intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu lịch sử về Đảng Cộng sản Việt Nam

Chia sẻ: Le Thi Thuan Thuan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

254
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tham luận đi sâu phân tích bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam qua văn kiện các kỳ đại hội, tư tưởng Hồ Chí Minh, và đều khẳng định: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam là bất di bất dịch và đây cũng là một trong những bài học thành công của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong gần 20 năm qua. Nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta nên thống nhất với tư tưởng của Hồ Chí Minh tại Đại hội II...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu lịch sử về Đảng Cộng sản Việt Nam

  1. Cau2: phân tích lận điểm “chính vì đảng LĐVN là đảng của giai cấp công nhân và nông dân lao động cho nên nó phải là đảng của dân tộc VN” . Bản chất. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các tham luận đi sâu phân tích bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam qua văn kiện các kỳ đại hội, tư tưởng Hồ Chí Minh, và đều khẳng định: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam là bất di bất dịch và đây cũng là một trong những bài học thành công của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trong gần 20 năm qua. Nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta nên thống nhất với tư tưởng của Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng (năm 1951): Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, các tác giả đã phân tích thêm: Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng - ghen đưa ra một luận điểm hết sức quan trọng là, trong quá trình phát triển của mình giai cấp công nhân sẽ trở thành dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiền phong của giai cấp công nhân mà còn là đội tiền phong của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Bởi vì, Đảng Cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, trong đấu tranh giải phóng dân tộc và cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước. Thành tựu toàn diện về mọi mặt của gần 20 năm đổi mới vừa qua là một trong những minh chứng hùng hồn cho điều đó. Không phải ngẫu nhiên mà trong nhân dân, trong các tầng lớp xã hội, từ miền núi đến miền xuôi, từ nông thôn đến thành thị khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam đều trân trọng gọi là "Đảng ta”…với hàm ý Đảng là máu thịt, là hạt nhân lãnh đạo của mọi tầng lớp nhân dân. Điều đó càng chứng tỏ, nhân dân lao động thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là người đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn là người đại diện cho lợi ích của chính mình và của toàn thể dân tộc. Với cách diễn đạt này sẽ có lợi hơn cho việc đoàn kết dân tộc. Tất nhiên, cách diễn đạt như vậy không hề hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của đảng, bởi trên thực tế, tính tiên phong của giai cấp công nhân trong mọi hoạt động của Đảng luôn được đưa lên hàng đầu, luôn được nêu lên trước. Có thể thấy, mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng cuối cùng đều khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân. Vấn đề đặt ra là, khi bàn về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta cần có cách diễn đạt sao cho phù hợp với điều kiện hiện nay, để vừa không phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vừa phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Đặc điểm xã hội việt nam * Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một xã hội: - Do nhân dân lao động làm chủ. - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. - Có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Sáu đặc trưng nêu trên thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng, một xã hội tiến bộ nhất so với các chế độ xã hội đã xuất hiện trước đây. Trong xã hội đó, nhân dân lao động là người chủ chân chính và thực sự của xã hội. Nó chi phối và thể hiện trong toàn bộ thể chế của xã hội, đều hướng vào việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đó là sự khác nhau về chất giữa chủ nghĩa xã hội với các chế độ xã hội trước đó. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng phải có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và lực lượng sản xuất hiện đại, là cơ sở kinh tế để xóa bỏ nguồn gốc của chế độ người bóc lột người, con người được giải phóng có điều kiện phát triển toàn diện, tạo ra sự bình đẳng trong xã hội và đoàn kết giữa các dân tộc, có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xây dựng không chỉ có nền kinh tế phát triển cao mà còn phải xây dựng một nền văn hóa tương ứng, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều đó đảm bảo sự phát triển hài hòa, lành mạnh của chủ nghĩa xã hội. Những đặc trưng trên gắn bó mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, vừa làm tiền đề, điều kiện, vừa tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển. Cùng với quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, vấn đề có ý nghĩa quan trọng là phải xác định được con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. * Để góp phần xây dựng đất nước, người thanh niên thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là người có lý tưởng và đạo đức cách mạng; có lối sống văn hoá; có ý chí tự tôn, tự cường dân tộc, có
  2. trình độ học vấn, giỏi về chuyên môn, nghề nghiệp; có sức khoẻ tốt; có năng lực, tiếp cận và sáng tạo công nghệ mới, có ý chí chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, mỗi đoàn viên, thanh niên cần phải: - Trau dồi về lý tưởng, rèn luyện đạo đức. Sống có văn hoá, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước. Gương mẫu trong cộng đồng, làm tròn bổn phận của người công dân. - Tích cực học tập nâng cao trình độ về chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ. Ra sức nâng cao tay nghề, kỹ năng lao động, trình độ ngoại ngữ, tin học. Vươn lên nắm vững khoa học, kỹ thuật, công nghệ. - Hăng hái tham gia các hoạt động tình nguyện, ngày thứ bảy tình nguyện; tham gia các đội hình thanh niên tình nguyện, sẵn sàng đảm nhận việc khó, việc mới, những vấn đề bức xúc; chủ động tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn quốc phòng, an ninh ở mỗi địa phương, đơn vị. - Phấn đấu nâng cao chất lượng của người đoàn viên; tích cực tham gia các hoạt động của Đoàn, Hội, Đội; mỗi đoàn viên gắn hoạt động của mình với hoạt động của tập thể thanh niên nơi mình sinh sống hoặc công tác. Người đoàn viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trước hết phải là: Người công dân tốt; Người bạn tốt của thanh niên; Là tấm gương tốt của thiếu nhi; Là người có uy tín trong tập thể thanh niên và cộng đồng dân cư. Cau 3: Các yếu tố ra đời của đảng - Trước năm 1930, phong trào yêu nước ở Việt Nam nổ ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, do bị khủng hoảng về đường lối cách mạng. Tình hình đang đặt ra yêu cầu cần phải có đảng của giai cấp tiên tiến nhất với đường lối đúng đắn để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. - Từ năm 1919 đến 1929, thông qua hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị các điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng. Nguyễn Ái Quốc đã ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng chính trị. Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để thông qua tổ chức này truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam. - Những năm 1928-1929, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá sâu rộng vào Việt Nam, làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo. Đáp ứng yêu cầu đó ở Việt Nam lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản. Sự hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng sản gây ảnh hưởng không tốt đến tiến trình cách mạng Việt Nam, cần phải hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất. - Trước tình hình đó, được sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc về Hương Cảng (Trung Quốc) chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930). * Vai trò của Nguyễn Ái Quốc: - Trực tiếp tổ chức và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng - Trung Quốc vào ngày 3/2/1930. - Phê phán những hành động thiếu thống nhất của các tổ chức cộng sản trong nước trong việc tranh giành quyền lãnh đạo, tranh giành quần chúng, tranh giành đảng viên. - Đặt ra yêu cầu cấp thiết phải hợp nhất các tổ chức cộng sản để đi đến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. - Viết và thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt. Đó chính là cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã vạch ra những nét cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam. - Đề ra kế hoạch để các tổ chức cộng sản về nước xúc tiến việc hợp nhất, rồi đi đến thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hình thành của đảng cộng sản việt nam - Đảng CS VN ra đời đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở VN trong thời đại mới.
  3. - Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh CM đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về đường lối CM kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ 20. - Đảng CSVN ra đời là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử CMVN, là tiền đề cho những thắng lợi vĩ đại trong lịch sử đấu tranh của dân tộc VN, CMVN. - Đảng ra đời làm cho CM VN trở thành một bộ phận khăng khít của CM TGiới. Từ đây GCCN và nhân dân lao động VN tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh CM của nhân dân TG. - Sự ra đời của đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến hoá của dân tộc VN. ****3 tổ chức cộng sản Đông Dương Cộng Sản Đảng , An Nam Cộng Sản Đảng , Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn ra đời . Tuy nhiên 3 đảng nói trên lại hoạt động riêng lẻ , tranh giành ảnh hưởng với nhau. Tình hình đó nếu kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn . Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là có 1 đảng Cộng Sản thống nhất trong cả nước . **** Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử giai cấp công nhân và cách mạng Việt Nam , khẳng định giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng ,chấm dứt thời kì khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam . Từ đây , cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng Sản Việt Nam . Cũng từ đây , cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới Bảy mươi năm đã trôi qua kể từ khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. So với lịch sử của dân tộc, khoảng thời gian này ngắn ngủi. Nhưng đây là thời gian chứng kiến quá trình đấu tranh mạnh mẽ, sôi động và vô cùng oanh liệt của dân tộc ta qua bốn mốc lịch sử quan trọng. a) Đảng cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 - Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở nước ta trong thời đại mới, là sản phẩm của sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào yêu nước và phong trào công nhân Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ này. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đó là mốc đánh dấu sự chuyển biến của giai cấp công nhân Việt Nam từ trình độ tự phát sang trình độ tự giác. Đó là mốc đánh dấu bước ngoặt trọng đại lịch sử cách mạng nước ta. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta kéo dài trong hàng chục năm được giải quyết.Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đương đầu với mọi kẻ thù, liên tiếp giành được những thắng lợi vĩ đại. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, mở đầu bằng cách mạng tháng tám năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. b) Cách mạng tháng Tám năm 1945 - Trải qua các thời kì cách mạng 1930 – 1931 với đỉnh cao Xô viết Nghệ – Tĩnh, thời kì vận động dân chủ 1936-1939, thời kì vận động giải phóng dân tộc từ tháng 9-1939 đến tháng3-1945, thời kì cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tháng 3-1945 đến tháng8-1945; Đảng đã từng bước xây dựng được một lực lượng chính trị quần chúng hùng hậu, từng bước vũ trang quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng khi có điều kiện. Lực lượng vũ trang đó được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc đã góp phần quan trọng tạo lập các căn cứ địa cách mạng, các khu giải phóng. Dựa vào ưu thế cách mạng to lớn đó, bắt mạch và chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa vũ trang khôn ngoan và sáng tạo, Đảng đã đưa cuộc tổng khởi nghĩa tiến lên thắng lợi trọn vẹn trong toàn quốc. - Trong thời gian rất ngắn, Cách mạng tháng Tám đã đập tan xiềng xích nô lệ thực dân trong gần một thế kỉ, đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế mấy nghìn năm, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân độc lập tự do, làm chủ vận mệnh của mình.
  4. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỷ nguyên mới của đất nước: kỉ nguyên độc lập, tự do. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh tự giải phóng, nhất là đối với hai dân tộc Campuchia và Lào. c) Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi năm 1954 - Chín năm kháng chiến chống Pháp cực kì gian khổ. Chiến thắng Việt Bắc năm 1947 thắng lợi, xuất hiện hình thái chiến tranh xen kẽ, cài răng lược giữa ta và địch ngày càng rõ rệt. Từ cuối năm 1948 đến đầu năm 1950, nhiều chiến dịch nhỏ đã thu hẹp vùng chiếm đóng của địch. Mùa thu năm 1950, chiến dịch Biên giới thắng lợi, giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đã được ghi vào lịch sử dân tộc, như một chiến công chói lọi thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. - Với mốc lịch sử 1954, lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và bọn can thiệp Mĩ, bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng tháng tám, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, mở ra thời kì mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc, đồng thời tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. d) Cuộc kháng chiến chống mĩ cứu nước thắng lợi 1975 - Hơn 20 năm (từ tháng 7-1954 đến tháng 5-1975) kháng chiến chống Mĩ cứu nước, nhân dân ta vừa phải dốc hết sức mình vào cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại – cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc tiêu biểu của nhân dân ta kéo dài hơn bất cứ cuộc chiến tranh nào trong lịch sử, chống lại một đế quốc lớn mạnh nhất là đế quốc Mĩ, và phải xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Chún ta đã thắng lợi trong cuộc “Chiến tranh đặc biệt” (1954-1960), “Chiến tranh cục bộ (1965-1968), ‘Việt Nam hóa” chiến tranh (1969-1973) của Mĩ ở miền Nam và dồn sức giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc (1973-1975). Nhân dân ta đã thực hiện trọn vẹn mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, thống nhất đất nước. - Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ cách mạng tháng Tám năm 1945; chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, và chế độ phong kiến ở nước ta, rửa sạch nổi nhục và nổi đau mất nước hơn một thế kỉ của dân tộc ta. Trên cơ sở đó hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu kinh tế- xã hội ở miền Bắc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã mở ra kỉ nguyên của cách mạng Việt Nam- kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam qua bốn mốc lịch sử quan trọng đã ghi nhận thời kì phát triển cách mạng nhất trong lịch sử dân tộc. Trong nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thì sự lãnh đạo của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu là nhân tố bao trùm, chủ yếu tạo nên thắng lợi. Ý kiến bạn đọc - Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, với truyền thống yêu nước nồng nàn, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống giặc ở khắp mọi nơi. Tuy nhiên các phong trào đấu tranh đó đều thất bại, nguyên nhân chủ yếu là chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn, chưa có một lực lượng xã hội, một giai cấp tiên tiến và một tổ chức cách mạng chặt chẽ đủ sức lãnh đạo phong trào. Cách mạng Việt Nam đứng trước sự bế tắc và khủng hoảng về đường lối cứu nước. - Nguyễn Ái Quốc, nhà yêu nước vĩ đại, sau bao năm bôn ba khắp năm châu bốn biển đã gặp được Chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm được con đường cứu nước đúng đắn : “ Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây là bước ngoặt đánh dấu sự chuyển biến mở đường thắng lợi cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
  5. Nguyễn Ái Quốc đã truyền bá Chủ nghĩa Mác -Lênin về Việt Nam, sáng lập và trực tiếp huấn luyện cho Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, chuẩn bị tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng. Từ ngày 3 đến ngày 7 -2-1930, tại Quảng Châu - Trung Quốc - Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản được triệu tập dưới sự chủ trì và lãnh đạo của Đ/C Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã nhất trí thành lập một Đảng thống nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua các văn kiện : Chính cương vắn tắt, Điều lệ tóm tắt ... Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản Việt Nam mang ý nghĩa lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng . Cau3 ;Vì sao đảng ta đề ra đường lối đổi mới về kinh tế, nội dung và những thành tựu hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế như thế nào? Thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1986 - 2006) 1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) và thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm (1986-1990) a) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Đại hội họp từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986 tại Hà Nội (Đại hội nội bộ từ ngày 05 đến ngày 14-12-1986). Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước và 32 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế. Đại hội VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế nước ta càng trở nên khó khăn (tháng 12-1986, giá bán lẻ hàng hoá tăng 845,3%). Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình hình này làm cho trong Đảng và ngoài xã hội có nhiều ý kiến tranh luận sôi nổi, xoay quanh thực trạng của ba vấn đề lớn: cơ cấu sản xuất; cải tạo xã hội chủ nghĩa; cơ chế quản lý kinh tế. Thực tế tình hình đặt ra một yêu cầu khách quan có tính sống còn đối với sự nghiệp cách mạng là phải xoay chuyển được tình thế, tạo ra sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên con đường đi lên và như vậy phải đổi mới tư duy. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thực, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được sau 10 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đi sâu phân tích những tồn tại và nghiêm khắc tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng trong 10 năm (1976-1986). Đại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học và đánh giá cao quá trình dân chủ hóa sinh hoạt chính trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội. Đại hội đã đánh giá những thành tựu, những khó khăn của đất nước do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra, những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm đó, đặc biệt là sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Báo cáo chính trị tổng kết thành bốn bài học kinh nghiệm lớn: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc". Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo. Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội cho những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: - Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ. - Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba ch-ương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể hóa nội dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ. Làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động. - Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ
  6. cương phép nước. - Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Đại hội đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội và đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Coi nền kinh tế có nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, dứt khoát xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Những thành tựu từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng hơn 20 năm qua khẳng định đường lối đổi mới kinh tế của Đảng đề ra trong từng thời kỳ là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan và đáp ứng được lòng mong muốn của nhân dân ta, đã đem lại kết quả đáng khích lệ và tạo khả năng cho nền kinh tế phát triển tốt hơn trong những năm tới. I. Những chủ trương, chính sách lớn của Đảng về đổi mới lãnh đạo kinh tế và kết quả đạt được Sau ngày giải phóng miền Nam 1975, cả nước tiến lên CNXH. Thực trạng kinh tế của miền Nam là một nền kinh tế hỗn hợp giữa sản xuất hàng hóa nhỏ đa sở hữu do thời kỳ thực dân Pháp đô hộ để lại, với kinh tế thực dân kiểu mới do Mỹ du nhập. Kinh tế miền Bắc sau 20 năm giải phóng (1954-1974), tuy đã có một bước phát triển nhưng vẫn là một nền sản xuất nhỏ lạc hậu được xây dựng theo mô hình kinh tế của Liên Xô cũ và một số nước XHCN Đông Âu. Từ thực trạng kinh tế trên đây, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã chủ trương xây dựng trong cả nước một nền kinh tế XHCN theo mô hình “kế hoạch hóa tập trung cao” chủ yếu với hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thể; tổ chức sản xuất kinh doanh theo các loại hình xí nghiệp quốc doanh và xí nghiệp hợp tác xã, thực hiện phân phối theo cơ chế quản lý hành chính bao cấp. Chủ trương này đưa vào thực hiện không lâu đã bộc lộ sự không phù hợp với tình hình mới về yêu cầu phát triển của nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế đi dần vào ngõ cụt, không phát triển được, thậm chí có mặt tụt lùi so với trước, gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế trong nhiều năm không khắc phục được. Để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) tháng 8- 1979 đã nhận định tổng quát về thực trạng kinh tế nước ta, trong những năm cuối thập kỷ 70 như sau: chúng ta đang đứng trước nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống; sản xuất phát triển chậm (tốc độ tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới 1%/năm); năng suất lao động quá thấp; đời sống nhân dân thiếu thốn, nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng trên đây, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) đã chỉ ra phải nghiên cứu để cải tiến một bước cơ bản các chính sách kinh tế, trước hết là chính sách lưu thông phân phối, khắc phục tình trạng không ăn khớp giữa chính sách đề ra và tình hình thực tế của sản xuất và đời sống xã hội. Chống tư tưởng chủ quan, bảo thủ, không dám nhìn thẳng vào những thiếu sót trong chính sách, đồng thời phải nghiêm túc nghiên cứu các mặt khi xác định chính sách mới để tránh mắc phải sai lầm. Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) không chỉ xác định thực trạng bế tắc của nền kinh tế nước ta lúc đó mà còn chỉ ra định hướng tư duy mới cho nền kinh tế nước ta nhằm làm cho sản xuất “bung ra”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (tháng 3-1982) đã quyết định một số vấn đề rất cơ bản về đổi mới lãnh đạo kinh tế. Kinh tế quốc doanh là chủ đạo, kinh tế quốc doanh cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) (tháng 1-1994) đề ra chủ trương về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước trong thời kỳ mới và khẳng định “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Sau Đại hội VII những động lực mới đã thúc đẩy kinh tế tăng trưởng với mức độ cao và bền vững ở thời kỳ 1991-1995. Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7,9%/năm, tạo điều kiện cho đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội và chuyển sang giai đoạn phát triển mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (tháng 6/1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
  7. hội và chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội VIII cũng làm rõ hơn định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ năm 1997 - 1999 thiên tai dồn dập diễn ra gây thiệt hại lớn đối với nhiều vùng của đất nước, cộng vào đó cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Nam Á và một số nước trên thế giới đã tác động mạnh làm cho nền kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn mới. Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII (tháng 12/1999) đã đánh giá đúng tình hình, xác định những chủ trương và giải pháp mới nhằm ổn định chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, với phương hướng tổng quát là “phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN” khẳng định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là “Độc lập dân tộc gắn liền với CHXN, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”; đồng thời cũng khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ; chỉ rõ nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay là đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển; thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh. Hội nghị Trung ương 5 khóa IX ra Nghị quyết: Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010; khẳng định kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nòng cốt là Hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể liên kết rộng rãi người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không giới hạn quy mô, lĩnh vực, địa bàn; phân phối theo lao động, vốn và mức độ tham gia dịch vụ. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; kinh tế tư nhân được phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô; những đảng viên đang làm chủ các doanh nghiệp tư nhân chấp hành tốt Điều lệ Đảng và pháp luật, chính sách của Nhà nước thì vẫn là đảng viên của Đảng; Đại hội IX cũng nhấn mạnh việc phát triển nền kinh tế nước ta ở những thập niên đầu thế kỷ XXI, phải tạo ra bước tiến rõ rệt về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế. Những chủ trương chính sách kinh tế mới của Đại hội IX và các Nghị quyết Trung ương (khóa IX) đề ra đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng tích cực tạo nhiều cơ hội cho nền kinh tế vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân trong 5 năm (2001 - 2005) là 7,51% và phát triển tương đối toàn diện; lương thực xuất khẩu hàng năm từ 4 đến 5 triệu tấn gạo. Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, đặc biệt là thành tựu về xóa đói giảm nghèo, chúng ta đã đạt chuẩn quốc tế vào năm 2003. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) đã xác định 5 năm (2006 - 2010) có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu của thế kỷ XXI và đề ra mục tiêu phương hướng tổng quát trong lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục đổi mới nền kinh tế. Đó là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho CNH, HĐH đất nước... sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ mục tiêu tổng quát trên trong lĩnh vực kinh tế, Đại hội X chỉ rõ một số quan điểm lớn về đổi mới như: Đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là thể hiện bước tiến về nhận thức của Đảng ta, bắt kịp xu thế phát triển mới của thế giới. Về các thành phần kinh tế, Đại hội X chỉ rõ có 5 thành phần, đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo - là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế. Đại hội X chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hóa; tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ; tạo bước ngoặt về hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong 2 năm (2006-2007) thực hiện Nghị quyết Đại hội X, theo đánh giá của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 9 (khoá X) thì lĩnh vực kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức cao, năm 2006 là 8,23%; năm 2007 là 8,48%. Năm 2008 do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 6,23%, bình quân 3
  8. năm (2006 - 2008) đạt 7,6%/năm; nông nghiệp được mùa, nước ta đã trở thành thành viên tổ chức thương mại quốc tế WTO, tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta vươn xa hơn trong cộng đồng thế giới. Năm 2009 do tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, 6 tháng đầu năm tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 4,1%, dự kiến cả năm 2009 đạt 5%/năm. Các thành phần kinh tế vẫn tiếp tục phát triển; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tiếp tục được triển khai xây dựng và từng bước hoàn thiện; đời sống nhân dân vẫn được duy trì và bảo đảm, không có những xáo trộn lớn. Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đưa ra nhiều giải pháp kinh tế tích cực để khắc phục các mặt còn hạn chế, đặc biệt là khắc phục lạm phát, tăng giá và nguy cơ suy thoái kinh tế, nhằm sớm đưa nền kinh tế trở lại phát triển bình thường vào năm 2010. Những thành tựu thu được từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng hơn 20 năm qua cho phép chúng ta rút ra một số kết luận sau đây: Một là, đường lối đổi mới kinh tế đề ra trong từng thời kỳ là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp quy luật khách quan và đáp ứng được lòng mong muốn của nhân dân ta, đã đem lại kết quả đáng khích lệ và tạo khả năng cho nền kinh tế phát triển tốt hơn trong những năm tới. Hai là, trong quá trình đổi mới kinh tế, Đảng ta đã trân trọng và lắng nghe ý kiến, sáng kiến và cách làm sáng tạo của quần chúng nhân dân, biết dựa vào dân, biết chắt lọc ý kiến đóng góp, tổng kết khái quát, nên đã có những quyết sách đúng, những chủ trương phù hợp, kịp thời, nhất là vào những thời điểm khó khăn có tính bước ngoặt. Ba là, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc rằng đổi mới kinh tế phải vì lợi ích của nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của nhân dân và phù hợp với thực tiễn đất nước. Bốn là, đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta là đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo xuất phát từ thực tiễn nước ta, có tham khảo kinh nghiệm của các nước khác một cách có chọn lọc, không sao chép giáo điều. II. Một số vấn đề đặt ra trong đổi mới lãnh đạo kinh tế ở giai đoạn hiện nay Công cuộc tiếp tục đổi mới lãnh đạo kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay cần quán triệt sâu sắc các vấn đề sau đây: 1- Mọi chủ trương chính sách tiếp tục đổi mới kinh tế phải coi ưu tiên số 1 là giải phóng lực lượng sản xuất và mọi nguồn lực, mọi tiềm năng của xã hội nhằm tất cả vì mục tiêu phát triển. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển bền vững là nhiệm vụ chính trị trọng đại số 1, là nhiệm vụ trung tâm. 2- Lãnh đạo thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ song song: CNH, HĐH gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và phát triển mạnh nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cần phải nhận thức sâu sắc rằng thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trước mắt, cũng như lâu dài không thể tách rời sự phát triển ngày càng hiện đại của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do đo,á một trong những vấn đề có tính “hạt nhân” của sự tiếp tục đổi mới lãnh đạo kinh tế của Đảng là đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế có tác động tích cực thúc đẩy mạnh nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng XHCN và thực hiện có hiệu quả các chính sách CNH, HĐH đất nước để từng bước thực hiện được mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
  9. 3- Phải giải quyết tốt mâu thuẫn giữa nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế với yêu cầu bắt buộc phải tiến lên theo kịp các nước tiên tiến trên thế giới. 4- Ngăn chặn và đẩy lùi những nguy cơ tiềm ẩn có thể đưa nền kinh tế nước ta đi chệch định hướng XHCN. 5- Lãnh đạo phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Vì đây là một đặc trưng của định hướng XHCN nền kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta. 6- Nhanh chóng khắc phục nguy cơ tiềm ẩn suy thoái kinh tế do tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới, quyết tâm giảm tỷ lệ lạm phát và tăng giá xuống ở mức một con số; bảo đảm và nâng cao đời sống dân sinh cả về vật chất và tinh thần. 7- Nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của Đảng, đặc biệt là những vấn đề sau đây: - Nâng cao năng lực nắm vững các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những chủ trương, chính sách kinh tế đúng đắn, khai thác được tối đa những tiềm năng trong nước và ngoài nước cho sự nghiệp phát triển kinh tế và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước trong từng thời kỳ phát triển của đất nước. - Nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo quần chúng nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện thành công các chính sách đổi mới kinh tế trong bất cứ tình huống khó khăn nào./. Theo Tạp chí BTG Để hiểu rõ lý do vì sao Đảng ta tiến hành cuộc vận động "Hoc tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", tôi xin giới thiệu bài viết của tác giả Tô Chính đăng trên Trang thông tin kinh tế xã hội tỉnh Bến Tre: "Chúng ta nhận thức rằng, qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh và ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam. Có thể nói, chưa bao giờ thế và lực của đất nước ta mạnh như hiện nay, vị thế của nước ta cao như hiện nay. Chính những thắng lợi to lớn đó là nhân tố quyết định tạo ra thời cơ lớn cho nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới. Hồ Chủ tịch cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên (1953) Trên trường quốc tế, chưa bao giờ nước ta bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước như hiện nay; đặc biệt là bình thường hoá và có vị thế cao trong quan hệ với tất cả các cường quốc trên thế giới như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, và Liên minh châu Âu (EU). Việt Nam đã góp phần thúc đẩy xu thế chung của thế giới hiện nay, đó là xu thế hoà bình, hợp tác phát triển, xu thế toàn cầu hoá và phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học và công nghệ. Chính vì thế, Đại hội X của Đảng ta nhận định cách mạng Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn. Từ đó, Đại hội X cũng đi đến quyết định trong 5 năm tới đưa Việt Nam thoát khỏi một nước nghèo và đến 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Như vậy, hiện nay Đảng ta đang đứng trước một sứ mệnh lịch sử mới là lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện khát vọng ngàn đời là xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lịch sử giao cho Đảng ta nhiệm vụ rất nặng nề. Để đủ sức hoàn thành sứ mệnh lịch sử nặng nề và đầy vinh quang trên, đòi hỏi Đảng ta phải nâng cao cho được năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Bác Hồ - Người sáng lập và rèn luyện, lãnh đạo Đảng ta từng nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Như vậy, Bác khẳng định thành tố đầu tiên tạo nên năng lực lãnh đạo của Đảng là đạo đức. Vì vậy, yêu cầu xây dựng cho được nền tảng đạo đức vững vàng của Đảng là yêu cầu đầu tiên, cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là lẽ thứ nhất.
  10. Thứ hai, Đảng ta phát động cuộc vận động này trên cơ sở sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có bước trưởng thành trong điều kiện mới, nhưng cũng đối mặt với những nguy cơ và thách thức rất lớn. Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị và cả về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Trước đây, Đảng ta đã mở cuộc vận động đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh (theo tinh thần Chỉ thị 23-CT/TW, Bộ Chính trị khoá IX). Đại hội X đã tổng kết, đánh giá là cuộc vận động đã đạt được kết quả bước đầu, nhưng trong Đảng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi mà ngày càng diễn biến phức tạp. Tình hình trên là rất nghiêm trọng nên Đại hội X của Đảng nhận định, nếu chúng ta không ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII đạt một số kết quả nhất định, nhưng Đại hội X đánh giá là không đạt yêu cầu đề ra. Xuất phát từ yêu cầu sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong giai đoạn mới và rút kinh nghiệm từ hai cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc vận động chính trị “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với quyết tâm cao nhất là ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tham nhũng trong cán bộ, đảng viên; nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn mới." 1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991, sau khi phân tích bối cảnh của tình hình thế giới và trong nước, đã nhận định: “Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”(2). Vào những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, mặc dù trên thế giới chủ nghĩa xã hội hiện thực đã bị đổ vỡ một mảng lớn, phe xã hội chủ nghĩa không còn, phong trào xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn khủng hoảng, thoái trào, gặp rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(3). Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Đó là điều mà Đảng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với điều kiện, đặc điểm cụ thể của nước ta. Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng ta từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; từng bước khắc phục được một số quan niệm đơn giản, ấu trĩ trước đây như đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những thành tựu, giá trị mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xóa bỏ sản xuất hàng hóa, cơ chế thị trường, xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản. Cương lĩnh năm 1991 đã đưa ra những quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đó là một bước tiến lớn trong tư duy lý luận của Đảng ta, vừa quán triệt tinh thần cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vừa thể hiện sự vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh năm 1991, Đảng ta tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, từng bước hoàn chỉnh thêm nhận thức về vấn đề này. Cho đến nay, mặc dù còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta có thể khái quát, xã
  11. hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Để thực hiện được mục tiêu đó, nước ta phải: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Càng đi vào chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta càng nhận thức được rằng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại công cuộc xây dựng đất nước ta, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải trên quan điểm phát triển, có chọn lọc. 2. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Như chúng ta đã biết, sau một thời gian tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ Đại hội VI, Đảng ta đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.” Đại hội VIII (tháng 6-1996) đưa ra quan niệm mới, rất quan trọng về kinh tế hàng hóa và chủ nghĩa xã hội: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.” Nhưng vào thời điểm đó, chúng ta mới chỉ nói: “Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường có những mặt mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội… Đi vào kinh tế thị trường, phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực đó”(4). Phải đến Đại hội IX (tháng 4 năm 2001) khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được nêu trong văn kiện của Đảng,” xem đó là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
  12. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Nó là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của cơ chế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa (vì mục đích của chúng ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội), và cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (vì chúng ta còn đang trong thời kỳ quá độ). Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng; kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế hỗn hợp, đa sở hữu, nhất là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân . Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở nước ta là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng đòi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững, có khả năng huy động các nguồn lực vật chất cho việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ngược lại, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững nếu trong xã hội không có sự công bằng nhất định, đa số dân chúng sống nghèo khổ, thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất, và một bộ phận đáng kể lao động lâm vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói, bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Nói giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo, chăm sóc những người có công, những người không may gặp khó khăn, cơ nhỡ. Điều này vừa thể hiện đúng quy luật của sự phát triển lành mạnh, bền vững trong thời đại ngày nay, vừa nói lên mục đích, bản chất của xã hội ta. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này thì không thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là không hơn gì kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, càng không thể nói đến tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. 3. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội Phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới, bước phát triển tư duy lý luận của Đảng ta. Từ nhiệm kỳ Đại hội VIII đến nay, trong nhiều nghị quyết của Đảng đã xác định phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục-đào tạo và khoa học-công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội; đầu tư cho giáo dục- đào tạo và khoa học-công nghệ là đầu tư cho phát triển.
  13. Bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại, là một tiêu chí và nội dung của sự phát triển bền vững, là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng; phải làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, trong mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người. “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” như Bác Hồ đã dạy. Một luận điểm rất quan trọng thể hiện nhận thức mới của Đảng ta là đã xác định sự gắn kết nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội, coi đó là “ba chân kiềng” bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội phải làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội văn minh lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao; phê phán những cái lỗi thời, thấp kém; đấu tranh chống những tư tưởng và hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc, sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý; bảo vệ nền văn hóa dân tộc trước sự xâm lăng văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Cùng với việc tăng đầu tư của Nhà nước, cần thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Đề cao quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Tất cả phải vì con người, chăm lo cho hạnh phúc của con người; phát huy nhân tố con người và phát triển nguồn nhân lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và tổ ấm của mỗi người. 4. Giữ vững môi trường hòa bình, độc lập tự chủ, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế Qua những năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, chúng ta ngày càng nhận thức rõ rằng, một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng nước ta là phải ra sức củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực; chuyển từ cách nhìn thế giới chỉ dưới góc độ một vũ đài đấu tranh sang cách nhìn toàn diện hơn; coi thế giới như môi trường tồn tại và phát triển của Việt Nam. Sự chuyển biến tư duy quan trọng trong lĩnh vực quốc tế và đối ngoại là quan điểm “thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”, lấy việc bảo đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc tối cao của hội nhập. Trên cơ sở đó đã từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, cùng có lợi; giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực. Trước xu thế khách quan toàn cầu hóa kinh tế, chúng ta chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác” theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Đảng ta cũng nhận rõ khả năng vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau; đổi mới nhận thức trên vấn đề “địch - ta”, “đối tượng - đối tác” theo tinh thần “thêm bạn bớt thù”, khẳng định “những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta, bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh.”
  14. Chúng ta đã nhiều lần và từng bước tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn”, “sẵn sàng là bạn”, “là bạn, là đối tác tin cậy” của các nước trong cộng đồng quốc tế; “là thành viên tích cực và có trách nhiệm của các tổ chức quốc tế”, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, Đảng ta vẫn luôn luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng ta đã từng bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại; nhận thức toàn diện hơn về khái niệm an ninh quốc gia: an ninh quốc gia không chỉ là an ninh chính trị mà còn là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội,… Khái niệm bảo vệ Tổ quốc cũng được xác định đầy đủ hơn: bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, bảo vệ sự nghiệp đổi mới… Đã nhận thức rõ hơn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia, các nhân tố có khả năng gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại an ninh quốc gia, nhất là những nhân tố “phi truyền thống.” Chúng ta đã bước đầu xây dựng hệ quan điểm mới về chiến tranh nhân dân, về hậu phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ nội dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng toàn dân; khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân với nền tảng là “thế trận lòng dân”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng-an ninh; quốc phòng-an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Kiên quyết làm thất bại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; coi trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. 5. Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trong những năm đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Khẳng định phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội, khắc phục biểu hiện dân chủ hình thức. Nhà nước chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết. Đưa ra chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nhận thức mới của Đảng ta vào những năm 90 so với Cương lĩnh năm 1991. Chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng phải thực hiện nhà nước pháp quyền.
  15. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về bản chất với nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ: Pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản, về thực chất, là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chủ nghĩa xã hội là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật và các công cụ khác theo quy định của pháp luật. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước thể hiện nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thông suốt, thống nhất. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là thiết chế phục vụ nhân dân; hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, việc gì có lợi cho dân, phải hết sức làm; việc gì có hại cho dân, phải hết sức tránh. Có cơ chế giám sát quyền lực nhà nước. “Đoàn kết dân tộc”, “đại đoàn kết dân tộc”, “đại đoàn kết toàn dân tộc” ngày càng được nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, vai trò, là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau hoặc không theo tôn giáo, tạo điều kiện làm tròn trách nhiệm công dân, sống “tốt đời đẹp đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tôn giáo. Đồng bào định cư ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào nâng cao lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, tinh thần tự trọng, tự hào dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, tôn trọng pháp luật nước sở tại, hướng về quê hương đất nước và góp phần tăng cường đoàn kết hữu nghị với nhân dân các nước. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội là các tổ chức đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tham gia giám sát và phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên quan trọng, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự trường tồn và phát triển của dân tộc. 6. Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Một thời gian dài và cả trong Cương lĩnh năm 1991 Đảng ta đã xác định “Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi chúng ta nêu cao tư tưởng đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, khi Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của mình; và trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc, cho nên cần diễn đạt bản chất của Đảng thế nào cho phù hợp hơn.
  16. Đại hội X của Đảng đã quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. Cùng với việc xác định Đảng ta là đảng cầm quyền, luận điểm này là một bước phát triển mới rất quan trọng về nhận thức của Đảng trong 20 năm qua. Nó vừa nói lên được bản chất giai cấp công nhân của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa thể hiện được nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam, và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân. Diễn đạt như vậy hoàn toàn không phải là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, trượt sang quan điểm “đảng toàn dân” mà chính là thể hiện sự nhận thức bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, nhuần nhuyễn hơn. Nó đòi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân phấn đấu vì lợi ích của cả giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Đối với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng -, Đảng ta luôn luôn kiên định, kiên trì, đồng thời yêu cầu phải vận dụng sáng tạo, có bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn, góp phần làm phong phú và ngày càng hoàn thiện hơn. Chúng ta cũng đã nhận thức đầy đủ và sâu sắc giá trị to lớn và nội dung toàn diện của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội IX, Đảng ta đã tổng kết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(5). Về công tác xây dựng Đảng, đã bổ sung, phát triển và từng bước làm sáng tỏ lý luận về vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, mở cửa hội nhập quốc tế; làm rõ hơn trách nhiệm của đảng cầm quyền trong việc nghiên cứu, tìm tòi mô hình và con đường, bước đi xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với quy luật khách quan. Đã nhận thức sâu sắc hơn tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Từ đó đặt ra yêu cầu Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới của Đảng; tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, đấu tranh chống sự suy thoái, biến chất, tham nhũng, hư hỏng. Đổi mới, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới đồng bộ công tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; đổi mới phương thức lãnh đạo và lề lối công tác; gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Đặc biệt đề phòng nguy cơ sai lầm về đường lối và thoái hóa, quan liêu, xa rời quần chúng. Đảng viên làm kinh tế tư nhân là một vấn đề cụ thể nhưng rất quan trọng, liên quan đến quan điểm, đường lối cơ bản của Đảng, được đặt ra từ nhiều năm, cho nhiều Đại hội. Qua một quá trình nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đến Đại hội X, Đảng ta đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân) với điều kiện phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban chấp hành Trung ương. Chúng ta nhận thức rằng, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước còn nghèo, phải tập trung phát triển sức sản xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội. Đảng đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản lãnh đạo thì cũng cần khuyến khích đảng viên làm kinh tế bằng nhiều hình thức ở nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, vừa nâng cao đời sống cho bản thân và gia đình vừa góp phần làm giàu cho xã hội.
  17. Tóm lại, trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện Cương lĩnh năm 1991, nhận thức của Đảng ta ngày càng được bổ sung, phát triển trên nhiều vấn đề cơ bản và quan trọng, góp phần từng bước làm sáng tỏ và hoàn thiện đường lối đổi mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây cũng là cơ sở rất quan trọng để Đại hội XI sắp tới xem xét, quyết định việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991. BÀI THU HOẠCH TƯ TƯỞNG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH NĂM 2010 Học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh “ là đạo đức, là văn minh”. Các Mác vĩ đại đã từng nhận định rằng: “Chân lí phải được kiểm tra bằng thực tiễn”, và thông qua thực tiễn, từ khi ra đời cho đến nay, chúng ta có thể khẳng định rằng hệ thống những quan điểm trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi sáng những con đường cho Đảng Cộng sản Việt Nam và cả dân tộc ta đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. 80 mùa xuân và biết bao nhiêu lần 80 những thành công, Đảng cộng sản Việt Nam của chúng ta ngày càng khẳng định được sự đúng đắn trong đường lối cũng như hành động dựa trên nền tảng là Chủ nghĩa Mác – Lê nin, kết hợp với Tư tưởng Hồ Chí Minh. Để không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm, xây dựng Đảng trong toàn thể cán bộ, Đảng viên và nhân dân, đồng thời nối tiếp tinh thần cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, năm nay – 2010, Ban chỉ đạo Trung ương cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tiếp tục triển khai chủ đề: “Tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh”. Chủ đề học tập năm nay có nhiều ý nghĩa thiết thực Chào mừng những sự kiện trọng đại của dân tộc ta: Kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 120 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh, 35 năm giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, kỷ niệm 40 năm thực hiện di chúc của Bác Hồ, 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Những sự kiện trọng đại ấy, và những thành quả của ngày hôm nay, chúng ta có được, phần lớn đều xuất phát từ sự chỉ đạo đúng đắn về đường lối, chính sách của Đảng và sự dẫn dắt tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong không khí vui mừng, chúng ta lại hướng về nguồn cội, hướng về Bác, về Đảng, đồng thời chúng ta cũng cần nhìn nhận lại những chặng đường đã qua và không ngừng nâng cao tinh thần rèn luyện, học tập để ngày càng tiến bộ hơn với trên tinh thần kế thừa kinh nghiệm từ ngàn xưa của cha ông ta: “Cẩn thận là không bao giờ thừa” hay “Cẩn tắc vô ưu ”, “Cẩn tắc vô áy náy”.... Tôi đánh giá cao tới tính đối tượng của chủ đề năm nay, mặc dù chỉ nói về Đảng nhưng không chỉ dành riêng cho các Đảng viên mà còn dành cho toàn thể cán bộ, Đảng viên và nhân dân. Như thế là Ban chỉ đạo cuộc vận động đã nêu cao tinh thần đại đoàn kết của dân tộc, đưa mọi người lại gần nhau hơn, cùng chung tay xây dựng Đảng, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm xây dựng Đảng trong toàn thể nhân dân - Xây dựng Đảng là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Việt Nam chứ không phải là nhiệm vụ của riêng một Đảng viên nào cả. Từ đối tượng của việc học tập chủ đề năm nay, đã phổ biến được tầm quan trọng về sự lãnh đạo, đường lối của Đảng trong toàn thể nhân dân. Như thế sẽ khắc phục được một số suy nghĩ hạn chế của một số nhân dân cho rằng xây dựng Đảng chỉ là công việc của những Chi bộ, của những Đảng viên hay của những người lãnh đạo… Trải qua 80 mùa xuân, Tuy tuổi đời của Đảng ta còn rất trẻ, nhưng lại có một bề dày những thành tích và chiến công vang dội. Chúng ta đã chiến thắng được “giặc ngoại xâm”, đang ngày ngày tích cực nâng cao đời sống của nhân dân để diệt “giặc đói”, cải cách giáo dục để diệt “giặc dốt”. Tuy nhiên, khi chúng ta không còn “bế quan toả cảng” với các nước Tư bản, sắn sàng làm bạn với tất cả các nước trên Thế giới với tinh thần: hoà bình - hữu nghị - hợp tác cùng phát triển, đất nước ta ngày càng thay da đổi thịt, cuộc sống của chúng ta được cải thiện rõ rệt qua từng miếng cơm, manh áo và cũng từ sự thay đổi ấy, có một số bộ phận Đảng viên, chiến tranh, bom đạn khốc liệt không giết được họ nhưng họ lại gục ngã trước chính mình, bị chính những tham vọng tầm thường trong bản thân quật ngã, họ nghĩ mình là “quan Cách mạng” chứ không phải là công bộc của dân, và trượt dài trên những cám dỗ của tiền bạc và nhan sắc. Tình trạng “quan tham” ở trong chính nước ta gần đây với những cấp độ khác nhau: Từ Phó tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV, cho đến những quan chức cấp cao khác của PMU 18 mà điển hình là ông Bùi Tiến Dũng, cho tới những “Dự án Đại Lộ Đông – Tây” gần đây nhất với những ông Huỳnh Ngọc Sĩ, Lê Qủa… đã cho chúng ta nhiều bài học về sự cần thiết của sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Vậy xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” theo tư tưởng Hồ Chí Minh là như thế nào?
  18. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng tập trung chủ yếu vào năm nội dung chính: - Cách mạng cần có Đảng. “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”. - Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. - Quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng đáng “là đạo đức, là văn minh” - Tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân - Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn. Mỗi nội dung được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát rất ngắn gọn, nhưng cụ thể hoá mỗi nội dung, càng đi sâu vào mỗi nội dung chúng ta lại càng thấy được tầm nhìn xa và rộng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. * Tại sao Cách mạng cần có Đảng? Những năm trước năm 1930, khi Đảng cộng sản Việt Nam của chúng ta chưa ra đời, mặc dù phong trào Cách mạng trong nước nổ ra rầm rộ, liên tục như Phong trào “Duy Tân” do Phan Bội Châu đề xướng, “Đông kinh nghĩa thục” do Phan Chu Trinh phát động, “Khởi nghĩa nông dân Yên Thế” do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo…nhưng những phong trào ấy đi từ thất bại này đến thất bại khác… kể cả những phong trào Cách mạng, những cuộc khởi nghĩa trong cao trào Cách mạng trước khi Đảng ta ra đời…Một trong những nguyên nhân thất bại đó là Cách mạng chưa có Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn dân, những Đảng đơn lẻ, không hợp nhất với nhau nên chưa thể tạo ra được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì thế, Cách mạng “trước hết phải có Đảng cách mệnh”, đồng thời “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”. “Chủ nghĩa” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác-Lênin. Học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là phải nắm được cái cơ bản, cái cốt lõi, cái bản chất để hiểu đúng và hành động đúng. Đó là thế giới quan, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin phải vận dụng, sáng tạo, không rập khuôn. Sự tan rã của Liên Xô năm 1990 không chỉ để lại một sự tiếc nuối vô bờ mà còn là một bài học vô cùng lớn cho hệ thống các nước XHCN, trong đó có cả Việt Nam chúng ta về sự áp dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin một cách rập khuôn, không linh hoạt. Vừa học tập và chúng ta vừa xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin, đấu tranh chống những luận điểm cơ hội, xuyên tạc, kiên định bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin để xây dựng khối đại đoàn kết trong phong trào cộng sản quốc tế, “có lý có tình”. * Khi đã có Đảng lãnh đạo, Cách mạng Việt Nam đi hết từ thành công này đến thành công khác. Tuy nhiên để duy trì và phát huy những thành quả của Cách mạng, thì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng”. Những nguyên tắc đó là: - Nguyên tắc tập trung dân chủ. - Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. - Nguyên tắc tự phê bình và phê bình. - Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác. - Nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Trong những nguyên tắc ấy, chúng ta không thể xem nhẹ bất cứ một nguyên tắc nào, tuy nhiên, chúng ta phải nhận thức được rằng “Nguyên tắc tập trung dân chủ” là nguyên tắc cơ bản nhất trong tổ chức và sinh hoạt Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói: “Dân chủ nhưng trò phải kính thầy và thầy phải mến trò chứ không phải là “cá đối bằng đầu”. Có dân chủ chúng ta mới phát huy được sức mạnh của đại đa số và tinh thần đoàn kết, không bảo thủ và không độc đoán, chuyên chế, hách dịch, cửa quyền, v.v..Nhưng chúng ta cũng phải đề phòng dân chủ “quá trớn”, đề phòng bè lũ bán nước, phản động lợi dụng hai từ “dân chủ”để dụ dỗ người dân yêu cầu quá đáng, đòi hỏi đa nguyên, đa đảng, cho nên dân chủ nhưng cũng phải tập trung. Vì thế tập trung và dân chủ phải luôn đi đôi với nhau, khăng khít với nhau cũng như “tập thể” và “cá nhân”. Xét về tính phát triển, Đảng cũng như một con người, Đảng muốn phát triển thì phải không ngừng “Tự phê bình và phê bình”. Nếu như năm 1986, Đảng không thẳng thắn nhận định những sai sót, và tự nhận định rằng chính sách đối ngoại “bế quan toả cảng” với các nước Tư bản là không hợp lí thì cho đến bây giờ, khó có thể nói rằng kinh tế của Đất nước ta có thể phát triển mạnh như ngày hôm nay. Một người sống có ít quan hệ với những người khác, hẳn sẽ ít cơ hội phát triển hơn. Và theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tự phê bình phải thành khẩn, thành tâm, không “giấu bệnh, sợ thuốc”. Phê bình phải trung thực, “không đặt điều”, “không thêm bớt”. Tự phê bình và phê bình phải có tính chất xây dựng, đi lên, có lí có tình, không vụ lợi hay thoả mãn cảm xúc cá nhân và phải tiến hành thường xuyên “như người ta rửa mặt hàng ngày”. Cũng như thế, việc chấp hành kỷ luật nghiêm minh và ý thức tự giác của mỗi Đảng viên là không thể thiếu. Và nếu như thực hiện “dân chủ” tốt, thì tính Đoàn kết trong Đảng cũng được nâng cao. Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về “Đại đoàn kết dân tộc” Người đã khẳng định: “Đoàn kết là điểm Mẹ”, điểm “Mẹ” tốt sẽ sinh ra những điểm con tốt”. Như thế chúng ta có thể thấy được sụ vô cùng quan trọng trong “nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng” – đó
  19. không chỉ là một truyền thống cực kỳ quý báu mà còn là nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng, Người nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. *Đạo đức luôn là vấn đề được Người quan tâm hàng đầu, trong cuốn “Đường kách mệnh” Người đã dành hẳn một chương viết về “Tư cách một người cách mệnh”. Cũng như khi nghiên cứu về những phẩm chất của con người Việt Nam hiện đại, Người đã kết hợp tinh hoa văn hóa Đông – Tây, đề ra những phẩm chất cần thiết đối với một con Người Việt Nam nói chung: “Trung với nước, hiếu với dân – Lòng yêu thương con Người – Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư và Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung”. Trước hết, mỗi con người Việt Nam phải hội tụ ít nhất những phẩm chất đó, và trong công tác xây dựng Đảng Người còn đề ra một số phẩm chất tư cách: Suốt đời phấn đấu hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp Cách mạng. Đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết và lên trước hết, bên cạnh đó phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức Cách mạng, không ngừng nâng cao đạo đức và năng lực, Người thường căn dặn: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Có tài mà không có đức thì là người vô dụng”. Rõ ràng, trong mối liên hệ khăng khít giữa Tài và Đức, Người vẫn luôn nhấn mạnh vai trò của đạo đức như từ ngàn xưa ông cha ta vẫn luôn căn dặn: “Tiên học Lễ, Hậu học Văn”. *Nhà nước của ta là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, người dân làm chủ, trong đó “dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Vì thế Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Đảng phải “tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng và dân”, nâng cao tinh thần trách nhiệm: “không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Đảng muốn thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách thì phải thuận lòng dân, cũng như công tác dân vận phải tốt: “Dân vận tốt thì việc gì cũng dễ, dân vận không tốt thì việc dễ cũng thành việc khó”. Gần dân, quan tâm đến lợi ích, đời sống của nhân dân như Người đã khẳng định: “Việc gì có ích cho dân dù nhỏ nhất cũng phải làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ nhất cũng phải tránh”. *Cuối cùng, công tác xây dựng Đảng không thể thiếu đó là “Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn”. Mỗi thời kí Cách mạng có những nhiệm vụ khác nhau, Đảng cũng phải linh hoạt nắm bắt tình hình, thời cơ và nhiệm vụ. Nhưng để làm được điều đó thì “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng” Nhưng chỉnh đốn lại Đảng ở những nội dung nào thì Người cũng đã thể hiện rất rõ: Tăng cường công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, lối sống và luôn luôn chú ý tới những biểu hiện tiêu cực, thoái hóa, biến chất để giữ Đảng luôn trong sạch. Bên cạnh đó phải thường xuyên bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”, có đủ tư cách, phẩm chất đạo đức và năng lực để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đồng thời Đảng phải vươn lên đáp ứng kịp yêu càu của tình hình và nhiệm vụ mới. Muốn làm được như thế thì Đảng phải phát huy tinh thần “dân chủ” mà không quên “tập trung” trong nội bộ, phát huy tinh thần Đại đoàn kết dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà hệ thống các nước Tư bản chủ nghĩa đang lộ dần bản chất của chúng là bóc lột giá trị thặng dư của số đông người dân trong xã hội, tư hữu tư liệu sản xuất nằm trong tay một số ít những người Tư sản giàu có. Tự chúng không thể giải quyết nổi những nguy cơ tiềm ẩn và liên tục rơi vào những cuộc khủng hoảng theo chu kỳ, càng thể hiện sự đúng đắn trong đường lối kiên trì Chủ nghĩa xã hội đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam . Mọi du khách năm châu khi đến Việt Nam đều nhận định rằng: “cảm giác ở Việt Nam là yên bình hơn cả vì sự ổn định chính trị”. Tuy nhiên, những thế lực thù địch và bè lũ phản động cũng ngày càng có những mánh khóe tinh vi hơn, vì thế Đảng ta phải thật sự trong sạch, vững mạnh “là đạo đức, là văn minh” để phục vụ sự nghiệp Cách mạng, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, xây dựng khối Đại đoàn kết vững chắc, luôn sẵn sàng đảm nhiệm những nhiệm vụ mới của thời đại. Bản thân tôi là một Đảng viên, ngoài việc phải luôn luôn tìm hiểu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về mọi mặt trong cuộc sống, qua đợt học tập chuyên đề năm nay tôi nhận thấy rằng những nội dung mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu không những có tầm nhìn chiến lược và thời đại sâu sắc mà còn mang ý nghĩa triết học sâu sắc, nếu như áp dụng vào việc tổ chức, phát triển cuộc sống của mỗi cá nhân thì vô cùng quí giá và quan trọng. Ví dụ: Chúng ta vẫn thường nói: “Gia đình là một tế bào của xã hội” – Như thế, những nguyên tắc xây dựng Đảng chúng ta thấy đều quý báu, nếu như áp dụng vào xây dựng Gia đình – Gia đình cũng là một tổ chức, chúng ta thấy đều có thể linh hoạt áp dụng hầu hết các Nguyên tắc của Người, một Gia đình mà có “dân chủ” nhưng không có “tập trung” thì hẳn con cái không lễ phép với ba mẹ, vợ chồng không tôn trọng lẫn nhau, nhưng một gia đình mà có “tập trung” mà không có tinh thần “dân chủ” thì người đứng đầu gia đình ấy trở thành gia trưởng, độc đoán, bảo thủ chuyên quyền. Bản thân tôi, sau khi học xong chủ đề này, lấy những tư tưởng của Người đối chiếu với bản thân mình, tôi nhận thấy mình cũng có một vài ưu điểm: Trong công việc là Giáo viên đứng lớp, thường xuyên tiếp xúc với học trò, tôi luôn nhấn mạnh với các em về vai trò quan trọng của đạo đức bản thân và đạo đức Cách mạng, nhắc nhở các em không quên việc có được điều kiện học tập như ngày hôm nay là nhờ vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam và sức mạnh Đại đoàn kết của toàn dân tộc. Các em là Tương lai của Đất nước, “Anh hùng không có đọ tuổi”, cần phát huy hết sức mình trong việc tu dưỡng đạo đức Cách mạng, học
  20. tập theo năm điều Bác Hồ dạy và phương châm của Người: “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình,...” Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, tôi luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người. Song song với việc xây dựng Đảng tùy theo sức và vị trí của mình, bản thân tôi cũng luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các Nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như: Tập trung dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng, gia đình, lối xóm,... Bên cạnh những ưu điểm, bản thân tôi nhận thấy mình cũng còn những nhược điểm cần phải thẳng thắn, mạnh dạn, cương quyết nhìn nhận hơn nữa như tự phê bình và phê bình còn né tránh, cả nể, chưa kiên quyết, dứt khoát. Việc đấu tranh, tự rèn luyện, tu dưỡng của bản thân còn chưa khoa học, chưa hệ thống. Và tinh thần làm việc nhiều lúc chưa thật sự nghiêm túc, chưa sâu sát, chưa tỉ mỉ… Qua đợt học tập chủ đề : “Về xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh” là đạo đức, là văn minh” đã bổ sung thêm cho chúng ta những kiến thức nhuần nhuyễn hơn về Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải không ngừng nâng cao việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để tạo nên những nguồn động lực mạnh mẽ, nhất là nguồn lực về con người để đi theo con đường mà Đảng và Bác đã chọn một cách vững chắc. “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Tiếp tục quán triệt sâu hơn về mục đích, yêu cầu nội dung cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” sau hơn 3 năm thực hiện tại các tổ chức trong phường, để chuẩn bị tổng kết vào cuối năm tới I. Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã đi xa, nhưng để lại cho nhân dân ta di sản tinh thần to lớn, những tư tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả trong đó đặc biệt là tư tưởng đạo đức cách mạng. Cả cuộc đời và sự nghiệp của người là tấm gương sáng ngời cho toàn Đảng, toàn dân ta nguyện phấn đấu suốt đời học tập và noi theo. 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là cả một hệ thống quan điểm tư tưởng trên nhiều lĩnh vực của cách mạng Việt Nam, cách mạng thế giới… Trong phạm vi trao đổi hôm nay cần đi sâu vào một lĩnh vực tư tưởng đạo đức cách mạng của Bác mà cuộc vận động: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã được toàn Đảng , toàn dân, toàn quân thực hiện hơn 3 năm nay cho đến hết nhiệm kỳ Đại hội 10 của Đảng. + Có thể nói, toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Bác gắn liền với quá trình phát triển của tư tưởng đạo đức cách mạng mà người là tấm gương tiêu biểu và sinh động nhất. Có thể nói tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là phần kết tinh của tư tưởng cách mạng”. +Tư tưởng đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng người đã có ý thức rõ ràng về vai trò của đạo đức cách mạng. Người nói : “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ trở thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệmvụ “ cách mạng vẻ vang” a) Quan niệm về đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh Bác thường nói gọn “ Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng”. Nội dung đạo đức người cách mạng là Cần – Kiệm – Liêm – Chính – Chí công – Vô tư. Suốt đời phấn đấu hy sinh cho sự nghiệp cách mạng. Trung với nước, hiếu với dân…(Bài học kinh nghiệm Liên Xô cũ, sau hơn 70 năm những người sau này không giữ được đạo đức cách mạng đã để mất nước. Trung Quốc cố gắng đấu tranh (thay CNXH hành chính bao cấp) Việt Nam tiếp tục đổi mới mới có ngày nay. b) Nguyên tắc của đạo đức cách mạng tư tưởng Hồ Chí Minh + Thống nhất đạo đức và chính trị, phẩm chất cách mạng và định hướng chính trị cách mạng. Trong cuộc sống biến đạođức phù hợp sự phát triển xã hội. + Thống nhất biện chứng tư tưởng đạo đức cách mạng và hiệu quả công việc của mình phù hợp phát triển xã hội. Nói đi đôi với làm, có hiệu quả
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2