vì vậy, dấu hiệu thiếu lao động hiện nay còn nặng nề  hơn so với   trước khi xảy ra suy thoái kinh tế. Ngoài ra, theo đánh giá chung của cơ  quan quản lý lao động và trung   tâm giới thiệu việc làm, việc khan hiếm lao động phổ thông còn do nhiều lý   do như: mức sống  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh hiện quá cao, trong khi mức   lương chưa tăng tương xứng; tiền lương của công nhân không đáp  ứng đủ  cho các khoản chi phí như chỗ trọ, tiền ăn… Khảo sát tại 1156 doanh nghiệp với trên 18.700 nhu cầu tuyển dụng  trong tháng 5­2010 cho thấy, trên 75% người tìm việc làm có kinh nghiệm từ  1 năm trở  lên với mức lương mong muốn trên 5 triệu đồng/tháng. Đối với   lao động phổ  thông, sơ  cấp nghề, nhu cầu tìm việc làm cũng mong muốn   mức lương từ 2– 3 triệu/tháng trở lên. Trong khi đó, nhu cầu tuyển dụng lao   động phổ thông, sơ cấp đa số ở mức lương trung bình và thấp, khoảng từ 2   triệu/tháng trở xuống. Khi mức lương chưa tương xứng với công sức người  lao động bỏ  ra thì họ  không mặn mà với công việc và doanh nghiệp không   tuyển đủ là điều dễ hiểu.  Ngoài ra, doanh nghiệp ít quan tâm đến người lao động, nhiều doanh  nghiệp cho công nhân tăng ca, làm thêm giờ  nhưng trả  lương không đúng   luật, nhiều doanh nghiệp trả lương thấp hơn mức tối thiểu được quy định,   vẫn còn tình trạng một số doanh nghiệp chỉ tuyển lao động theo thời vụ mà   SVTH:  20   
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2