intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận về: Cổ phần hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

Chia sẻ: Dương Thuỳ Dung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

239
lượt xem
61
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chúng ta đang chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn thực hiện được mục tiêu đã đề ra thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung cũng như của từng doanh nghiệp, từng sản phẩm nói riêng phải không ngừng được nâng cao. Thực chất cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp. Muốn nâng cao được sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam thì cổ phần hoá một...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận về: Cổ phần hoá và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

  1. BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA KTNN&PTNT Tiểu luận ĐỀ TÀI: CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM Sinh viên : Phạm Xuân Hùng Lớp : KTNN&PTNT K44 Khoa : KTNN&PTNT Giảng viên hướng dẫn TS.Vũ Thị Minh
  2. §Ò ¸n m«n häc MỤC LỤC Lời mở đầu ...................................................................................................................... 1 Nội dung........................................................................................................................... 3 I). Cổ phần hóa và cổ phần hóaDNNN ........................................................................... 3 1.Cổ phần hóa.............................................................................................................. 3 2.Cổ phần hóa DNNN ................................................................................................. 3 II) Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hóa DNNN .......................................................... 4 1.Cơ sở lí luận ............................................................................................................. 4 2.Thực tiễn cổ phần hóa DNNN................................................................................... 6 III). Tiến trình cổ phần hóa DNNN ................................................................................ 8 1.Giai đoạn 1 ............................................................................................................... 9 2.Giai đoạn 2 ............................................................................................................. 10 3.Giai đoạn 3 ............................................................................................................. 10 4.Giai đoạn 4 ............................................................................................................. 11 IV). Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam 12 1.Những thành tựu .................................................................................................................................. 13 1.1.Những thành tựu mang tính định lượng ................................................................ 13 1.2.Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động........................................................................................................ 14 1.2.1.Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa ............................................................................................................................... 14 1.2.2.Về huy động vốn.............................................................................................. 15 1.2.3.Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động 15 2.Những hạn chế........................................................................................................ 16 2.1.Tốc độ cổ phần hóa chậm.................................................................................... 16 2.2.Cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực17 2.3.Cơ chế chính sách cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa chưa đầy đủ ......... 18 2.4.Sự chỉ đạo của các cấp còn thiếu sự kiên quyết và còn chưa sâu sát kịp thời ....... 18 2.5.Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về cổ phần hóa còn bị xem nhẹ ....................................................................................................... 18 2.6.Những hạn chế, trì trệ từ phía doanh nghiệp ........................................................ 19 VI). Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam ...................................................... 19 VII). Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam ........................................ 23 1.Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chế độ chính sách để thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN .................................................................................................................... 23 GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  3. §Ò ¸n m«n häc 2.Mở rộng đề cao các biện pháp kinh tế, hạn chế thu hẹp các biện pháp tài chính ..... 24 3.Giải quyết dứt điểm các khoản nợ tồn đọng của các DNNN sau khi cổ phần hóa ............................................................................................................... 25 4.Quán triệt một cách sâu rộng trong toàn thể cán bộ, Đảng viên và người lao động về tính tất yếu phải cổ phần hóa ................................................................................. 25 5.Những giải pháp khác ............................................................................................ 25 Kết luận ......................................................................................................................... 27 Tài liệu tham khảo......................................................................................................... 28 GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  4. §Ò ¸n m«n häc LỜI MỞ ĐẦU Chúng ta đang chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn thực hiện được mục tiêu đã đề ra thì năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung cũng như của từng doanh nghiệp, từng sản phẩm nói riêng phải không ngừng được nâng cao. Thực chất cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là phần lớn các doanh nghiệp nông nghiệp. Muốn nâng cao được sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam thì cổ phần hoá một bộ phận các doanh nghiệp nhà nước(DNNN) được coi là một trong những giải pháp quan trọng. Đảng và Nhà Nước ta đã chủ trương thực hiện quá trình này từ đầu thập niên 90, cho đến nay thì đã trải qua bốn giai đoạn. Giai đoạn 1992-1996 thực hiện thí điểm theo quyêt định số 220/HĐBT của Hội Đồng Bộ Trưởng (nay là Chính Phủ). Giai đoạn 1996-1998 triển khai thực hiện cổ phần hoá một bộ phận DNNN theo tinh thần Nghị Định 28/CP của Chính Phủ. Giai đoạn 1998-2001 đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN theo Nghị Định 44/1998/NĐ_CP. Giai đoạn mới, giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa theo Nghị định số 64/2002/NĐ-CP. Cổ phần hoá DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm huy động thêm nguồn vốn của xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo động lực mạnh mẻ, cơ chế quản lí năng động nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước cung cấp như của toàn xã hội, nhằm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên trường quốc tế. Sau hơn 10 năm thực hiện với kết quả tích cực chủ trương ngày càng có sức sống, cơ chế chính sách ngày càng được điều chỉnh, bổ sung hợp lí hơn và hoàn thiện hơn. Cổ phần hoá DNNN là một nhu cầu, một thực tế khách quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các công ty cổ phần sẻ là loại hình doanh nghiệp phổ biến do thu hút được nguồn vốn rộng rãi trong xã hội, tách được quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn trong sản xuất kinh doanh. Xét một cách toàn diện thì cổ phần hoá DNNN đã đem lại lợi ích rõ rệt cho người lao động, cổ đông, Nhà nước và xã hội. Thông qua cổ phần hoá vốn Nhà nước không những được đảm bảo mà còn được tăng thêm. DNNN có nhiều cơ hội huy động vốn trong xã hội để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất. Sau 3 năm triển khai thực hiện nghị quyết lần thứ 3 hội nghị ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục sắp xếp đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN việc thực hiện cổ phần hoá nói riêng và đổi mới DNNN nói chung đã có những chuyển biến tích cực. Các cơ chế chính sách được ban hành đã sớm phát huy được hiệu quả, tạo ra được động lực quan trọng và kết quả đáng ghi nhận trong tiến trình cổ phần hoá DNNN. Tuy nhiên qua quá trình cổ phần hoá DNNN đã xuất hiện nhiều tồn tại hạn chế cần sớm được khắc phục..., tốc độ cổ phần hoá đang diễn ra khá chậm mà một trong những nguyên nhân chủ yếu chính là những “rào cản”, vì thế việc xác định cụ thể chính xác những “rào cản” trong tiến trình cổ phần hoá DNNN là hết sức cần thiết để từ đó đưa ra những giải pháp hợp lí nhằm hạn chế bớt những “rào cản” làm chậm tiến trình cổ phần hoá DNNN nói riêng cũng như chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta nói chung. Nội dung đề án được chia làm các phần chính sau: GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  5. §Ò ¸n m«n häc I). Khái niệm cổ phần hoá và cổ phần hoá DNNN. II). Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hoá DNNN. III).Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. IV). Đánh giá chung về tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam. V). Mục tiêu cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. VI). Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  6. §Ò ¸n m«n häc  NỘI DUNG I). Cổ phần hoá và cổ phần hoá DNNN. 1.Cổ phần hoá. Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ trường hợp qui định tại khoản 3 điều 55 và khoản 1 điều 58 của luật doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức cá nhân số lượng cổ đông tối thiểu là 3 không hạn chế tối đa. Công ty cổ phần được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp của nhiều chủ, tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu chung thông qua chuyển một phần tài sản cho người khác, cổ phần hoá có thể áp dụng với tất cả các doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ duy nhất. Vì thế doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...đều có thể cổ phần hoá. 2. Cổ phần hoá DNNN DNNN được định nghĩa ở điều 1 luật DNNN: “ Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thưc công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Định nghĩa này chứa đựng những thay đổi cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính sách đối với các thành phần kinh tế. Như vậy việc xác định DNNN không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu như trước đây ( trước đây doanh nghiệp được Nhà nước thành lập, đầu tư vốn, tổ chức quản lí được coi là DNNN trong đó sở hữu được coi là tiêu chí cơ bản nhất); tiêu chí quyền chi phối được áp dụng trong luật DNNN năm 2003 là tiêu chí định lượng, tính chất định lượng thể hiện ở phần vốn góp của Nhà nước trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp. Như vậy quyền kiểm soát được coi là tiêu chí cơ bản để xác định một doanh nghiệp có phải là DNNN hay không, đây có thể coi là một bước tiến trong cách tiếp cận DNNN. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu một phần tài sản của Nhà nước, biến doanh nghiệp từ sở hữu của Nhà nước thành dạng sở hữu hỗn hợp trong đó Nhà nước có thể giữ một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp cũng như vai trò và vị trí của nó trong nền kinh tế. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường được đại hội ĐảngVI khởi xướng đã tạo ra những điều kiện tiền đề để cải cách triệt để hơn đối với DNNN, thông qua việc cổ phần hoá chúng. Sở dĩ cổ phần hoá được coi là giải pháp triệt để vì nó giải quyết được căn nguyên trong tổ chức quản lí và hoạt động của DNNN đó là sở hữu. Cổ phần hoá DNNN chấp nhận sự dung hoà của nhiều thành phần kinh tế khác nhau mà trước hết là các doanh nghiệp. Cổ phần hoá làm thay đổi kết cấu sở hữu của chúng. II). Cơ sở lí luận và thực tiễn cổ phần hoá DNNN Quá trình cổ phần hoá DNNN có cả những thành công và những va vấp lệch lạc. Những thành công chủ yếu là gặt hái được nhiều kinh nghiệm, làm sáng tỏ thêm nhiều vấn đề GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  7. §Ò ¸n m«n häc không chỉ trong phạm vi cổ phần hoá mà cả trong lĩnh vực hệ trọng hơn, như sắp xếp đổi mới DNNN và cơ chế quản lý. 1. Cơ sở lí luận. Về thực chất hình thức công ty cổ phần đầu tiên đã được C.Mac đánh giá và khái quát một cách khách quan và khoa học. Sự ra đời của các công ty cổ phần là một bước tiến của lực lượng sản xuất: Chúng đã biến những người sỡ hữu tư bản thành những người sở hữu thuần tuý, một mặt chỉ giản đơn điều khiển và quản lí tư bản của người khác, mặt khác là những nhà tư bản- tiền tệ thuần tuý. Quyền sở hữu tư bản hoàn toàn tách rời chức năng của tư bản trong quá trình tái sản xuất thực tế. Làm cho quy mô sản xuất được tăng lên, mở rộng, một điều mà đối với các doanh nghiệp riêng lẻ rất khó thực hiện. Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng nó. Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sỡ hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hợp, tức là thành những chức năng xã hội. Bên cạnh những thành công đó thì C.Mac cũng phân tích những hạn chế ( tiêu cực) của các công ty cổ phần. C.Mac chủ yếu phân tích những ảnh hưởng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, so sánh công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa với công ty hợp tác của công nhân. Dưới chủ nghĩa tư bản có thể hình thức sản xuất mới này sẻ đưa đến việc thiết lập chế độ độc quyền và đưa đến sự can thiệp của Nhà nước. Như vậy sự xuất hiện của các công ty cổ phần theo lí luận của C.Mac là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất và là bước tiến từ sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông. Quá trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN ở nước ta có nhiều nét đặc thù, đó là cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, thuộc sở hữu xã hội, toàn dân. Mục tiêu cơ bản của việc chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần là nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất, phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của DNNN. Cụ thể là tìm một hình thức quản lí vừa phát huy quyền làm chủ của người lao động vừa đảm bảo quản lí một cách có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp. Chúng ta đã đưa ra nhiều hình thức công ty cổ phần nhưng có thể gói gọn trong hai nhóm chính: Nhóm các công ty cổ phần trong đó Nhà nước có tham gia cổ phần như: Giữ nguyên giá trị của doanh nghiệp kêu gọi thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, bán một phần tài sản doanh nghiệp, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp. Tất cả các hình thức cổ phần hóa theo ba dạng trên thì Nhà nước hoặc là nắm giữ cổ phiếu khống chế(51%) hoặc là không nắm giữ cổ phiếu khống chế. Loại hình cổ phần hóa theo thể thức Nhà nước bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động. Nhằm rút vốn, đầu tư vào những ngành lĩnh vực quan trọng, then chốt, địa bàn quan trọng. Không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  8. §Ò ¸n m«n häc Dù tồn tại dưới bất kì hình thức nào thì công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp đa sở hữu. khi người lao động tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp thì họ cũng đã gắn lợi ích của bản thân vào lợi ích của doanh nghiệp, tạo ra sự giám sát tập thể đối với đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra cơ chế phân phối hài hòa giữa doanh nghiệp, Nhà nước và người lao động. Nhờ đó mà hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có điều kiện được nâng lên. Như vậy có thể nói quá trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN không phải là quá trình tư nhân hóa. Bởi vì Nhà nước chỉ nắm giữ những ngành, những lĩnh vực cần thiết, vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước không những không được cũng cố mà còn có thể bị yếu đi nếu cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh kém. Việc bán toàn bộ tài sản chỉ được áp dụng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ, những lĩnh vực mà khu vực dân doanh hoàn toàn có thể làn tốt hơn DNNN. Nhà nước sẻ lựa chọn hình thức bán phù hợp và nếu bán theo cách để cho người lao động có cổ phần ưu đãi hay cổ phần không chia thì rõ ràng không thể nói đó là tư nhân hóa. Cổ phần hóa cũng xuất phát từ yêu cầu đổi mới DNNN. DNNN nắm giữ trong tay những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Việc sử dụng lãng phí, không hiệu quả cao các nguồn lực khan hiếm là một trong những nhân tố làm chậm tiến trình phát triển kinh tế của nước ta. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế nước ta trong những năm qua không có nghĩa là nền kinh tế chúng ta đang vận hành trơn tru mà sự tăng trưởng cao đó như các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo là do chúng ta có xuất phát điểm thấp. Hiện nay mối quan hệ giưa nhà nước và các DNNN là không rõ ràng, để duy trì các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp trực tiếp và gián tiếp như : xóa nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng... Và như vậy DNNN trở thành đối tượng “trợ cấp” của xã hội, và xã hội trở thành chổ bấu víu cho các DNNN làm ăn thua lỗ. Theo báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản của DNNN thì thực trạng như sau: “tổng giá trị tài sản của DNNN theo sổ sách kế toán là 517.654 tỷ đồng, theo giá kiểm kê xác định lại là 527.256 tỷ đồng; số nợ phải thu là 187.091 tỷ đồng chiếm 35% giá trị tài sản của doanh nghiệp, gấp 1,43 lần vốn kinh doanh; hàng hóa tồn kho là 45.688 tỷ đồng, trong đó hàng ứ đọng, mất phẩm chất không dùng đến là 1.600 tỷ đồng; doanh nghiệp có 1 đồng vốn thì phải vay hoặc chiếm dụng 1,2 đồng cho kinh doanh, hệ số vốn vay và vốn chiếm dụng so với vốn sở hữu là 1,8 lần; tổng số nợ phải trả là 353.410 tỷ đồng, bằng 2,3 lần vốn nhà nước cấp, gấp 2 lần nợ phải thu trong đó nợ quá hạn phải trả là 10.171 tỷ” theo báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại tài sản DNNN tại thời điểm 0 h ngày 01-01-2000. Yêu cầu đổi mới DNNN còn phát sinh sự từ cạnh tranh với khu vực kinh tế tư nhân đang có những bước chuyển mình mạnh mẻ. Mặt khác trong quá trình hội nhập DNNN không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước mà còn cả với các doanh nghiệp khác của nước ngoài. Cạnh tranh trên thị trường không chấp nhận sự bảo hộ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp của mình mà cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi nhà nước không chỉ xóa độc quyền mà cả bao cấp. Như vậy cổ phần hóa là một giải pháp tốt cho nền kinh tế nước ta nói chung cũng như các DNNN nói riêng. GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  9. §Ò ¸n m«n häc 2. Thực tiễn cổ phần hóa DNNN. DNNN có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa. Sự tồn tại của DNNN ở các nước tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan . Khi mà những cuộc khủng hoảng liên tục của chủ nghĩa tư bản vào những năm đầu của thế kỉ XIX đã chứng minh sự sụp đổ của học thuyết bàn tay vô hình . Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế là rất cần thiết để duy trì sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển của DNNN ở nhiều nước đều vấp phải tình trạng chung là hiệu quả thấp, tham nhũng, lãng phí... Vì thế cải cách DNNN là một điều tất yếu; Có nhiều cách thức để cải cách DNNN nhưng tư nhân hóa là biện pháp được sử dụng rộng rãi nhất và đem lại nhiều kết quả khả quan nhất. Tư nhân hóa được tiến hành mạnh mẻ ở các nước có nền kinh tế phát triển mạnh như Hàn Quốc, Xingapo, Nam phi... cũng như các nước đang phát triển và các nước phát triển và nó đang trở thành một xu thế mang tính chất toàn cầu. Là một nước xã hôi chủ nghĩa, có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội cũng gần giống với Việt Nam. Trung Quốc cũng tiến hành cải cách DNNN và thực tiễn cải cách DNNN ở Trung Quốc đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Cải cách DNNN ở Trung quốc được thực hiện khá rộng rãi và thành công, thực sự là một kinh nghiệm cho việc cải cách DNNN mà không cần phải tư nhân hóa hàng loạt. Cải cách DNNN bắt đầu từ năm 1984 và đã trải qua bốn giai đoạn... Cổ phân hóa DNNN trong giai đoạn này thực sự trở thành chiến lược của Trung Quốc trong việc hiện đại hóa và phát triển kinh tế và đã thể hiện rõ rệt hiệu quả của khu vực kinh tế công cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Phải nói rằng cụm từ “cổ phần “ đã rất quen thuộc từ hơn nhiều năm nay, kể từ khi Đảng ta lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng xí nghiệp công tư hợp doanh và đã được phát triển rộng khắp. Trước sức ép đẩy nhanh việc cổ phần hóa một số địa phương và DNNN đã tìm mọi cách để đạt được chỉ tiêu kế hoạch. Nếu chọn đơn vị kém hấp dẫn để cổ phần hóa thì cổ phần hóa thường rất bế tắc vì xuất phát từ tâm lí chủ quan của mọi người là ai cũng muốn bảo toàn lợi ích của mình, không ai muốn rủi ro vì thế không ai muốn bỏ vốn ra để mua cổ phần. Bởi vậy để có thể suôn sẻ việc chọn đơn vị nào đang làm ăn được, đang có triển vọng được coi là một giải pháp hữu hiệu dễ được cán bộ công nhân viên và người ngoài doanh nghiệp chấp nhận việc mua cổ phần. Nếu chỉ là DNNN thuần túy thì cơ chế tài chính rất ngặt nghèo, dù làm ăn có hiệu quả, lãi lớn thì tiền lương vẫn bị khống chế, không được tăng lên tương ứng. Sự xuất hiện của công ty cổ phần đã phần nào khắc phục được những hạn chế đó. Nhưng qua thực tế thì rõ ràng không phải cổ phần hóa là một phép màu làm cho các công ty cổ phần bỗng nhiên phát đạt, bởi vì nếu không có sự “hỗ trợ” của các DNNN thì các công tyđó mất rất nhiều hợp đồng kinh tế, mất việc làm và có thể dẫn đến sa sút ngay. Điều này càng chứng tỏ cổ phần hóa làm sáng tỏ nhu cầu và nội dung đổi mới DNNN, đó là phải đồng bộ cả về sắp xếp cải tiến hoạt động của doanh nghiệp và cơ chế chính sách đối với nó để đảm bảo động lực phát triển, nhân tố kích thích sự hăng hái sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các công ty thành viên hoặc bộ phận trong DNNN sau khi cổ phần hóa về nguyên tắc coi như đã ra khỏi doanh nghiệp mẹ. Nhưng xét về thực chất thì công ty cổ phần mới vẫn gắn chặt với công ty mẹ và thông thường không muốn rời bỏ quan hệ mật thiết trong hệ thống của tổng công ty Nhà nước. Bởi vậy cổ phần hóa đã gợi mở mô hình tổng công ty đa sở hữu GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  10. §Ò ¸n m«n häc với thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vai trò chủ đạo ở đây bắt nguồn từ khả năng chi phối bằng sức mạnh kinh tế, từ lợi ích mà thành phần kinh tế chủ đạo dẫn dắt và mang lại cho các thành phần kinh tế khác. Trong thực tế đã bắt đầu xuất hiện công ty đa sỡ hữu kiểu này ở một vài DNNN có quy mô lớn nhưng mô hình này chưa được thể chế hóa và nhân rộng. Khi mô hình này được phát triển thì sẻ ẩn chứa khả năng hình thành các công ty đầu tư hoặc kinh doanh tài sản của Nhà nước, qua đó quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp sẻ chuyển thành quyền sở hữu giá trị dưới hình thức phổ biến là cổ phiếu. Trong nền kinh tế thị trường các công ty cổ phần các, công ty TNHH, tư nhân... đầu tư mua chứng khoán của nhau, đan xen xâm nhập nhau tạo nên những hình thái doanh nghiệp đa sở hữu, tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh nhưng lại gắn kết các thành viên trong xã hội ở hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói đây là xu hướng tích cực, ngày càng phổ biến làm cho các thành viên trong nền kinh tế có thể hợp sức nhau lại tạo nên một động lực mới cho tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. III). Tiến trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Cổ phần hóa là một phần quan trọng trong cải cách hệ thống doanh nghiệp Nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới kể từ đàu thập niên 80 của thế kỉ XX ở Việt Nam, cổ phần hóa DNNN là một quá trình tìm tòi thử nghiệm và từng bước tháo gỡ khó khăn trong quá trình triển khai. Trong quá trình đó Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, từng bước chỉ đạo đúng đắn cổ phần hóa góp phần sắp xếp, cũng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả của hệ thống DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian từ 1960 đến 1990 tức là trước thời điểm thực hiện cổ phần hóa, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh. Trong thời kì đổi mới ý tưởng về cổ phần hóa DNNN đã được hình thành khá sớm. Từ hội nghị Trung ương 3( khóa VI) về đổi mới cơ chế quản lí đã nêu: “ Nếu không đủ điều kiện để cũng cố và không cần thiết duy trì hình thức quốc doanh thì chuyển sang hình thức sở hữu khác ( kể cả cho tập thể, tư nhân thuê), hoặc giải thể, trước hết là những xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng không thuộc loại thiết yếu, xí nghiệp dịch vụ trang bị kĩ thuật thấp, bị thua lỗ thường xuyên. Những biện pháp cải cách tương đối có giá trị đột phá được qui định trong quyết định số 21/HĐBT ngày 14-11-1987 của hội đồng bộ trưởng. Nếu tính về số lượng các văn bản được ban hành thì vấn đề đổi mới DNNN chiếm vị trí hàng đầu trong hệ thống chính sách và pháp luật ở nước ta. Quyết định 21/HĐBT đã đề cập tới việc tiến hành thí điểm cổ phần hóa DNNN và giao cho bộ tài chính chủ trì. Nhưng do điều kiện thị trường chưa phát triển, tồn tại quá lâu trong cơ chế củ nên từ Trung ương đến cơ sở chưa hiểu hết vấn đề phức tạp này do đó chưa thống nhất về quan điểm. Ở giai đoạn này thì cổ phần hóa là một vấn đề mới đối với thực tiễn quản lí DNNN ở nước ta. Đầu năm 1990 trên cơ sở đánh giá kết quả sau 5 năm đổi mới, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành quyết định số 143/HĐBT ngày 10/5/1990 về chủ trương nghiên cứu làm thử xí nghiệp quốc doanh sang công ty cổ phần. Tuy vậy đến năm 1992 cả nước chưa cổ phần hóa được doanh nghiệp nào. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là quyết định 143/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng đặt ra quá nhiều mục tiêu không rõ ràng dễ gây hiểu nhầm đối với các doanh nghiệp và người lao động. Đến đại hội XII Đảng ta lại chủ trương thực hiện quan điểm: “ khẩn trương sắp xếp lại và đổi GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  11. §Ò ¸n m«n häc mới quản lí kinh tế quốc dân. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên”. Đại hội đã chỉ rỏ: “đối với những cơ sở không cần giữ hình thức quốc doanh, cần chuyển hình thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động. Khuynh hướng coi nhẹ kinh tế quốc doanh, muốn tư nhân hóa tràn lan, cho rằng chuyển sang cơ chế thị trường phải tư hữu hóa tất cả các tư liệu sản xuất là sai lầm. Tuy nhiên nếu duy trì và phát triển kinh tế quốc doanh một cách tràn lan, kéo dài cơ chế bao cấp cũng không đúng”. Cổ phần hóa DNNN có thể chia thành 4 giai đoạn chính: 1. Giai đoạn thứ nhất(1992-giữa năm 1998): Nhằm thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số 202/QĐ-HĐBT chỉ đạo tiếp tục triển khai tiếp tục tiến hành cổ phần hóa DNNN bằng việc chuyển thí điểm một số DNNN thành công ty cổ phần. Đây được coi là một mốc trong tiến trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta, đánh dấu tiến trình cổ phần hóa đang được xúc tiến và đang trong giai đoạn thí điểm. Để thực hiện Nghị quyết này theo chỉ thị số 84/TTg ngày 4/3/1993 của Thủ tướng Chính phủ đã chọn 7 doanh nghiệp, đồng thời cũng giao cho các bộ, các tỉnh các thành phố trực thuộc Trung ương chọn 1 đến hai doanh nghiệp để tiến hành thí điểm cổ phần hóa. Triển khai thực hiện theo tinh thần chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ các bộ ,nghành, địa phương đã thông báo đến từng doanh nghiệp để các doanh nghiệp tự nguyện tiến hành thí điểm chuyển doanh nghiệp mình thành công ty cổ phần. Cuối năm 1993 đã có 30 doanh nghiệp đăng kí thực hiện thí điểm cổ phần hóa nhưng vì nhiều lí do mà cả 7 doanh nghiệp đã đươc Chính phủ chọn và nhiều doanh nghiệp khác xin rút lui hoặc không tiếp tục làm thử. Điều này đã đặt chúng ta trước những khó khăn lớn và để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thí điểm cổ phần hóa Đảng ta đã chủ trương: “ để thu hút thêm các nguồn vốn, tạo động lực, ngăn chặn tiêu cực, thúc đẩy DNNN làm ăn có hiệu quả cần thực hiện các hình thức cổ phần hóa có mức độ phù hợp với tính chất và lĩnh vực sản xuất kinh doanh; Trong đó Nhà nước chiếm tỷ lệ cổ phần chi phối” . Hội Nghị giữa nhiệm kì khóa XII Đảng ta đã đặt ra yêu cầu: áp dụng từng bước vững chắc việc bán một tỷ lệ cổ phần cho công nhân viên chức làn việc tại doanh nghiệp; Thí điểm việc bán một phần cổ phần, cổ phiếu của một số DNNN cho một số tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp; Trên cơ sở cổ phần hóa tổ chức Hội đồng quản trị gồm đại diện cho sở hữu nhà nước, sở hữu công nhân và sở hữu và các chủ sở hữu khác... Mặc dù có sự chỉ đạo sít sao của Đảng với quan diểm rõ ràng nhưng kết quả thu được không cao, tới tháng 4/1996 chỉ có 5 doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần trong đó 2 trong tổng số 61 tỉnh thành và 3 trong số 7 bộ có doanh nghiệp cổ phần hóa. Cả 5 doanh nghiệp này đều là những doanh nghiệp nhỏ, sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong những lĩnh vực không quan trọng. Có thể nói giai đoạn thí điểm cổ phần hóa DNNN đã khjông đạt được những kết quả như mong đợi, tốc độ cổ phần hóa quá chậm và còn quá nhiều những vướng mắc khó khăn cần được tháo gỡ và rút kinh nghiệm. 2. Giai đoạn 2( giữa năm 1996-giữa năm1998): Đây là giai đoạn vừa làm vừa rút kinh nghiệm để tạo hành lang pháp lí cho các doanh nghiệp khi cổ phần hóa, hay nói cách khác đây là giai đoạn mở rộng cổ phần hóa. Với kinh nghiệm sau 4 năm tiến hành thí điểm cổ phần hóa và trước nhu cầu về vốn của các DNNN, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã chủ trương mở rộng cổ phần hóa bằng Nghị định 28/CP với những qui định rõ ràng, đầy đủ và GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  12. §Ò ¸n m«n häc cụ thể hơn về việc chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Sau hơn 2 năm thực hiện tính đến tháng 6/1998 cả nước đã tiến hành cổ phần hóa được 25 DNNN. Việc triển khai thực hiện Nghị định 25/CP vẫn còn khá nhiều vướng mắc bất cập như phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động sau cổ phần hóa..., đây chính là những rào cản bước đàu làm chậm tiến trình cổ phần hóa, tuy nhiên nếu nhìn nhận một cách khách quan thì cổ phần hóa trong giai đoạn này cũng đã đạt được những kết quả khả quan. 3. Giai đoạn 3(1998-2001): Trên cơ sở những kết quả bước đầu của giai đoạn mở rộng cổ phần hóa, Đảng ta đã chủ trương chủ trương đẩy mạnh tốc độ cổ phần hóa DNNN. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII đã yêu cầu: Đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, cần lập kế hoạch cổ phần hóa tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, làm ăn có hiệu quả phát huy tốt nguồn lực hiện có. Tiến hành thí điểm bán cổ phần cho người nước ngoài, khuyến khích nông dân tham gia sản xuất nguyên liệu cung ứng cho các nhà máy, xí nghiệp , tham gia mua cổ phần ở các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến nông sản... Từ thực tiễn kinh nghiệm ngày 4/4/1997 Bộ Chính trị ra thông báo số 63TB/TW “ ý kiến của Bộ Chính trị về tiếp tục triển khai tích cực và vững chắc cổ phần hóa DNNN”. Nhằm thực hiện quan điểm của Đảng ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP thay thế cho các văn bản về cổ phần hóa trước đó, cùng với chỉ thị 20/CT-TTg ngày 21/4/1998 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới DNNN. Nghị định này là một bước tiến lớn trong việc đẩy nhanh tốc độ cổ phần hóa, hạn chế bớt được những bất cập trong các văn bản chỉ đạo thực hiện trước đó. Nghị định này đã bước đầu cho những kết quả khả quan, đến 6 tháng cuối năm 1998 đã có 90 DNNN được cổ phần hóa gấp hơn 3 lần kết quả của những năm trước đó, đặc biệt năm 1999 cả nước cổ phần hóa được hơn 240 doanh nghiệp. Đạt được những thành công này một phần là nhờ ở sự chỉ đạo, giám sát, đôn đốc của các cơ quan, ban , nghành từ Trung ương đến cơ sở. Trong vòng hai năm các cơ quan Nhà nước đã ban hành 15 văn bản hướng dẫn tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong cổ phần hóa. Nhưng đến năm 2000 cả nước chỉ cổ phần hóa được 155 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp đạt 26% kế hoạch. Sự chững lại của cổ phần hóa có nhiều nguyên nhân nhưng một trong số các nguyên nhân chính vẫn là những bất cập về chính sách và cơ chế pháp lí. Trước tình hình đó Hội nghị Trung ương 3 khóa IX về sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước đã xác định: phải kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp có cơ cấu hợp lí và theo đó thì cổ phần hóa DNNN được xác định là khâu tạo ra những chuyển biến quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả DNNN. 4. Giai đoạn 4( giai đoạn mới): Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương khóa IX Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/NĐ-CP nhằm thay thế Nghị đinh 44/1998/NĐ-CP, đồng thời ra quyết định số 50/2002/QĐ-CP về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN và một số văn bản chỉ đạo thực hiện khác nhằm từng bước tháo gỡ những vướng mắc của các văn bản trước đó, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình cổ phần hóa. Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, các tỉnh, các tổng công ty rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp, xây dựng đề án đổi mới nâng cao hiệu quả của DNNN trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân. Bằng các hình thức sáp nhập, hợp nhất, GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  13. §Ò ¸n m«n häc giải thể, phá sản, giao bán, khoán, cho thuê và cổ phần hóa. Từ 2001-2003 cổ phần hóa được 979 doanh nghiệp, riêng 2003 là 611 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa. Các doanh nghiệp cổ phần hóa chỉ chiếm 6% tổng số vốn của DNNN, với tốc độ, số lượng và mức độ cổ phần hóa như vậy thì cổ phần hóa chưa thực sự tạo được những chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN như Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX đã đề ra. Bước sang năm 2004 Hội nghị Trung ương 9 khóa IX đã đề ra những điểm rất mới và rất quan trọng trong chủ trương đổi mới sắp xếp lại DNNN: “ kiên quyết đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các DNNN cần cổ phần hóa kể cả những doanh nghiệp lớn và một số tổng công ty làm ăn có hiệu quả, gắn với việc phát hành cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán giá trị DNNN được cổ phần hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp”. Cho đến nay tuy còn nhiều khó khăn nhưng kết quả cổ phần hóa đã phần nào phản ánh được những thành công nhất định. Giai đoạn Số DN cổ phần hoỏ Thí điểm (1992 – giữa 1996) 5 Mở rộng thí điểm theo Nghị định 28/CP (giữa 1996 - giữa 1998) 25 Đẩy mạnh cổ phần hoá theo Nghị định 44/1998/NĐ-CP (1998-2001) 745 Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá theo Nghị định 64/2002/NĐ- 2002 164 CP 2003 611 Tổng 1550 Nguồn: từ ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Số doanh nghiệp được cổ phần hóa trong 2 năm 2002 và 2003 tương đương với giai đoạn 1998-2001. tuy nhiên kêt quả còn nhiều hạn chế, số doanh nghiệp được cổ phần hóa không đạt mục tiêu đề ra, riêng 6 tháng đầu năm 2004 chỉ đạt được 16% kế hoạch ( chỉ tiêu đề ra trong năm nay là cổ phần hóa được 1770 đơn vị). IV). Đánh giá chung về quá trình cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn của Đảng. Mấy năm trước diễn biến khá chậm chạp. Đến hội Nghị lần thứ 9 Hội nghị Trung ương khóa IX Đảng ta đã chủ trương đẩy nhanh tiến độ, và đẩy mạnh hơn nữa công việc đó. Thực tiễn cổ phần hóa đang bắt đầu diễn ra sôi động, quá trình diễn ra không đơn giản vừa có những thuận lợi vừa có những khó khăn phức tạp, tuy nhiên sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp thì cổ phần hóa DNNN đã có được những thành công và những hạn chế nhất định. 1.Những thành tựu. 1.1. Những thành tựu mang tính định lượng. Chủ trương cổ phần hóa DNNN đã được thực hiện ở nước ta hơn 10 năm qua. Cho đến nay thì cả nước đã cổ phần hóa được 1790 DNNN. Trong 10 tháng của năm 2003 thì GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  14. §Ò ¸n m«n häc trong số 766 DNNN thực hiện việc chuyển đổi thì có 425 doanh nghiệp cổ phần hóa (nguồn tư ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp). Từ thực tiễn có thể thấy cổ phần hóa là hình thức chuyển đổi sở hữu chiếm ưu thế trong quá trình đổi mới sắp xếp lại DNNN. Từ năm 1992 đến tháng 6 năm 1998 cả nước đã cổ phần hóa được 30 DNNN. Trong đó có 5 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo cơ chế, chính sách thí điểm qui đinh tại quyết định 202/CT của Hội đồng bộ trưởng, 25 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo tinh thần Nghị định 28/CP của Chính phủ. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa trong thời gian này nhìn chung đều có những tiến bộ về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Cổ phần hóa đã thu hút được một nguồn vốn khá lớn trong xã hội tạo được động lực tốt cho doanh nghiệp phát triển, phát huy tích cực tính chủ động sáng tạo của người lao động. Từ đó góp phần làm tăng ngân sách Chính phủ, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động đồng thời khắc phục bớt được những tiêu cực trong các doanh nghiệp. Từ 2/6/1998 đến 31/12/1999 đã có thêm 340 DNNN và bộ phận DNNN được chuyển thành công ty cổ phần. Riêng trong năm 1999 đã có 250 doanh nghiệp được cổ phần. Nhìn chung sau khi Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ra đời cổ phần hóa DNNN đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã quy định các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa một cách rõ ràng và cụ thể hơn; Có sự quan tâm hơn đến người lao động đặc biệt là người lao động nghèo. Chính đây là nguyên nhân khiến chủ trương cổ phần hóa trở nên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp cũng như người lao động. Từ tháng 1/2000 đến cuối tháng 11/2002 cả nước đã cổ phân hóa được 523 doanh nghiệp, đưa tổng số doanh nghiệp được cổ phần hóa lên 907 doanh nghiệp. Năm 2002 đã có 427 DNNN được sắp xếp lại trong đó 164 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Năm 2003 có 766 doanh nghiệp được sắp xếp lại bằng 48% so với kế hoạch, trong đó có 425 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa. Và cho đến nay thì đã có 1.790 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa. Như vậy càng về sau thì tốc độ cổ phần hóa càng được đẩy mạnh và càng về sau thì quy mô các doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa hoặc chuyển đổi dưới hình thức khác càng lớn. Trước kia cả nước có khoảng 12.000 DNNN phần lớn các DNNN có quy mô vốn rất nhỏ và chiếm lĩnh hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. hơn 10 năm qua chúng ta đã sắp xếp điều chỉnh còn lại khoảng 5.000 doanh nghiệp, tuy hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với vị trí tiềm năng của nó nhưng các doanh nghiệp Nhà nước đã có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân: 63,8%GDP, 63% ngân sách, 72% kim ngạch xuất khẩu, trong khi 120.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đóng góp 20%GDP, 15% nguồn thu ngân sách, 12,5% kim ngạch xuất khẩu. Trong điều kiện đó thì cổ phần hóa DNNN là một giải pháp tốt để phát huy hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh, thể hiện là một khu vực kinh tế năng động, dường cột của nền kinh tế. Qua khảo sát 500 doanh nghiệp đã cổ phần hóa trên 1 năm cho thấy : vốn điều lệ tăng 50%, doanh thu tăng 60%, lợi nhuận trước thuế tăng 13,7%, nộp ngân sách tăng 45%, thu nhập của người lao động tăng 63%, cổ tức trung bình là 15,5%, số lao đôngb tăng 23%. Trước năm 2003 số DNNN được cổ phần hóa có vốn trên 10 tỷ chỉ chiếm 7,9% thì năm 2003 là 15%. Đây chính là những con số báo hiệu những chuyển biến tích cực của tiến trình cổ phân hóa DNNN. GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  15. §Ò ¸n m«n häc 1.2. Thành tựu của cổ phần hóa DNNN đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hóa và tác động của nó tới việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Bênh cạnh những kết quả về mặt số lượng đã được đề cập ở trên việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN còn đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế xã hội. 1.2.1. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa. Xét một cách tổng thể thì phần lớn các DNNN sau khi chuyển thành công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước. Qua báo cáo của các doanh nghiệp cổ phần hóa sau khi hoạt động được một năm thì doanh thu bình quân của các doanh nghiệp tăng gần gấp hai lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa kể cả những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Điển hình như công ty GEMADEPT khi bước vào cổ phần hóa vốn Nhà nước chỉ có 1,2 tỷ đồng được đánh giá lên thành 6 tỷ đồng, sau bảy năm hoạt động theo mô hình mới tổng số vốn đã lên tới 140 tỷ đồng; Hay như công ty bông Bạch Tuyết năm 1999 đạt 86 tỷ đồng, gấp 1,5 lần so với số doanh thu trước khi thực hiện cổ phần hóa là 55 tỷ đồng năm 1998. Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng bình quân hơn hai lần, cổ tức bình quân đạt từ 1-2% một tháng. Vốn của doanh nghiệp tăng gần 2,5 lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa. Chính nhờ hoạt động có hiệu quả các DNNN thực hiện cổ phân hóa chính là những công ty cổ phần đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam. điều này làm tăng uy tín cũng như vị thế của các DNNN được cổ phần hóa trên thương trường, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để cho các doanh nghiệp này có được một chổ đứng tốt trong nền kinh tế Việt Nam đang trong đà hội nhập và phát triển. 1.2.2. Về huy động vốn . Việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa DNNN đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thu hút được một nguồn vốn lớn trong xã hội để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Chỉ tính riêng 370 DNNN được cổ phần hóa tính đến ngày 31/12/1999 thì tại thời điểm cổ phần hóa giá trị phần vốn Nhà nước của các doanh nghiệp này là 1.349 tỷ đồng qua cổ phần hóa đã thu hút thêm được 1.432 tỷ đồng , đồng thời Nhà nước cũng thu được 714 tỷ đồng. Phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa đều tăng tử 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Chỉ tính riêng thành phố Hà Nội cuối năm 1998 ở 30 doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì giá trị phần vốn của Nhà nước là 80,8 tỷ đồng, tăng thêm 1,5 tỷ đồng so với giá trị ghi trên sổ sách kế toán, thành phố Hồ Chí Minh sau khi đánh giá lại 10 doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa thì giá trị lên tới 80 tỷ đồng tăng thêm 34 tỷ đồng...Như vậy khi thực hiện cổ phần hóa phần vốn của Nhà nước trong các công ty cổ phần không những không mất đi mà còn tăng thêm một lượng rất đáng kể, phần vốn nhàn rỗi mà các doanh nghiệp huy động được từ ngoài xã hội cúng rất lớn. Chúng ta lại nói tới công ty bông Bạch Tuyết như một doanh nghiệp điển hình của cổ phần hóa, sau khi tiến hành cổ phần hóa số lượng lao động tại thời điểm hiện tại là 205 người so với 198 trước khi tiến hành cổ phần hóa, thu nhập bình quân là 3,2 triệu đồng/người/tháng và lãi cổ tức năm 1998 là 7%. Tóm lại cổ phần hóa đã đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp được cổ phần, người lao động trong doanh nghiệp và các cổ đông góp vốn vào doanh nghiệp. 1.2.3. Về giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  16. §Ò ¸n m«n häc Cổ phần hóa là một giải pháp có hiệu quả tích cực đối với các vấn đề kinh tế xã hội. Việc các công ty cổ phần làm ăn hiệu quả phát đạt đã tạo cơ hội lớn về việc làm cho người lao động. Khi đang làm ăn có hiệu quả, nguồn vốn huy động được lớn thì các doanh nghiệp này có xu hướng mở rộng qui mô sản xuất, đầu tư thêm nhiều máy móc trang thiết bị... Do mở rộng sản xuất nên số lao động ở các doanh nghiệp đã thực hiện cổ phần hóa tăng bình quân 12%, riêng công ty cổ phần cơ điện lạnh thành phố Hồ Chí Minh(REE) số lao động tăng từ 334 người lên 731 người, công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An số lao động tăng từ 900 người lên 1.280 người. Và có nhu cầu tuyển thêm lao động để phục vụ cho hoạt động sản xuất của mình. Hầu hết các doanh nghiệp được cổ phần hóa thì việc làm và thu nhập của người lao động đều được đảm bảo ổn định và có xu hướng tăng lên. Số lao động trở thành cổ đông của doanh nghiệp cổ phần chiếm tỷ lệ khá lớn, riêng trong năm 2003 58% số cổ phần trong các doanh nghiệp cổ phần đều do những lao động chính trong các doanh nghiệp này nắm giữ. Tính đến 30/10/2003 quỹ hỗ trợ lao động dôi dư đã cấp 409,63 tỷ đồng hỗ trợ cho 387 doanh nghiệp, giải quyết 14.579 lao động dôi dư. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các công ty cổ phần tăng bình quân hàng năm là 20%, điển hình là công ty cổ phần đại lí liên hiệp vận chuyển thu nhập bình quân của lao động xí nghiệp này đã tăng gần 3 lần so với trước khi tiến hành cổ phần hóa từ 1,4 triệu đồng lên 4 triệu đồng/người /tháng (năm 1999). Với chủ trương cổ phần hóa, với cơ chế chính sách mới người lao động thực sự trở thành chủ nhân của các công ty cổ phần. Chính nhờ vậy họ đã nâng cao được tính chủ động sáng tạo, ý thực kỉ luật cũng như tình thần trách nhiệm nhằm đem lại hiệu quả cao nhất đối với công việc cung như đối với thành công của các doanh nghiệp từ đó làm cho sản lượng, chất lượng, doanh thu , lợi nhuận, tích lũy vốn tăng đáng kể sau mỗi năm hoạt động sản xuất kinh doanh. Tiến trình cổ phần hóa đã tạo một số lượng không nhỏ các công ty cổ phần, tính đén nay cả nước đã có khoảng 1790 công ty cổ phần được hình thành trên cơ sở các DNNN được cổ phần hóa.Việc cổ phần hóa đã có hiệu ứng khá tích cực đối với việc thành lập mới DNNN. Tình trạng thành lập các DNNN tràn lan đã diễn ra trong nhiều năm trước đó đã được khắc phục, trong ba năm 2001-2003 cả nước chỉ thành lập 59 DNNN hầu hết là các doanh nghiệp ở các lĩnh vực như dầu khí, năng lượng nguyên tử, sản xuất cơ khí. Năm 2003 thì số DNNN có lãi chiếm 77,2%, tổng số nộp ngân sách Nhà nước là 87.000 tỷ đồng , nợ xấu 8,5%. 2. Những hạn chế. Bên cạnh những thành công thì việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa đã bộc lộ nhiều hạn chế. Những hạn chế yếu kém của DNNN có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan. 2.1. Hạn chế lớn nhất của việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tốc độ cổ phần hóa còn chậm. Trong nhiều năm qua kể từ khi chúng ta bắt đàu tiến hành cổ phần hóa DNNN thì tốc độ cổ phần hóa diễn ra khá chậm mà như một số nhà phân tích kinh tế đã nói là cổ phần hóa đang diễn ra với tốc độ rùa bò. Theo dự kiến trong ba năm từ 200-2002 cả nước sẻ tiến hành cổ phần hóa 1.056 DNNN nhưng đến tháng 12/2002 thì chúng ta chỉ thực hiện được gần 50% so với dự kiến. Bộ thương mại đã đề ra kế hoạch cổ phần hóa 7 doanh nghiệp nhưng kết quả chỉ thực hiện được 1 doanh nghiệp; Chỉ tiêu đề ra trong năm 1999 là GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  17. §Ò ¸n m«n häc cổ phần hóa 12 doanh nghiệp nhưng thực tế chỉ thực hiện được 5 doanh nghiệp, năm 2000 chỉ thực hiện được cổ phần hóa ở 8 doanh nghiệp trong khi chỉ tiêu đề ra là 19 doanh nghiệp. Sang năm 2001 tình hình còn xấu hơn khi chỉ cổ phần hóa được 5 doanh nghiệp so với 19 doanh nghiệp đã đề ra, thậm chí trong năm 2002 chỉ tiến hành cổ phần hóa được 4 doanh nghiệp. Như vậy trong suốt 5 năm triển khai nghành thương mại chỉ cổ phần hóa được 23 doanh nghiệp chỉ đạt 20% so với kế hoạch năm. Đây chỉ là những con số điển hình cong thực tế thì còn rất nhiều bộ, nghành còn rất chậm trong việc sắp xếp đổi mới DNNN. 2.2. Việc thực hiện cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong tất cả các lĩnh vực , chủ yếu là các doanh nghiệp trong thuộc các nghành công nghiệp, thương mại và xây dựng, do đó số doanh nghiệp được cổ phần hóa không cao và các doanh nghiệp được cổ phần hóa chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác Nhà nước vẫn giữ lại một tỷ lệ đáng kể cổ phần của mình trong các công ty cổ phần nên nhìn chung việc cổ phần hóa chưa tác động đáng kể đến đến cơ cấu vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp, các công ty cổ phần chủ yếu được hình thành trên cơ sở các DNNN có quy mô nhỏ được cổ phần hóa. Năm 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số doanh 370 250 288 242 213 nghiệp đã cổ phần hóa Quy mô Dưới 10 tỷ 327 224 244 187 172 89% 90% 86% 78% 81% Trên 10 tỷ 43 26 44 55 41 11% 10% 14% 22% 11% Một số DNNN sau khi cổ phần hóa chưa có chiến lược sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chưa thực sự tích cực tuyên truyền kêu gọi sự đóng góp nguồn vốn ngoài xã hội vào hoạt động sản xuất kinh daonh của mình, chưa thực hiện đổi mới công nghệ trang thiết bị kĩ thuật mà chỉ chú trọng vào tiết kiệm giảm giá thành để tăng lợi nhuận, chia cổ tức. Mới chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt mà chưa có chiến lược phát triển lâu dài. Chính vì thế mà bên cạnh những doanh nghiệp sau khi cổ phần làn ăn có hiệu quả thì vẫn có những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả. Vì thế mà đã có một số doanh nghiệp sau khi tiến hành cổ phần hóa đã biến mất trên thương trường. Mặc dù số lượng doanh nghiệp này không nhiều nhưng đây chính là những tín hiệu không tốt làm cản trở đến tiến trình cổ phần hóa, ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp cổ phần hóa. 2.3. Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa đầy đủ,việc thực hiện chính sách đối với người lao động còn những bất cập. Vì thế chưa thực sự tạo điều kiện khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Khi chuyển từ cơ chế doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo luật doanh nghiệp không ít cán bộ quản lí vẫn điều hành công ty theo phương thức điều hành hoạt động của DNNN, chưa chuyển sang điều lệ và luật công ty, lúng túng trong xác định cơ cấu tổ chức bộ máy công ty và cơ chế hoạt động của công ty cổ phần. DNNN sau khi cổ phần hóa bị kì thị phân biệt GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  18. §Ò ¸n m«n häc đối xử như: khó vay vốn, bị chính các công ty mẹ cạnh tranh chèn ép. Quan hệ tài chính sau khi cổ phần hóa thiếu minh bạch, thủ tục định giá trị doanh nghiệp nói chung còn rườm rà, thường kéo dài, định giá trị doanh nghiệp thường thấp hơn thực tế gây tổn thất không nhỏ cho Nhà nước. Vẫn còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu tự do không đúng luật và điều lệ mà công ty không kiểm soát được. Chưa có hướng dẫn quy chế tài chính, chính sách tiền lương nên nhiều doanh nghiệp vẫn vận dụng cơ chế chính sách của doanh nghiệp Nhà nước. Và thực tế nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao động. Chính vì vậy số lượng lao động được giải quyết chế độ sau khi DNNN chuyển thành công ty cổ phần vẫn còn rất thấp. Đây cũng chính là một trong những rào cản chính trong tiến trình cổ phần hóa DNNN. 2.4. Sự chỉ đạo của các cấp còn thiếu sự kiên quyết và chưa sâu sát kịp thời, còn nặng về kêu gọi động viên chung chung, chưa đi sâu khảo sát tình hình, chưa xây dựng chương trình, đề án có căn cứ và khả thi cho từng doanh nghiệp cụ thể với tiến độ, lộ trình, bước đi. Chưa kiểm tra ,đánh giá và có biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh. Công tác tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng những mẫu hình tiên tiến về cổ phần hóa ở các nghành địa phương chưa được quan tâm chỉ đạo tích cực, chưa có sức thuyết phục rộng rãi PGS.TS Hồ Trọng Viên- những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa DNNN). 2.5. Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về quá trình cổ phần hóa vẫn còn bị xem nhẹ, nên chưa tạo ra được sự quan tâm hưởng ứng tích cực của xã hội. Một số cán bộ, công nhân chưa có được những hiểu biết cần thiết về công ty cổ phần do đó còn do dự, chưa thực sự ủng hộ và tham gia tích cực vào các công ty cổ phần nên đã gây ra những lãng phí đáng tiếc về nguồn lực, làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Tỷ lệ bán cổ phần trong xã hội còn thấp và chưa thành quy định bắt buộc, cổ phần hóa còn mang tính nội bộ. Toàn bộ quá trình cổ phần hóa không được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, thiếu những quy định bắt buộc phải công bố công khai từng bước cổ phần hóa, nhất là đối với các doanh nghiệp có nhiều lợi thế kinh doanh. Bên cạnh đó pháp luật còn khống chế tỷ lệ tối đa được mua cổ phần, đối với cá nhân là không quá5- 10%, đối với pháp nhân không quá 10-20%. Đây chính là những hạn chế trong việc mua cổ phần của người lao động lẫn các cá nhân các tổ chức kinh tế, xã hội muốn đầu tư vào doanh nghiệp. 2.6. Những hạn chế, trì trệ từ phía các doanh nghiệp, nhiều giám đốc doanh nghiệp Nhà nước tìm cách né tránh, trì kéo cổ phần hóa vì sợ mất những đặc quyền , đặc lợi đang có. Nhiều công nhân không muốn cổ phần hóa vì nhiều rủi ro và dễ mất việc làm...Nhiều doanh nghiệp Nhà nước tuy đã được chỉ định cổ phần hóa nhưng đang rối bời bởi nợi phải trả, nợ khó đòi, kĩ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ tổ chức quản lí còn nhiều yếu kém... nên chưa thể tiến hành cổ phần hóa được ngay. Các quy định về chế độ trách nhiệm cổ phần hóa còn nhiều bất cập...PGS.TS Hồ TrọngViên-những vấn đề đặt ra từ thực tiễn cổ phần hóa DNNN. Với tư cách là hình thức chuyến đổi sở hữu DNNN chủ yếu, việc cổ phần hóa chậm đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lai DNNN ở nước ta, ảnh hưởng không nhỏ tới những chỉ tiêu chung của nền kinh tế. GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  19. §Ò ¸n m«n häc V). Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam. Trong hơn 10 năm qua Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nền kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng DNNN vẫn đứng vững, vượt qua nhiều thử thách góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, thể hiện là đầu tàu trong nền kinh tế quốc dân đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, chuyển sang thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 10 năm thực hiện thì cổ phần hóa DNNN được coi là hình thức chuyển đổi sở hữu chủ yếu, tính tất yếu của nó thể hiện ở lí luận, thực tiễn cũng như những kết quả khả quan mà giải pháp này đem lại, và trong nhiều năm tới thì giải pháp này vẫn là lựa chọn hàng đầu của nước ta. Nếu đặt giải pháp này trong bối cảnh hiện nay sẻ càng thấy rõ hơn tính cấp bách của nó. Sự cần thiết phải đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hóa DNNN bắt nguồn từ những nguyên nhân chính sau: Do nền kinh tế nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng kém phát triển nên áp lực cải cách DNNN trở nên nặng nề hơn, căn cứ vào tỷ lệ nghèo đói và các chỉ số phát triển khác thì nước ta vẫn nằm trong danh sách các quốc gia chậm phát triển. Theo báo cáo phát triển thế giới thì Việt Nam đang nằm trong số các nước có thu nhập thấp với tổng thu nhấp quốc dân là 34,9 tỷ USD và bình quân đầu người là 430 USD. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế bao trùm chi phối toàn bộ sự phát triển kinh tế –xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đén chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hóa và dịch vụ, laọi bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. đương nhiên đối với những nước đang phát triển, kinh tế còn yếu kém, doanh nghiệp còn nhỏ bé, sức cạnh tranh còn thấp, trình độ quản lí Nhà nước và kinh doanh còn hạn chế thì hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có cơ hội mà còn có cả khó khăn thử thách, thậm chí khó khăn là rất lớn. Đối với nước ta hiện nay vấn đề đặt ra hiện nay không phải là hội nhập hay không hội nhập mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo lợi ích dân tộc, nâng cao được sức cạnh tranh của nền kinh tế. Báo cáo chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc và văn hóa dân tộc,bảo vệ môi trườn sinh thái”. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hóa là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2001_2010. tuy nhiên hạn chế lớn nhất của nền kinh tế nước ta nói chung cũng như các doanh nghiệp nói riêng là sức cạnh tranh còn yếu kém, chậm được cải thiện. Sức cạnh tranh và năng lực quản lí doanh nghiệp còn yếu...và theo lộ trình thì chúng ta đang chủ trương xúc tiến để có thể gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2005. Như vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh để tồn tại, cạnh tranh ngay chính trị trường GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
  20. §Ò ¸n m«n häc nội địa và cả ở thị trường quốc tế. Và thực tế đó đã đặt ra yêu cầu là DNNN cần được tiếp tục sắp xếp đổi mới để nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh, thực sự là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tiến độ cổ phần hóa trong những năm vừa qua tuy có những bước phát triển song so với yêu cầu đổi mới thì nó vẫn chưa đáp ứng được. Trong giai đoạn tới Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cải cách DNNN thông qua cổ phần hóa. Nghị quyết Hội nghị trung ương Đảng khóa IX đã nhấn mạnh: “ tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực DNNN, trọng tâm là cổ phần hóa mạnh hơn nữa...”, “ đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, mở rộng diện các DNNN cần cổ phần hóa, kể cả một số tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các nghành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, dường sông, hàng không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm”. Nghị quyết hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN đã chỉ rõ mục tiêu 10 năm 2001-2010 là “ sắp xếp, đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN để DNNN góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục tiêu cổ phần hóa DNNN là nhằm; Tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh. Tạo động lực mạnh mẻ và cơ chế quản lí năng động, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp; Bảo đảm hài hòa lợi ích của các đối tượng từ người lao động, doanh nghiệp cho đến Nhà nước. Cổ phần hóa trong thời gian qua chủ yếu diễn ra đối với các DNNN có quy mô nhỏ, không có tác động lớn tới cơ cầu vốn, đầu tư cũng như vị thế của các DNNN trong nền kinh tế. Vấn đề không chỉ bổ sung đối tượng cổ phần hóa mà cần mạnh dạn tiến hành cổ phần hóa các DNNN lớn, các tổng công ty mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn, không cần nắm giữ cổ phần chi phối... để cổ phần hóa các tổng công ty cần vạch rõ cách thức tiến hành, việc cổ phần hóa toàn bộ tổng công ty phải dần dần từng bước một, không nóng vội chủ quan, gắn liền với quá trình tổ chức lại tổng công ty theo mô hình công ty mẹ-công ty con và tập đoàn kinh tế. Nên áp dụng các hình thức cổ phần hóa, chuyển sang công ty TNHH một thành viên hoặc sát nhập thành đơn vị hạch toán phụ thuộc tổng công ty; Đối với các liên doanh đã hình thành từ trước khi cổ phần hóa thì tùy theo cơ cấu vốn sở hữu của tổng công ty mà trở thành công ty con hoặc công ty liên kết. Bên cạnh đó cần thị trường hóa giá trị tài sản DNNN thực hiện cổ phần hóa để từ đó có cái nhìn khách quan hơn về doanh nghiệp, về các nguồn lực hiện có của doanh nghiệp từ đó đưa ra những giải pháp đổi mới doanh nghiệp có hiệu quả hơn. Khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ trong doanh nghiệp, mở rộng đối tượng mua cổ phần sao cho cổ phần hóa trở thành một chủ trương mang tính xã hội, đại chúng sâu rộng, thu hút được sự ủng hộ và tham gia nhiệt tình của người dân. GVHD: TS. Vò ThÞ Minh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2