intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TÌM CÁCH BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU

Chia sẻ: Nhi Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

95
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo tài liệu 'tìm cách bảo vệ thương hiệu', kinh doanh - tiếp thị, quản trị kinh doanh phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TÌM CÁCH BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU

  1. TÌM CÁCH BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU-PHẦN 1 Hiện nay Việt Nam chưa có định nghĩa pháp lý về thương hiệu và trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thương hiệu. Nhưng có thể nói một cách tương đối rằng thương hiệulà một khái niệm rộng bao hàm nhiều yếu tố để nhận diện một doanh nghiệp (DN) bao gồm tên thương mại, nhãn hiệu, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, phong cách kinh doanh, danh tiếng DN... Như vậy có thể thấy nhãn hiệu được bao hàm trong khái niệm thương hiệu. Việc xây dựng thương hiệu đã trở thành vấn đề sống còn của DN bởi phần lớn DN Việt Nam có quy mô vừa, nhỏ và rất nhỏ, khả năng định vị trên thị trườngcòn yếu. Hiện tại chính là thời điểm các DN Việt Nam cần tìm cách nâng cao uy tín và thương hiệu để tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường, mà trước hết là thị trường trong nước. Việc xây dựng thương hiệu hiện nay đã không còn là chuyện của các DN mới thành lập mà ngay cả những DN có thương hiệu đã nổi tiếng, có tuổi đời hàng chục năm cũng sẵn sàng thay đổi hệ thống nhận dạng thương hiệu của mình cho phù hợp với chiến lược phát triển của DN trong từng giai đoạn. Trong tiến trình xây dựng thương hiệu, các DN cũng cần quan tâm đến việc bảo vệ thương hiệu của DN mình. Việc bảo vệ thương hiệu bao gồm khía cạnh xác lập quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) và thực thi quyền SHTT. Việc xác lập quyền SHTTđược thực hiện theo Luật về SHTT 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Như được quy định trong Điều 6 Luật SHTT 2005, nhãn hiệu được bảo hộ trên cơ sở Giấy chứng nhận đăng ký Cục SHTT cấp, trong khi đó tên thương mại được bảo hộ trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó. Nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHTT còn được xác lập trên cơ sở pháp luật cạnh tranh. Các quy định về thực thi quyền SHTT được đề cập chủ yếu trong pháp luật về SHTT, pháp luật về cạnh tranh và Bộ luật Hình sự 1999. Điều 129 Luật SHTT quy định các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu và tên thương mại bị xử lý vi phạm theo pháp luật về SHTT, bao gồm các hành vi sau.
  2. (i) sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó; (ii) sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ; hoặc (iii) sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ; và (iv) sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng. Điều lưu ý là mọi hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc tương tự với tên thương mại của người khác đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm, dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó đều bị coi là xâm phạm quyền đối với tên thương mại. Các biện pháp xử lý vi phạm theo pháp luật SHTT bao gồm các biện pháp hành chính, dân sự và hình sự. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT, biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của Luật SHTT và các quy định pháp luật có liên quan. Cụ thể bao gồm các điểm sau: 1. Các biện pháp xử phạt hành chính: phạt cảnh cáo và phạt tiền. Tuỳ theo tính chất, mức độ xâm phạm, tổ chức, cá nhân xâm phạm quyền SHTT còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung tịch thu hàng hoá vi phạm, nguyên vật liệu và phương tiện sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá; hoặc đình chỉ có thời hạn hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy. Ngoài ra các biện pháp buộc khắc phục hậu quả cũng được áp dụng đối với các hành vi vi phạm nói trên. Mức phạt tiền cao nhất là 500 triệu đồng 2. Các biện pháp dân sự: buộc chấm dứt hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thường thiệt hại; và buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá vi phạm xâm phạm quyền SHTT với điều kiện không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền SHTT. Thiệt hại bên bị vi phạm có thể yêu cầu bồi thường bao gồm thiệt hại thực tế về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Trong trường hợp không thể xác định được thiệt hại thực tế về vật chất theo các bằng chứng chứng minh của bên bị vi phạm (nguyên đơn) thì mức bồi thường thiệt hại sẽ do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng không quá 500 triệu đồng.
  3. Mức bồi thường thiệt hại về tinh thần được tòa án quyết định trên cơ sở yêu cầu và chứng minh của nguyên đơn trong phạm vi từ 5 triệu đến 50 triệu đồng. 3. Các hình phạt hình sự được áp dụng đối với người phạm tội về SHTT bao gồm phạt tiền với mức cao nhất tới 200 triệu đồng, cải tạo không giam giữ tới 2 năm hoặc phạt tù tới 3 năm.
  4. TÌM CÁCH BẢO VỆ THƯƠNG HIỆU –PHẦN 2 Tiếp theo kỳ trước, tác giả cụ thể hóa những hành vi xâm phạm tới cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới thương hiệu doanh nghiệp cùng những khuyến nghị phòng tránh. Theo Điều 130 Luật Sở hữu trí tuệ SHTT 2005, có hai hành vi sau đây bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Thứ nhất, sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ. Thứ hai, đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng. Chỉ dẫn thương mại ở đây là các dấu hiệu, thông tin nhằm hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá, nhãn hàng hoá. Dưới góc độ kinh tế học, hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn với doanh nghiệp khác luôn mang bản chất bóc lột bởi vì khi sử dụng các thông tin làm khách hàng nhầm lẫn, doanh nghiệp vi phạm đã cố ý dựa vào danh tiếng của sản phẩm khác hoặc doanh nghiệp khác để tiêu thụ sản phẩm của mình. Bản chất bóc lột thể hiện ở việc doanh nghiệp đã hưởng thành quả đầu tư của người khác một cách bất chính. Dưới góc độ pháp lý, hành vi vi phạm đã xâm hại quyền được bảo hộcủa các thành quả đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp. Dưới góc độ quyền lợi của người tiêu dùng, hành vi vi phạm với những thông tin gây nhầm lẫn đã tác động trực tiếp đến ý thức của khách hàng, làm cho họ không thể lựa chọn đúng sản phẩm mà họ muốn, xâm phạm quyền tự do lựa chọn của người tiêu dùng. Hành vi này thực sự
  5. nguy hại cho xã hội khi sản phẩm bị giả mạo các chỉ dẫn thương mại là sản phẩm kém chất lượng. Luật Cạnh tranh năm 2005 cấm doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn thương mại làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh. Để tạo ra nhận thức sai lệch của khách hàng, chỉ dẫn thương mại được sử dụng có thể là giả mạo chỉ dẫn thương mại của thương nhân khác hoặc là những chỉ dẫn thương mại có khả năng gây nhầm lẫn với hàng hoá, dịch vụ với thương nhân khác. Như vậy, việc sử dụng những chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn không chỉ xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng mà còn có thể xâm hại đến lợi ích của đối thủ cạnh tranh. Biểu hiện tập trung của những hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn là việc sản xuất và cho lưu hành hàng hoá và sản phẩm mà các dữ kiện và thông số về chúng là không trung thực. Hành vi này từng được coi là hành vi làm "hàng giả" và có thể bị được xử lý bằng pháp luật hình sự. Tuy nhiên, theo cách hiểu chung của các quốc gia có pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh thì "hàng giả", "hàng nhái" không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật hình sự. Bởi lẽ, đối tượng bị xâm phạm là lợi ích của các hãng sản xuất "chính hiệu"- các đối thủ cạnh tranh và vì vậy những hành vi này không nhất thiết phải gây nguy hiểm cho xã hội. Cần lưu ý rằng, những chỉ dẫn thương mại mà có thể bị xâm hại hay tạo sự nhầm lẫn phải là những chỉ dẫn được bảo hộ hợp pháp. Pháp luật của các nước đều chỉ cấm những hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn khi nguồn gốc của sản phẩm chính hiệu là có thật, đã được bảo hộ và hành vi đó phải nhằm mục đích cạnh tranh, nhằm tìm cách thay thế hay gây nhầm lẫn với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói trên có thể bị xử lý bằng biện pháp dân sự như đã nêu trên của Luật SHTT hoặc các biện pháp hành chính theo quy định của pháp luật cạnh tranh bao gồm: phạt cảnh cáo, phạt tiền và các hình thức phạt bổ sung, yêu cầu khắc phục hậu quả với mức phạt tiền lên tới 20 triệu đồng. Từ phân tích các khía cạnh pháp lý về bảo vệ thương hiệu của doanh nghiệp như trên, việc đầu tiên doanh nghiệp phải làm để bảo vệ thương hiệu của mình là xác lập quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa, biểu tượng kinh doanh, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, bí mật kinh doanh, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh ... Điều cần lưu ý là tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh của doanh nghiệp cũng có thể được bảo hộ như một nhãn hiệu của doanh nghiệp nếu chúng được đăng ký dưới hình thức nhãn hiệu hàng hóa/ nhãn hiệu dịch vụ của doanh nghiệp và điều này có thể tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHTT của doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê của Cục Sở SHTT, năm 2007 có khoảng 27.000 đơn xin đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tại Việt Nam, trong đó số đơn của doanh nghiệp Việt Nam tăng hơn nhiều so với những năm trước và chiếm khoảng 72% tổng số đơn, và số lượng nhãn hiệu được cấp đăng ký bảo hộ của doanh nghiệp trong nước là khoảng 67%.đề tiếp theo doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm là việc theo dõi và phát hiện những hành vi vi phạm thương hiệu của mình và yêu cầu các cơ quan nhà nước áp dụng các biện pháp thực thi quyền SHTTđể bảo vệ thương hiệu của mình một cách có hiệu quả.
  6. Xa hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm đến việc xác lập và bảo vệ quyền SHTT đối với thương hiệu của mình ở nước ngoài, tạo tiền đề cho việc phát triển công việc kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường thế giới.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2