TÍNH HUYỀN BÍ CỦA VĂN HÓA ẤN ĐỘ<br />
Ấn Độ là một trong những cái nôi sớm nhất của nền văn minh nhân loại. Nền<br />
văn minh Ấn - Hằng, từ 3000 năm trước CN tồn tại và bồi đắp theo dòng lịch sử,<br />
to cao sừng sững như dãy núi Hymalaya hùng vĩ với ngọn Meru thần thánh<br />
được gọi là cột trụ trời, là cõi trời tỏa chiếu ánh hào quang lấp lánh, rực sáng cả<br />
vùng trời phương Đông. Cũng chính từ cột trụ trời ấy mà Ấn Độ huyền bí, nền<br />
văn hóa Ấn Độ huyền bí đi vào cõi tâm linh, và chính Ấn Độ chứ không phải<br />
nơi nào khác dẫn đưa các vùng đất phương Đông trở thành duy linh. Đó là kết<br />
tinh sâu thẳm mọi giá trị của văn hóa Ấn Độ, và chừng nào đó, của văn hóa<br />
phương Đông.<br />
<br />
Nói tính huyền bí của văn hóa Ấn Độ bởi Ấn Độ từ xưa được mệnh danh là<br />
xứ sở của thần thoại, huyền thoại với muôn điều kỳ diệu, xứ sở của cổ tích, truyền<br />
thuyết, của thần tích purana đại dương truyện. Với việc thờ phụng hàng nghìn thần<br />
linh trong tự nhiên cùng với sự suy tôn hàng nghìn nhân thần qua cặp kính phóng<br />
đại nhân cách hóa, con người Ấn Độ đã tạo dựng một hệ thống thần thoại kỳ vĩ,<br />
phong phú, không hề thua kém thần thoại Hy Lạp. Cũng chính từ cội gốc thần<br />
thoại Ấn Độ và thần thoại Hy Lạp trong quá trình phát triển xã hội đã tạo ra hai<br />
ngả đường tư duy triết lý khác nhau, không hề gặp nhau và luôn đối lập nhau: một<br />
ngả đường duy linh phương Đông và đối lập với nó là ngả đường duy lý phương<br />
Tây. Lịch sử văn minh của loài người bắt đầu xuất phát điểm từ sự toàn cầu hóa<br />
theo cách gọi đương đại hôm nay (thế giới đại đồng, như chúng ta vẫn gọi, thể hiện<br />
rõ nhất trong folklore của mọi dân tộc, ở tầng thứ nhất của lịch sử văn hóa loài<br />
người khi những gì con người làm ra, sáng tạo ra trong quan hệ với tự nhiên để tạo<br />
dựng xã hội con người, phân biệt con người với giới động vật, con người ngày<br />
càng tách xa khỏi giới động vật; còn ở tầng thứ hai là những đặc trưng văn hóa<br />
phát triển, biến đổi theo địa lý và lịch sử giúp chúng ta phân biệt dân tộc này với<br />
dân tộc khác, khu vực văn hóa này với khu vực văn hóa khác). Và trên con đường<br />
đi kiếm tìm, biến đổi lâu dài (về thời gian) và phát triển, loài người lại quay gặp lại<br />
điểm xuất phát ấy, gần như đường đi của một vòng tròn. Đó là tính toàn cầu hóa<br />
trong phát triển của các xã hội loài người ở TK XXI, ở một nền văn minh mới.<br />
Theo tôi, toàn cầu hóa là xu thế phát triển của loài người, nếu không nói là tất yếu,<br />
trong tình hình biến động xã hội hiện nay của con người. Đó là nhu cầu khách quan<br />
của xã hội loài người đương đại, trong đó có các xã hội đang tìm cách đi cụ thể để<br />
đặt chân vào toàn cầu hóa, hội nhập thế giới. Bàn về các giá trị văn hóa và phát<br />
triển của Ấn Độ là nhắc đến một trong những cái nôi văn minh sớm nhất của loài<br />
người, như chúng ta thấy, và hoàn toàn có thể chứng minh được, chính nền văn<br />
hóa này đã mang tính toàn cầu hóa, đã toàn cầu hóa từ thời cổ đại. Những giá trị,<br />
những phát hiện từ nền văn hóa này đã chiếu rọi ảnh hưởng, lan tỏa, hội tụ rất<br />
nhiều vào những vùng đất, vùng văn hóa ở gần nó (như Đông Nam Á chẳng hạn)<br />
và ít hơn, nhạt hơn vào những vùng đất, vùng văn hóa ở xa nó (như Trung Á và<br />
châu Âu). Sự tỏa sáng của văn hóa Ấn Độ và sự đón nhận sáng tạo của các nền văn<br />
hóa khác trên trái đất đã làm chúng ta sửng sốt, kinh ngạc, ngưỡng mộ nó. Những<br />
câu hỏi tại sao sẽ giúp kiếm tìm những giá trị văn hóa phù hợp cho mình từ một<br />
nền văn hóa của một đất nước vẫn luôn được coi là huyền bí.<br />
<br />
Theo sử liệu và khảo cổ học, chúng ta biết đến nền văn minh Ấn cổ<br />
Mohenjodaro và Harappa - nền văn minh Ấn - Hằng từ 3000 năm trước CN của<br />
người Sumerian và người Dravidian phát triển rực rỡ. Bắt đầu từ nền văn minh<br />
này, người Ấn Độ cổ đại đã có con mắt quan sát rất tinh tế bằng trực giác để hình<br />
thành một quan niệm về vũ trụ, đất trời. Việc thờ yoni (âm vật) - linga (dương vật)<br />
là ý niệm về sự sinh tồn, sinh sôi nảy nở trong trời đất do đực cái kết hợp. Hai<br />
giống này có khắp nơi, luôn tìm gặp nhau theo ý muốn tự nhiên. Đây là tính duy<br />
vật thô sơ, tự phát, nguyên thủy (protomaterialisme). Cũng từ ý niệm này mà người<br />
Ấn Độ mới dựng nên hệ thống thần thoại về vũ trụ thiên nhiên bằng việc cha trời<br />
và mẹ đất lấy nhau đẻ ra tất cả vạn vật, che chở cho vạn vật. Cũng từ ý niệm đó mà<br />
ra đời hệ thống thần thoại về thần tình cảm, tình yêu (Kama), làm phấn chấn và lôi<br />
cuốn muôn loài. Thần tình yêu là tự tại, vô hình, ở xung quanh con người trong<br />
mọi nơi mọi chốn, là nguồn tình lai láng của loài người, tạo ra giống nòi mãi mãi.<br />
Xuất phát từ đó, thần thoại Ấn Độ mới giải thích về thần sáng tạo, thủy tổ loài<br />
người, mới thờ người khổng lồ, giải thích người Ấn Độ do người khổng lồ sinh ra,<br />
sinh ra các Manu nguyên thủy. Đó là thời kỳ người Arian vào đất Ấn Độ (1500<br />
năm trước CN) chinh phục và đồng hóa các chủng tộc thổ dân, sắp xếp thần thoại<br />
theo hệ thống thành ra thần ca Vêđa (Rig Veda). Thời Vêđa huy hoàng, thần diệu<br />
là thế, rồi sự phân biệt màu da đã ra đời chế độ đẳng cấp khắc nghiệt mà Mác gọi<br />
là “sự phân công lao động nguyên thủy” và tôn giáo Bàlamôn ra đời làm cho thần<br />
thoại Ấn Độ thời hậu Vêđa trở nên siêu hình thần bí, làm cho hao hụt đi phần nào<br />
đó giá trị văn hóa của thần thoại.<br />
<br />
Nói tính huyền bí của văn hóa Ấn Độ bởi Ấn Độ là quê hương của các tôn<br />
giáo lớn (Ấn Độ giáo, Phật giáo) và là tiểu lục địa dung chứa nhiều tôn giáo nhất,<br />
cả tôn giáo bản địa và tôn giáo ngoại nhập (đạo Sích, đạo Jain, đạo Hồi, đạo Thiên<br />
chúa…). Tất cả các tôn giáo khác nhau ở Ấn Độ đều chung sống hòa bình, khoan<br />
dung từ xưa đến nay dưới mái nhà văn hóa Ấn Độ. Mỗi tôn giáo đều có tôn chỉ,<br />
giáo lý của mình nhưng đều hướng thiện. Những khái niệm như luân hồi<br />
(samsara), nghiệp báo (karma), nhân quả hay quá trình tu luyện hướng tới mục<br />
đích cuối cùng là giải thoát, siêu thoát (moksa) và những điều răn sống đạo đức,<br />
bình đẳng, bác ái, thực hiện đúngdharma, hay luật bất tồn sinh (ahimsa) đều có thể<br />
tìm thấy trong đạo Hindu ra đời sớm nhất, quyện chặt và song hành với sự phân<br />
chia đẳng cấp khắc nghiệt mang tính chất thế tập (cha truyền con nối, đời đời<br />
không bao giờ thay đổi, bất di bất dịch về huyết thống) và tạo nên cấu trúc xã hội<br />
Ấn Độ tồn tại lâu dài. Giáo lý dharma của Ấn Độ giáo (hay Hindu giáo) đã quy<br />
định mỗi người từ khi sinh ra đã vĩnh viễn thuộc về đẳng cấp nào của mình rồi.<br />
Con người ở đẳng cấp thấp (như nô lệ chẳng hạn) chỉ có thể kỳ vọng kiếp này đem<br />
hết sức mình ra để phục vụ cho kẻ khác, tu luyện cho dày công đức để mong kiếp<br />
sau đầu thai vào đẳng cấp cao hơn (theo thuyết luân hồisamsara). Chính điều này<br />
mới là cơ sở vững chắc nhất để lý giải, để cắt nghĩa tại sao dân chúng Ấn Độ lại<br />
mộ đạo. Và Hindu giáo trở thành cứu cánh duy nhất cân bằng đời sống tinh thần<br />
cho đại đa số dân chúng, là sức mạnh tinh thần giúp người dân Ấn Độ vượt qua<br />
mọi trở lực, thử thách, mọi nỗi đau trần thế để xây dựng và phát triển xã hội Ấn Độ<br />
cho đến ngày hôm nay. Hindu giáo trở thành một nhu cầu không thể thiếu như hơi<br />
thở, cơm ăn nước uống hàng ngày trong đời sống tâm linh của người Ấn Độ. Nó là<br />
thứ thuốc an thần hữu hiệu, xoa dịu nỗi đau, khích lệ con người Ấn Độ thêm nhiều<br />
nghị lực vượt qua mọi éo le, bất hạnh, tiếp sức sống mãnh liệt cho họ bằng thuyết<br />
luân hồi và nghiệp báo, đem lại niềm hy vọng vĩnh hằng cho người Ấn Độ bằng<br />
thuyết lý giải thoát, siêu thoát. Cũng chính từ đó, từ giáo lý dharma tạo nên tính<br />
cách cam chịu, nhẫn nại, bền bỉ, hòa hợp, tính thiện, hòa đồng với tự nhiên, thuận<br />
theo tự nhiên của người Ấn Độ trong lao động, trong đấu tranh để phát triển xã hội.<br />
Tôn giáo là một trong những nhân tố quan trọng nhất quy định bộ mặt văn hóa dân<br />
tộc với những giá trị nằm ở chiều sâu của nó. Với Ấn Độ, tôn giáo là tất cả.<br />
<br />
Tính huyền bí của văn hóa Ấn Độ ẩn chứa trong triết học, từ gốc nguồn kinh<br />
Vêđa và về sau đẳng cấp, tôn giáo ra đời làm cho triết học Ấn Độ cùng tồn tại với<br />
tôn giáo một cách hòa bình. Tôn giáo và triết học Ấn Độ lại gắn kết mật thiết với<br />
nhau, chi phối lẫn nhau. Có khuynh hướng triết học duy vật và khuynh hướng duy<br />
tâm. Triết học Ấn Độ phong phú, đa dạng với nhiều môn phái khác nhau<br />
(pháicharvac, phái darsana…) trong đó phái vedanta ảnh hưởng sâu sắc nhất đến tư<br />
tưởng Ấn Độ. Vedanta là triết học trừu tượng, siêu hình, tư biện, giải thích nguyên<br />
lý về linh hồn tuyệt đối (brahman) đồng nhất với linh hồn cá thể (atman) trong<br />
kinh Upanisad. Về sau môn phái sùng tín (TK X, Bhakti) ảnh hưởng tới các nhà<br />
văn hóa Ấn Độ, có khuynh hướng tiến bộ, đề cao tình yêu thương của con người,<br />
kêu gọi hòa hợp, phủ nhận đẳng cấp. Triết học Yoga của Ấn Độ ảnh hưởng sâu<br />
rộng ở nhiều nơi trên thế giới. Các phép tu luyện Yoga với những kết quả của nó<br />
làm cho chúng ta kinh ngạc về những khả năng vô biên của con người mà con<br />
người chưa làm chủ được những khả năng của chính mình. Triết học và tôn giáo<br />
vừa là động lực vừa biến thành mục tiêu phát triển văn hóa Ấn Độ. Tôn giáo - triết<br />
học - văn hóa nghệ thuật là ba bộ phận hữu cơ cấu thành cốt lõi nền văn hóa Ấn<br />
Độ, hoàn toàn mang bản sắc Ấn Độ.<br />
<br />
Văn hóa nghệ thuật Ấn Độ phát triển xuôi dòng theo sự phát triển của tôn<br />
giáo, triết học. Nếu như thời cổ đại, người Ấn Độ đã biết phép tính toán bằng dây<br />
thừng, toán học được soạn thành sách, đề ra lý thuyết và giải các phương trình 2 ẩn<br />
số, căn thức bậc 2, bậc 3, sin, cosin, biết tính chu vi đường tròn theo số pi, phát<br />
minh ra chữ số Ả rập, số không thì thời hiện đại đã có nhà máy điện nguyên tử<br />
(năm 1960), sở hữu bom nguyên tử (1974), phóng vệ tinh nhân tạo lên vũ trụ (năm<br />
1975) và hiện nay phần mềm vi tính là một trong những công nghệ hàng đầu thế<br />
giới (sau Mỹ). Chính sách khoa học kỹ thuật, nghiên cứu khoa học ứng dụng vào<br />
sản xuất của Ấn Độ đang có những bước phát triển mới, có nhiều thành tựu mới<br />
trong các lĩnh vực khác nhau. Khoa học thiên văn, khoa học y dược Ấn Độ phát<br />
triển nhờ sự kế thừa thành tựu từ truyền thống, từ thời cổ đại…<br />
<br />
Văn hóa với các thành tố khác nhau của nó như kiến trúc, điêu khắc, ca múa<br />
nhạc, văn chương… ở Ấn Độ đều đượm màu sắc tôn giáo. Các công trình kiến trúc<br />
đền thờ, cung điện được xây dựng từ trước CN theo phong cách stupa ở Ấn Độ rất<br />
độc đáo, kỳ vĩ, nguy nga; các công trình hòa trộn nghệ thuật Hồi giáo và Ấn Độ<br />
giáo rất nổi tiếng - chẳng hạn như tháp Kutur Minar (ở Đêli), lăng mộ Taj Mahal<br />
(ở Agra), cung điện vua Akbar, Sa Dahan… là những kỳ quan văn hóa đóng góp<br />
cho nhân loại. Kiến trúc điêu khắc của Ấn Độ đã lan tỏa ảnh hưởng tới khu vực<br />
Đông Nam Á, Tây Á làm cho bóng hình văn hóa Ấn Độ trở nên trường tồn và<br />
mang tính quốc tế hóa cao độ. Nghệ thuật Ấn Độ nói chung luôn luôn tìm tòi cái<br />
đẹp trong sự tôn nghiêm, uy nghi, tĩnh mịch nhưng rất ôn hòa. Nghệ thuật song<br />
hành cùng tôn giáo Ấn Độ, tôn giáo chi phối nghệ thuật, tôn giáo “đọc” cho văn<br />
học chép. Văn học Ấn Độ với bề dày lịch sử 40 thế kỷ đã để lại cho văn học thế<br />
giới nhiều tác phẩm vĩ đại, nhiều tên tuổi lừng danh như sử thi Ramayana,<br />
Mahabharata, nhà thơ Kalidasa - kỳ công thứ nhất của nền văn học Ấn Độ, và R.<br />
Tagore - kỳ công thứ hai sau Kalidasa, là mặt trời của đất nước Ấn Độ, một nhà<br />
khai sáng vĩ đại trong nền văn học Ấn Độ tạo ra một thời đại văn học mới - thời<br />
hiện đại của văn học Ấn Độ (R. Tagore là thi hào châu Á đầu tiên được nhận giải<br />
thưởng Nobel văn học năm 1913). Nhà hiền triết, nhà văn hóa vĩ đại R. Tagore là<br />
kết tinh của nền văn hóa, tư tưởng truyền thống Ấn Độ nhưng được ông khai sáng<br />
soi rọi, nhận thức lại trong sự kết hợp Đông - Tây trên tinh thần phát triển của thời<br />
đại mới, đặc biệt là ở Ấn Độ. Trong hoàn cảnh của đất nước Ấn Độ, của xứ sở tôn<br />
giáo mờ mịt khói hương, của kho tàng huyền thoại, thần phả, thần tích, đạo sĩ và<br />
vũ nữ, R.Tagore đã lấy thơ ca làm thần tỏa sáng, vén bức màn khói hương bao phủ<br />
dày đặc trên bầu trời Ấn Độ để soi rọi, khai mở trí tuệ muôn màu cho dân tộc Ấn<br />
Độ. R. Tagore đã cống hiến toàn bộ tài năng, trí tuệ của mình để phụng sự con<br />
người, vì tình yêu thương con người, cho con người, tôn thờ con người bởi lẽ tất cả<br />
mọi cái đang, sẽ tồn tại con người là và sẽ là tối cao(kinh Veda). Văn hóa và phát<br />
triển để cho con người, vì con người trong kỷ nguyên của chúng ta đã được R.<br />
Tagore thực hành. “Nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại” Tagore (lời của Nehru) cũng<br />
như các lãnh tụ Ấn Độ đã khai thác những giá trị tích cực của nền văn hóa truyền<br />
thống Ấn Độ - nền văn hóa thấm đẫm tinh thần nhân văn cao cả trong suốt 5000<br />
năm lịch sử Ấn Độ - để phát triển xã hội mới ở Ấn Độ trước xu thế toàn cầu hóa.<br />
<br />
Con người đã và đang tạo ra thiên nhiên thứ hai cho mình là văn hóa. Con<br />
người Ấn Độ, trong nền văn hóa ấy, của nền văn hóa ấy, dù muốn hay không, luôn<br />
đeo bên mình hành trang văn hóa như hình với bóng với những giá trị văn hóa ở<br />
chiều sâu của nó, nhưng vẫn có thể nhận ra đặc điểm tính cách, tâm lý của họ. Do<br />
đặc thù không gian môi trường văn hóa, con người Ấn Độ luôn luôn mâu thuẫn với<br />
chính mình: vừa khát vọng tâm linh cao siêu huyền bí, vừa sâu sắc tình người trần<br />
thế, thống nhất hòa quyện sự vận động vũ trụ vào nhịp sống của con người. Người<br />
Ấn Độ coi trọng đời sống tâm linh và tư duy luôn hướng vào cái tuyệt đối, cái vô<br />
hạn, xem nhẹ cái cụ thể, cái cá biệt và luôn có cách thích nghi với thế giới thực tại.<br />
Người Ấn Độ sống hướng nội, luôn chiêm nghiệm đời sống, để tâm hồn mình bay<br />
bổng vào thế giới trừu tượng huyền ảo và không bao giờ ngơi nghỉ đấu tranh vì<br />
cuộc sống hòa bình, bình đẳng, bác ái, vì cái thiện và tình yêu, vì sự hòa hợp của<br />
các dân tộc. Con người và văn hóa Ấn Độ là đồng nhất. Văn hóa Ấn Độ có bề dày<br />
lịch sử lâu đời, đồ sộ, kết nối liên tục không hề đứt đoạn theo một dòng chảy từ cổ<br />
đại cho đến thời kỳ hiện đại. Người Ấn Độ hiện đại vẫn luôn luôn tìm về những giá<br />
trị văn hóa truyền thống, khai thác và phát triển những yếu tố, những giá trị phù<br />
hợp với sự phát triển xã hội đương đại trong sự nối kết văn hóa Đông - Tây, trong<br />
bối cảnh toàn cầu hóa. Văn hóa Ấn Độ đầy tính nhân văn ấy đã cống hiến cho loài<br />
người nhiều di sản có giá trị và chính những giá trị trường tồn ấy là sức mạnh to<br />
lớn để Ấn Độ phát triển sức mạnh toàn cầu hóa của Ấn Độ ngày mai.<br />