intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu về các nhà ngoại giao trong lịch sử dân tộc: Phần 1

Chia sẻ: Lăng Mộng Như | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

29
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phần 1 của cuốn sách "Các nhà ngoại giao trong lịch sử dân tộc" cung cấp cho bạn đọc các thông tin về các nhân vật ngoại giao như: Đỗ Thuận, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Đào Tông Nguyên, Lê Văn Thịnh, Nguyễn Hiền, Trần Thánh Tông, Lê Phụ Trần, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Đinh Củng Viên, Đào Tử Kỳ,... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu về các nhà ngoại giao trong lịch sử dân tộc: Phần 1

  1. Chịu trách nhiệm xuất bản: Q. GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PHẠM CHÍ THÀNH Chịu trách nhiệm nội dung: PHÓ GIÁM ĐỐC - PHÓ TỔNG BIÊN TẬP TS. ĐỖ QUANG DŨNG Biên tập nội dung: ThS. CÙ THỊ THÚY LAN ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH ThS. LÊ THANH HUYỀN NGUYỄN THU HƯỜNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Trình bày bìa: PHẠM THÚY LIỄU Chế bản vi tính: HOÀNG MINH TÁM Đọc sách mẫu: NGUYỄN THU HƯỜNG BÙI BỘI THU Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 1360-2020/CXBIPH/16-301/CTQG. Số quyết định xuất bản: 5009-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/6/2020. Nộp lưu chiểu: tháng 6 năm 2020. Mã số ISBN: 978-604-57-5669-0.
  2. Biªn môc trªn xuÊt b¶n phÈm cña Th− viÖn Quèc gia ViÖt Nam Vò D−¬ng Hu©n C¸c nhµ ngo¹i giao trong lÞch sö d©n téc / Vò D−¬ng Hu©n. - XuÊt b¶n lÇn thø 2. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2017. - 164tr. ; 21cm 1. Nhµ ngo¹i giao 2. LÞch sö 3. ViÖt Nam 327.597 - dc23 CTM0186p-CIP
  3. LỜI NHÀ XUẤT BẢN Lịch sử bang giao của các vương triều phong kiến nước ta cho thấy, ngoại giao trong nhiều giai đoạn là một mặt trận đấu tranh không kém phần quyết liệt mà những vị quan được cử tiếp sứ hay đi sứ đều là những người “trí dũng song toàn”, nhạy bén về chính trị, dũng cảm trong mọi khó khăn, biết rõ đối phương và tuyệt đối trung thành với đất nước... Lê Văn Thịnh (thế kỷ XI), Đỗ Khắc Chung (thế kỷ XIII), Mạc Đĩnh Chi (thế kỷ XIV), Nguyễn Trãi (thế kỷ XV), Phùng Khắc Khoan (thế kỷ XVI), Giang Văn Minh (thế kỷ XVII), Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII), Ngô Thì Nhậm (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX),... là những ví dụ cụ thể. Cốt cách, tài năng của họ làm cho kẻ đối diện phải kính phục. Cùng với đấu tranh quân sự, hoạt động ngoại giao của tổ tiên ta cũng góp phần làm thất bại mưu đồ xâm lược của các thế lực ngoại bang, thể hiện phẩm chất tốt đẹp của một dân tộc anh hùng, đầy tính chiến đấu, đồng thời cũng rất yêu chuộng hòa bình, muốn thiết lập và duy trì quan hệ hữu hảo với láng giềng song kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước khi bị xâm phạm, nêu cao chính nghĩa, 5
  4. kiên trì nguyên tắc nhưng mềm mỏng, linh hoạt trong ứng xử ngoại giao. Nhằm cung cấp thêm cho bạn đọc những tư liệu minh họa một số hoạt động ngoại giao thực tiễn của ông cha ta trong đấu tranh chống phong kiến phương Bắc để bảo vệ chủ quyền, độc lập dân tộc và quốc thể nước ta, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cho tái bản cuốn sách Các nhà ngoại giao trong lịch sử dân tộc. Các nhân vật ngoại giao được nêu trong cuốn sách cũng nói lên phần nào nền văn hiến lâu đời của dân tộc và phong cách ngoại giao Việt Nam thời xưa mà các sứ thần của nước ta là tiêu biểu cho tài cao, trí rộng và khí phách anh hùng của dân tộc. Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc. Tháng 11 năm 2017 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6
  5. ĐÔI ĐIỀU VỀ NGOẠI GIAO TRUYỀN THỐNG CỦA CHA ÔNG Nước Việt Nam ở đông nam lục địa châu Á, phía bắc giáp với Trung Hoa, phía đông là Biển Đông, phía tây giáp với Lào, Campuchia. Dân tộc Việt Nam có lịch sử dựng nước tương đối sớm ở khu vực Đông Nam châu Á. Đại Việt sử lược được biên soạn vào thế kỷ XIII cho rằng, nhà nước đầu tiên của nước ta là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, ra đời vào thế kỷ VII trước Công nguyên, cùng thời vua Chu Trang Vương, nhà Chu (Trung Quốc). Tuy nhiên, theo truyền thuyết, thời đại Hùng Vương khởi đầu vào năm 2879 trước Công nguyên với Kinh Dương Vương và kéo dài đến năm 258 trước Công nguyên. Tiếp đó, là nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương (257-207 trước Công nguyên). Năm 218 trước Công nguyên, nhà Tần đem 50 vạn quân xâm lược Âu Lạc, song bị thất bại, nhưng Âu Lạc lại bị Triệu Đà thôn tính và năm 111 trước Công nguyên bị nhà Hán xâm chiếm, biến thành quận, huyện của Trung Hoa. Những cuộc khởi nghĩa chống lại ách thống trị của các chế độ phong kiến phương Bắc đã lần lượt nổ ra. Tiêu biểu là khởi nghĩa của Hai Bà Trưng 7
  6. năm 40 trước Công nguyên, khởi nghĩa của Bà Triệu năm 248. Năm 542, Lý Bí khởi nghĩa, lập ra nước Vạn Xuân độc lập (544), song không bao lâu nước ta lại rơi vào ách đô hộ của nhà Lương. Tiếp đó, là các cuộc khởi nghĩa của Triệu Quang Phục, Khúc Thừa Dụ,... Chế độ Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm. Năm 938, chiến thắng lịch sử trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền mở ra một kỷ nguyên độc lập cho đất nước, khôi phục quan hệ bang giao với các nước láng giềng, trước hết là Trung Quốc. Kế tiếp là các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc, Tây Sơn và Nguyễn. Tuy vậy, trước khi bị nhà Hán đô hộ, nhà nước Văn Lang, Âu Lạc cũng đã tiếp xúc với Trung Hoa. Theo sử Trung Quốc, năm 2353 trước Công nguyên, sứ bộ đầu tiên của nước ta đã đến thăm vua Đường Nghiêu thứ V với quà tặng là một cụ rùa lớn trên mai có khắc chữ khoa đẩu, ghi sự việc khi trời đất được mở mang. Vua Nghiêu rất trân trọng món quà này và cho chép những điều ghi trên mai rùa làm lịch. Ở phương Đông, rùa là biểu tượng của trường tồn, nên tổ tiên chúng ta muốn gửi một thông điệp mong muốn tạo dựng mối quan hệ bền vững với láng giềng. Sứ bộ thứ hai của nhà nước Văn Lang thăm kinh đô nhà Chu ở Cam Túc vào năm 1110 trước Công nguyên, gặp vua Thành Vương thứ VII nhà Chu. Tặng phẩm lần này là chim trĩ trắng, 8
  7. linh vật của nước ta. Vua Chu tặng lại sứ đoàn năm cỗ xe gắn la bàn để đưa sứ bộ về nước1. Phát huy truyền thống trên, trong suốt thời gian dài dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã có rất nhiều hoạt động ngoại giao nhằm giành độc lập dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước, tạo nên bản sắc ngoại giao truyền thống Việt Nam. Một vài đặc điểm ngoại giao của cha ông Coi trọng hòa hiếu với các nước láng giềng Cha ông ta đã rất coi trọng hòa hiếu với láng giềng, nhất là Trung Quốc, thực hiện chính sách đối ngoại “thần phục thiên triều”, “trong xưng đế, ngoài xưng vương”, khôn khéo, mưu trí trong bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc của mình. Đây là tư tưởng lớn, cơ bản, có tính chất chủ đạo của ngoại giao truyền thống Việt Nam. Ở Trung Quốc, nhà nước chiếm hữu nô lệ đầu tiên ra đời là nhà Hạ (thế kỷ XXII-XXI trước Công nguyên). Tiếp đến là nhà Thương. Đầu thế kỷ XI trước Công nguyên, Chu Vũ Vương diệt nhà Thương, lập ra nhà Tây Chu. Vua Chu phong hầu cho họ hàng, thân thích, các chư hầu ra đời từ đó. Nhà Chu đã trở thành đế chế phong kiến rộng lớn. Một mặt, họ thiết lập chế độ thống trị rất hà khắc đối với nhân dân trong nước, mặt khác, lại ra sức bành trướng _______________ 1. Sách Trung Quốc: Cương mục tiền biên, Thông chí, Việt hiện thứ. 9
  8. lãnh thổ, xâm lược, đô hộ các dân tộc bên ngoài. Lúc đầu Trung Quốc có đến 1.700 quốc gia lớn, nhỏ. Từ thời đó, Trung Quốc đã gọi thế giới là thiên hạ, thiên hạ được chia làm chín châu: Kỷ, Duyên, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Chia như thế để có căn cứ đánh thuế và quy định đồ cống nạp. Thiên hạ cũng được chia làm năm cõi: Diện phục, Hầu phục, Tuy phục, Yêu phục, Hoang phục để xác định chỗ nào là đất của vua, thái ấp của các quan đại phu, chư hầu, nơi sinh sống của người có tội đi đầy, các dân tộc “mọi rợ”,... Trong thiên hạ, Trung Quốc ở giữa, chung quanh là các chư hầu mà Trung Quốc gọi là phiên thuộc. Vì thế, người Trung Quốc tự coi mình là Hoa Hạ (Hoa là tinh hoa, còn Hạ là lớn mạnh nhất) Hoa Hạ làm chủ Trung Quốc còn các dân tộc khác là nhung, di, man, địch. Dưới ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo, họ cho rằng làm chủ thiên hạ là thiên tử (con trời), thay trời trị dân; quyền của thiên tử là tuyệt đối. Các nước phải phục tùng nước tông chủ theo những quy định về quân sự, chính trị, kinh tế. Sách phong và triều cống là hai công cụ chính của thiên triều trong hàng nghìn năm để khuất phục chư hầu. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng nên có chính sách ngoại giao khéo léo, mưu trí. Nhà sử học Phan Huy Chú rất đúng khi nhận xét: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với láng giềng là việc lớn, mà những khi ứng thù lại rất quan hệ, 10
  9. cho nên nghĩa tu hiếu (việc giao hiếu) chép ở Kinh Xuân Thu, đạo giao lân (giao thiệp với các nước láng giềng) chép ở Hiền truyện (sách Mạnh Tử), chính là đem lòng tin thực mà kết giao, người có quyền trị nước phải nên cẩn thận”1. Đứng trước một đối thủ mạnh, luôn thường trực tư tưởng bành trướng, bá quyền, nên để có được quan hệ hòa hiếu, các triều đại phong kiến Việt Nam đã phải thực hiện chính sách đối ngoại “thần phục thiên triều”, “trong xưng đế, ngoài xưng vương”. Đây là chính sách vô cùng khôn ngoan, sáng suốt, sự lựa chọn duy nhất đúng trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ. Việc xin thần phục thiên triều được thể hiện qua việc các vua Đại Việt đều xin được thiên triều phong vương và triều cống. Việc phong vương có ý nghĩa rất quan trọng, là sự khẳng định tính chính danh, tính hợp pháp của triều đại đó đối với thiên triều. Thiên triều có nghĩa vụ đảm bảo an ninh, toàn vẹn lãnh thổ cho quốc gia được phong vương. Chỉ có vậy mới có quan hệ hòa hiếu, ổn định để giữ vững độc lập, chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước. Ngoài ra, các triều đại Việt Nam còn cống cho Trung Quốc các sản vật địa phương như voi, ngà voi, tê giác, sừng tê giác, chim trĩ và lông chim trĩ, trầm hương, vàng bạc, châu báu và thợ lành nghề, thầy tu, thầy bói, v.v.. _______________ 1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, “Bang giao chí”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 533. 11
  10. Việc triều cống được quy định ba năm một lần. Từ khi kinh đô của Trung Hoa chuyển lên Yên Kinh (Bắc Kinh) thì sáu năm một lần, song phải có hai lễ cống1. Trong lịch sử thế giới, các nước Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ba Tư,... đều bắt các nước nhỏ phụ thuộc mình nhưng không ràng buộc các nước phụ thuộc như phong kiến Trung Quốc. Quan hệ thần phục được thiên triều đáp lại ở nhiều mức khác nhau, từ chỗ được công nhận là người đứng đầu quận, huyện, đến được công nhận là phiên thuộc, rồi được đứng vào hàng chư hầu, triều hội nhà Minh Đường2 và sau cùng là được chấp nhận đứng đầu một nước với tư cách là quốc vương. Phan Huy Chú viết: “Nước ta thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ, không được dự vào hàng chư hầu triều hội ở nhà Minh Đường. Rồi bị _______________ 1. Ví dụ: Đồ cống năm 1431 của vua Lê cho nhà Minh gồm 1 người vàng (trả nợ việc Lê Lợi chém đầu Liễu Thăng tại trận Chi Lăng), 1 lư hương bạc, 1 đôi bình hoa bạc, 300 tấm lụa thổ sản, 14 đôi ngà voi, 20 lọ hương hun áo, 2 vạn nén tuyền hương, 24 khối tốc hương. Cũng năm này, Lê Lợi tạ ơn được phong vương nên cống 5 vạn lạng vàng. Đồ cống nhà Mạc gồm: lư hương và bình hoa vàng 4 bộ (nặng 100 lạng), rùa vàng 1 con nặng 90 lạng, hạc bạc và đài bạc mỗi thứ 1 cái nặng 50 lạng, bình hoa và lư hương bạc 2 bộ nặng 2.150 lạng, 12 chiếc mâm bạc nặng 64 lạng, trầm hương 60 cân (cân ta), tốc hương 148 cân. 2. Nhà Minh Đường: Lễ đường của nhà Minh, được xem như phòng khánh tiết, là nơi các chư hầu triều hội. 12
  11. Triệu Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt Vương, chỉ được sánh với chư hầu của Trung Quốc, chứ chưa được nêu là một nước, về sau nội thuộc nhà Hán, nhà Đường, bèn thành quận, huyện (của Trung Quốc). Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục, mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ sách phong của Trung Quốc mới nhận cho đứng riêng là một nước”1. Việc phong vương không đơn giản, là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, phức tạp. Không phải vua Đại Việt nào cũng được phong vương ngay, nhất là khi quyền lực của dòng họ này chuyển sang dòng họ khác hoặc sau những lần chiến thắng các cuộc xâm lược, giết nhiều tướng tá của thiên triều, làm thiên triều mất mặt,... Ví dụ, Hoàng đế Lê Hoàn lên ngôi cuối năm 980, năm 981 đánh tan cuộc xâm lược của nhà Tống, uy danh lẫy lừng mà đến năm 986, vua Tống mới sai sứ sang phong cho Lê Hoàn chức Tiết độ sứ, rồi chức Kiểm hiệu Thái úy (năm 988), Đặc tiến (năm 990), Giao Chỉ quận vương (năm 993), Nam Bình vương kiêm Thị trung (năm 997). Tính từ khi Ngô Quyền giành lại độc lập (năm 938) đến tận năm 1175, vua Tống Cao Tông mới phong vua Lý Anh Tông làm An Nam quốc vương. _______________ 1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 534-535. 13
  12. Việc triều cống cũng là cuộc đấu tranh ngoại giao căng thẳng, không kém phần cam go của các triều đại Việt Nam đối với Trung Quốc. Triều Trần đã không chấp nhận yêu sách của nhà Nguyên đòi cống thợ và thầy thuốc giỏi. Đến tận năm 1718, sứ thần Nguyễn Công Hãng mới dùng lý lẽ để bác lệ triều cống này. Mặc dù vua Đại Việt phải chấp nhận việc thiên triều phong vương, song bên trong thì các vua của nước ta đều xưng đế, coi mình ngang hàng các hoàng đế Trung Hoa, khẳng định Việt Nam là quốc gia độc lập, chủ quyền, không cho thiên tử can thiệp vào công việc nội bộ của nước Nam. Đó là tinh thần: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Dịch thơ: Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời, Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời1 Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt) Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. _______________ 1. Bản dịch của Trần Trọng Kim. 14
  13. Núi non, bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác. Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên hùng cứ một phương1. Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi) Mặt khác, vào lúc hưng thịnh, vua chúa Đại Việt cũng coi mình là nước lớn, các nước nhỏ xung quanh như Chiêm Thành, Hỏa Xá, Thủy Xá, Vạn Tượng, Cao Miên đều phải thần phục. Năm 1815, vua Gia Long công bố danh sách 13 nước chư hầu. Chế độ sách phong và triều cống đối với các vua Trung Hoa chấm dứt sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, buộc triều đình Huế ký Hiệp ước Hácmăng, ngày 25 tháng 8 năm 1883 và Hiệp ước Patơnốt, ngày 6 tháng 6 năm 1884, Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Ấn tín bị nung chảy. Kết hợp chặt chẽ đánh với đàm, kiên quyết bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước khi bị xâm phạm Trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, triều đại nào cũng coi Việt Nam là phiên thuộc, luôn tìm cách thôn tính, chinh phục. Phong kiến Trung Quốc _______________ 1. Bản dịch của Ngô Tất Tố. 15
  14. đã tiến hành xâm chiếm, đô hộ Việt Nam 11 lần. Cuộc xâm lược đầu tiên là của nhà Tần (cuối thế kỷ III trước Công nguyên), rồi đến các cuộc xâm lăng của các nhà Hán, Ngô, Tống, Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường, Lương, Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Dưới triều Lý, vào năm 1077, sau khi chặn đứng quân Tống ở sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đã “dùng biện sĩ để bàn hòa, không nhọc tướng, khỏi tốn xương máu, bảo an được tông miếu”. Ông đã cử Kiều Văn Ứng sang thương lượng với Quách Quỳ hạ chiếu rút đại binh và nhà Lý lập tức sai sứ sang “tạ tội” và triều cống. Đề nghị của Lý Thường Kiệt đã mở lối thoát cho quân Tống rút về nước trong danh dự. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, cha ông ta đã kết hợp đánh và đàm nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền. Tiếp đó, là cuộc đấu tranh lâu dài đòi sáu huyện, ba động và cử sáu sứ bộ sang Trung Quốc từ năm 1077 đến 1088 để đòi lại hai động Vật Dương và Vật Ác bị nhà Tống chiếm năm 1077. Trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông, nhà Trần đã kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự nhằm giữ gìn hòa bình, tranh thủ thời gian chuẩn bị lực lượng. Cuộc đấu tranh ngoại giao cực kỳ gay go, phức tạp. Vua Trần đã chủ động cử sứ bộ Chu Bắc Lãm sang tận Thiểm Tây, Trung Quốc để gặp chúa Mông Cổ là Mông Kha xin ba năm triều cống một lần nhằm giữ quan hệ. Kết quả là vào năm 1261, Hốt Tất Liệt 16
  15. đã chấp nhận đề nghị và cấm quân xâm phạm bờ cõi Đại Việt, khiến cho nền hòa bình tạm thời được giữ vững. Xen giữa ba lần Nguyên - Mông xâm lược Việt Nam, nhà Trần đã cử nhiều sứ bộ sang triều cống, thương lượng, bác bỏ các yêu sách vô lý của nhà Nguyên, giải quyết hậu quả chiến tranh. Đánh giá về ngoại giao triều Trần, tác giả Lịch triều hiến chương loại chí viết: “Trong khoảng hơn trăm năm ngăn được sự nhòm ngó của Trung Quốc mà tăng thêm thanh danh cho văn hiến nước nhà, đó là nhờ sự giao tiếp đắc nghị giúp sức vậy”1. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã kết hợp khéo léo giữa ngoại giao và chiến trường. Nghĩa quân Lam Sơn đã tiến hành thương lượng với quân Minh đầu năm 1423, để có được hai năm hòa hoãn, củng cố lực lượng; tiếp đó, đã kết hợp quân sự và ngoại giao, binh vận hạ thành Trà Long mà không tốn một mũi tên, hòn đạn nào; đặc biệt xuất sắc là kết hợp ngoại giao với quân sự buộc Tổng binh Vương Thông tham dự Hội thề Đông Quan, cam kết rút quân về nước theo điều kiện của nghĩa quân. Dưới thời Tây Sơn, ngoại giao tiếp nối của quân sự, cha ông ta đã rất thành công trong việc giải quyết hậu quả chiến tranh, ngăn chặn âm _______________ 1. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Sđd, tr. 618. 17
  16. mưu tiến đánh nhằm báo thù của nhà Thanh. Tại Tam Điệp, khi chuẩn bị đưa quân ra Thăng Long, Quang Trung nói với các tướng: “Chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được”1. Thực hiện chủ trương sáng suốt trên, sau đại phá quân Thanh, nhiều sứ bộ ngoại giao đã được cử sang Trung Quốc vừa là để ngăn chặn nhà Thanh đánh báo thù, vừa bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh. Vua Càn Long chấp nhận giảng hòa, hủy kế hoạch tấn công báo thù, phong vương và gả công chúa cho vua Quang Trung,... Hòa hiếu giữa hai nước nhanh chóng được khôi phục. Vua Càn Long lại cho vẽ tranh cảnh đón sứ bộ Nguyễn Quang Hiển, tự đề thơ vào tranh và đặc biệt là đón Quang Trung giả vô cùng long trọng. Thành viên sứ bộ, Đoàn Nguyễn Tuấn phải thốt lên: “Từ trước đến giờ, người mình đi sứ Trung Quốc, chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”2. _______________ 1. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1970, tr. 362-363. 2. Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Đại Việt, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 188. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2