Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CHU PHẪU VÀ KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ<br />
CÁC BỆNH GAN MẬT TỤY<br />
Đặng Trần Khiêm*, Lưu Ngân Tâm**, Nguyễn Tấn Cường*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện có vấn đề về dinh<br />
dưỡng (nghi ngờ suy dinh dưỡng hoặc suy dinh dưỡng nặng) chiếm tỷ lệ từ 20 – 50%. Suy dinh dưỡng làm gia<br />
tăng các biến chứng sau mổ do đó kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Tại Việt Nam còn ít nghiên<br />
cứu ảnh hưởng của dinh dưỡng đến kết quả phẫu thuật.<br />
Mục đích: (1)Đánh giá một số đặc điểm dinh dưỡng tiền phẫu và hậu phẫu. (2)Xác định mối liên quan giữa<br />
tình trạng dinh dưỡng tiền phẫu (theo SGA) và kết quả sớm sau mổ của những bệnh nhân được thực hiện những<br />
phẫu thuật về gan mật tụy.<br />
Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh về gan, lách, mật, tụy trong 5<br />
tháng, từ 02/01/2011 đến 10/06/2011 tại khoa Ngoại Gan mật tụy (4B3), BV Chợ Rẫy. Thiết kế nghiên cứu: tiền<br />
cứu, phân tích hàng loạt ca (case series)<br />
Kết quả: 209 bệnh nhân được mổ chương trình các bệnh gan, lách, mật, tụy đủ tiêu chuẩn tham gia<br />
nghiên cứu được đánh giá dinh dưỡng trước mổ bởi bác sĩ đã được huấn luyện đánh giá bằng phương pháp<br />
SGA (Subjective Global Assessment). Tỷ lệ suy dinh dưỡng theo phương pháp SGA (B và C) là 53,1%; Tỷ<br />
lệ thiếu cân/suy dinh dưỡng đánh giá theo BMI (< 18,5) là 35,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có albumin huyết thanh<br />
< 3,5 g/dL là: 17,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có prealbumin huyết thanh < 20 mg/dL là: 50,5%. Cân nặng khi ra<br />
viện thấp hơn trước khi mổ, 91,8% bệnh nhân có sụt cân. Prealbumin trung bình sau mổ: 13,03 ± 4,80<br />
mg/dL sụt giảm rõ rệt so với prealbumin trước mổ 20,86 ± 7,98 mg/dL (p < 0,0001). CRP sau mổ trung<br />
bình: 126,01 ± 76,54 ng/mL. Biến chứng chiếm 23,4% tổng số bệnh nhân. Trong đó: xì rò (7,2%); nhiễm<br />
trùng vết mổ (15,3%) và biến chứng khác (4,8%). Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình 9,9 ± 5,7 ngày.<br />
Những bệnh nhân đại phẫu có suy dinh dưỡng (theo SGA) có nguy cơ xì rò cao gấp 2,9 lần nhóm có dinh<br />
dưỡng tốt. Bệnh nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp 3,9 lần ở nhóm đại phẫu và<br />
1,8 lần ở nhóm trung phẫu so với người có dinh dưỡng tốt.<br />
Kết luận: Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện tại khoa Gan mật tụy BV Chợ Rẫy còn cao (53,1%).<br />
Những bệnh nhân có suy dinh dưỡng thì nguy cơ biến chứng xì rò cao gấp 2,9 lần, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ<br />
cao gấp từ 1,8 đến 3,9 lần so với bệnh nhân có dinh dưỡng tốt. Vì vậy, cần áp dụng phương pháp SGA đánh giá<br />
thường quy trước mổ. Những bệnh nhân suy dinh dưỡng phải được điều chỉnh trước phẫu thuật.<br />
Từ khóa: SGA: subjective global assessment, BMI, SDD (suy dinh dưỡng), CRP<br />
<br />
ABSTRACT<br />
PERIOPERATIVE NUTRITIONAL STATUS AND EARLY OUTCOMES OF PATIENTS AT<br />
DEPARTMENT OF HEPATO BILIARY AND PANCREATIC SURGERY, CHO RAY HOSPITAL<br />
Dang Tran Khiem, Luu Ngan Tam, Nguyen Tan Cuong<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 328 - 334<br />
<br />
* Khoa Ngoại-gan-mật-tụy, BV Chợ Rẫy<br />
** Khoa Dinh Dưỡng, BV Chợ Rẫy<br />
Tác giả liên lạc: Bs. Đặng Trần Khiêm; ĐT 0906575935<br />
<br />
328<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Nutrition is indispensable for patients. Many studies revealed that a large amount of inpatients have<br />
nutritional problems (suspected undernutrition or malnutrition: 20 – 50%). Malnutrition makes morbidity and<br />
mortality increasing, prolongs hospital stay and affects cost-effectiveness of the treatment. There were few reports<br />
about nutritional influences and surgery outcomes in Viet Nam so far.<br />
Aims: (1)To evaluate some perioperative characteristics of nutritional status. (2) To reveal relation between<br />
preoperative nutritional status and early outcomes of inpatients at HBP surgery department.<br />
Subject and Method: patients on admission from January 2011 to June 2011 at HBP surgery department,<br />
Cho Ray Hospital<br />
Results: 209 eligible patients are evaluated nutritional status by well-trained practician preoperatively.<br />
Incidence of chronic malnutrition by BMI and SGAare 35.9% and53.1% respectively. The proportion of low<br />
albuminemia and preoperative prealbuminemia are 17.9% and 50.5% respectively. 98.1% of patients have weight<br />
loss on discharge. There are clearly decrease of prealbuminemia and increase of CRP postoperatively. Mean<br />
hospital stay was 9.9 ± 5.7 days. Malnutrition patients (based on SGA) have a risk of leakage 3.5 times higher and<br />
a risk of surgical site infection 3.9 times higher (major abdominal surgery), 1.8 times higher (minor abdominal<br />
surgery) than that of good nutrition ones.<br />
Conclusion: Malnutrition incidence of inpatients at HBP surgery department is still high. Malnutrition<br />
makes leakage and surgical site infection risk higher. Thus, it is necessary to perform screenings of inpatient<br />
nutritional status. The adjustment of preoperative undernutrison is definitely obligatory.<br />
Keywords: hospital malnutrition/undernutrition, SGA, suy dinh dưỡng (SDD), HBP, CRP<br />
Thùy An thực hiện nghiên cứu về tình trạng<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
nhiễm trùng vết mổ và suy dinh dưỡng tại<br />
Dinh dưỡng rất cần thiết với người bệnh.<br />
bệnh viện Chợ Rẫy(3). Những nghiên cứu này<br />
Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân nằm viện<br />
cho thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân<br />
có vấn đề về dinh dưỡng (chiếm tỷ lệ từ 20 –<br />
tiền phẫu khá cao (55,7% theo Phạm Văn<br />
50%)(4,10,18,26,27). Suy dinh dưỡng (SDD) làm gia<br />
Năng(20), 56,7% theo Nguyễn Thùy An(3) và hầu<br />
(24)<br />
tăng các biến chứng sau mổ như: nhiễm trùng<br />
như không có xu hướng giảm qua nhiều<br />
vết mổ, bục xì miệng nối, chậm lành vết<br />
năm(2,3,14,20). Ở những bệnh nhân có vấn đề về<br />
thương…. Bên cạnh đó, suy dinh dưỡng còn liên<br />
dinh dưỡng, tỷ lệ biến chứng, thời gian nằm<br />
quan đến các biến chứng khác như: viêm phổi,<br />
viện và chi phí chăm sóc điều trị đều tăng.<br />
nhiễm trùng huyết…(3,11,19,25). Do đó, SDD kéo dài<br />
Điều này chứng tỏ việc đánh giá và điều trị<br />
thời gian nằm viện (21) và tăng chi phí điều trị(9).<br />
dinh dưỡng trước mổ vẫn còn là một vấn đề<br />
Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu về dinh<br />
cấp thiết cần giải quyết.<br />
dưỡng. Tuy nhiên, đa phần các nghiên cứu tập<br />
Trên lâm sàng có nhiều cách để đánh giá tình<br />
trung vào lĩnh vực dinh dưỡng trong cộng<br />
trạng dinh dưỡng như: dùng các chỉ số nhân trắc<br />
đồng. Trước năm 2000 dinh dưỡng trên bệnh<br />
(BMI, bề dày lớp mỡ dưới da, vòng cánh tay),<br />
nhân nằm viện hầu như không được đề cập<br />
thang điểm đánh giá (MNA, SGA, NRS, NRI)<br />
đến. Năm 2006, có một nghiên cứu đánh giá<br />
hay các xét nghiệm cận lâm sàng (Albumin,<br />
tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân nằm viện<br />
Prealbumin, Transferrin, TLC)(10,12,16,28). Mỗi<br />
thực hiện tại khoa Tiêu hóa và Nội tiết bệnh<br />
phương pháp đều có ưu và nhược điểm riêng.<br />
viện Bạch Mai nhưng lại trong lĩnh vực nội<br />
Nhìn chung không có phương pháp nào là hoàn<br />
khoa(4). Về bệnh lý ngoại khoa và dinh dưỡng<br />
hảo. Một trong những công cụ dễ áp dụng là<br />
hầu như chưa có nghiên cứu nào thực hiện<br />
đánh giá dinh dưỡng tổng thể chủ quan<br />
(20)<br />
ngoại trừ nghiên cứu của Phạm Văn Năng<br />
(Subjective Global Assessment: SGA). Từ thập<br />
cũng trong năm 2006. Năm 2010, Nguyễn<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
329<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
niên 80, SGA đã được Detsky và cs(12) xây dựng<br />
và phát triển. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã<br />
chỉ ra công cụ này có giá trị và đáng tin cậy(12). Ở<br />
Việt Nam, Phạm Văn Năng và cs sử dụng bảng<br />
SGA để đánh giá dinh dưỡng tiền phẫu trên<br />
bệnh nhân ở Cần Thơ và đồng bằng sông Cửu<br />
Long(20). Tại bệnh viện Chợ Rẫy, Lưu Ngân Tâm<br />
và cs(2) dùng bảng SGA để đánh giá tình trạng<br />
dinh dưỡng của bệnh nhân nhập viện. Nghiên<br />
cứu gần đây nhất là của Nguyễn Thùy An đánh<br />
giá liên quan của dinh dưỡng bằng SGA và tỷ lệ<br />
nhiễm trùng sau mổ(3). Đây là một phương pháp<br />
đơn giản, rẻ tiền, dễ sử dụng, dễ huấn luyện và<br />
có thể áp dụng đại trà trên lâm sàng với kết quả<br />
đáng tin cậy. Đó là lý do phương pháp này cần<br />
được mở rộng sử dụng trong thực tế lâm sàng.<br />
Mục đích: Nhằm tìm mối liên quan giữa tình<br />
trạng dinh dưỡng và kết quả sau mổ các bệnh lý<br />
gan mật tụy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu<br />
đánh giá tình trạng dinh dưỡng chu phẫu và kết<br />
quả sớm sau phẫu thuật các bệnh gan, mật, tụy.<br />
<br />
ĐỐI TƯỢNG–PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU<br />
Đối tượng<br />
Bệnh nhân nhập viện phẫu thuật tại khoa<br />
Gan mật tụy BV Chợ Rẫy.<br />
<br />
Tiêu chuẩn chọn bệnh<br />
<br />
KẾT QUẢ<br />
Bảng 1: Một số đặc điểm lâm sàng<br />
Biến số<br />
<br />
Trung bình ± Độ<br />
lệch chuẩn<br />
209<br />
49,6 ± 15,7<br />
209<br />
1,57 ± 0,07<br />
209<br />
49,02 ± 8,70<br />
<br />
Số TH<br />
<br />
Tuổi (năm)<br />
Chiều cao (m)<br />
Cân nặng (kg)<br />
Cân nặng 6<br />
tháng trước<br />
(kg)<br />
2<br />
BMI (kg/m )<br />
BMI ra viện<br />
2<br />
(kg/m )*<br />
<br />
Phương pháp<br />
Tiền cứu, phân tích hàng loạt ca<br />
Phương pháp đánh giá tổng thể chủ quan<br />
(SGA):<br />
<br />
Nhỏ<br />
nhất<br />
16<br />
1,37<br />
31<br />
<br />
Lớn nhất<br />
91<br />
1,72<br />
77<br />
<br />
206<br />
<br />
53,61 ± 8,68<br />
<br />
36<br />
<br />
80<br />
<br />
209<br />
<br />
20,08 ± 3,14<br />
<br />
13,15<br />
<br />
33,78<br />
<br />
188<br />
<br />
19,06 ± 3,19<br />
<br />
12,57<br />
<br />
30,61<br />
<br />
* 91,8% số bệnh nhân sụt cân khi ra viện.<br />
<br />
Bảng 2: Kết quả cận lâm sàng<br />
Biến số<br />
<br />
Bệnh nhân phẫu thuật chương trình các bệnh<br />
gan, lách, mật và tụy.<br />
<br />
Albumin (g/dL)<br />
Prealbumin trước<br />
mổ (mg/dL)<br />
Prealbumin sau<br />
mổ (mg/dL)<br />
CRP (ng/mL)<br />
<br />
Trung bình ±<br />
Nhỏ<br />
độ lệch<br />
nhất<br />
chuẩn<br />
207 4,16 ± 0,72<br />
1,70<br />
<br />
Số TH<br />
<br />
Lớn nhất<br />
7,00<br />
<br />
202<br />
<br />
20,86 ± 7,98<br />
<br />
3,10<br />
<br />
58,40<br />
<br />
184<br />
<br />
13,03 ± 4,79<br />
<br />
3,00<br />
<br />
32,30<br />
<br />
185<br />
<br />
126,01 ±<br />
76,54<br />
<br />
2,50<br />
<br />
556,00<br />
<br />
Bảng 3: Phân loại dinh dưỡng theo SGA<br />
<br />
A. Phần bệnh sử<br />
Thay đổi cân nặng<br />
Mất cân so với 6 tháng trước đây: kg,.%<br />
Thay đổi cân nặng trong 2 tuần: □ Tăng □ Không đổi □ Giảm<br />
cân<br />
Thay đổi ăn uống<br />
□ Không thay đổi<br />
□ Thay đổi: thời gian……..(tuần)<br />
Loại thức ăn:<br />
□ Lỏng □ Sệt □ Ít năng lượng □ Nhịn hoàn toàn<br />
Triệu chứng đường tiêu hóa (có trên 2 tuần):<br />
□ Không □ Buồn nôn □ Nôn □ Tiêu chảy □ Biếng ăn<br />
<br />
330<br />
<br />
Khả năng sinh hoạt hằng ngày<br />
□ Không thay đổi<br />
□ Thay đổi: thời gian……..(tuần)<br />
Loại: □ Hạn chế sinh hoạt □ Đi lại yếu □ Nằm hoàn toàn trên<br />
giường<br />
B. Thăm khám lâm sàng<br />
Bình thường: 0 ; nhẹ: 1 ; vừa: 2 ; nặng: 3<br />
Mất lớp mỡ dưới da: ……..<br />
Teo cơ: ………<br />
Phù chân: ……..<br />
Báng bụng: ……..<br />
C. Phân loại<br />
□ SGA-A: tình trạng dinh dưỡng tốt.<br />
□ SGA-B: suy dinh dưỡng hay nghi ngờ suy dinh dưỡng.<br />
□ SGA-C: suy dinh dưỡng nặng<br />
<br />
Phân loại<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
<br />
Tần số<br />
<br />
SGA A<br />
<br />
46,9<br />
<br />
98<br />
<br />
SGA B<br />
SGA C<br />
Tổng<br />
<br />
41,6<br />
11,5<br />
100<br />
<br />
87<br />
24<br />
209<br />
<br />
Bảng 4: Phân loại dinh dưỡng theo BMI<br />
Phân loại BMI<br />
Thiếu cân (SDD) (< 18,5)<br />
Bình thường (18,5 – 25)<br />
Thừa cân/béo phì (> 25)<br />
<br />
Số TH<br />
75<br />
119<br />
15<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
35,9<br />
56,9<br />
7,2<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
Phân loại BMI<br />
Tổng<br />
<br />
Số TH<br />
209<br />
<br />
Tỷ lệ (%)<br />
100<br />
<br />
Bảng 5: Liên quan giữa SGA và thời gian nằm viện<br />
hậu phẫu<br />
Thời gian nằm<br />
viện hậu phẫu<br />
(ngày)<br />
Nhóm trung<br />
phẫu<br />
<br />
Đánh giá SGA<br />
<br />
Chung<br />
<br />
A<br />
<br />
B<br />
<br />
C<br />
<br />
8±4<br />
<br />
9±5<br />
<br />
10 ± 6<br />
<br />
9±4<br />
<br />
p = 0,089 (ANOVA)<br />
Nhóm đại phẫu 10 ± 4<br />
14 ± 9<br />
15 ± 7<br />
p < 0,0001(ANOVA)<br />
<br />
12 ± 7<br />
<br />
Bảng 6: Liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng<br />
(SGA) và các biến chứng<br />
Dinh<br />
dưỡng<br />
kém<br />
Xì rò (n = 15)<br />
12<br />
Nhiễm trùng<br />
vết mổ (n =<br />
23<br />
32)<br />
Biến chứng<br />
5<br />
khác (n = 10)<br />
Biến số<br />
<br />
Dinh<br />
dưỡng RR (KTC 95%)<br />
p<br />
tốt<br />
3<br />
2,9 (0,7 – 9,5) 0,0303<br />
2,3 (1,1 – 4,6)<br />
9<br />
(Đại phẫu: 3,9 0,0208<br />
Trung phẫu: 1,8)<br />
5<br />
<br />
0,9 (0,3 – 3,0)<br />
<br />
0,8339<br />
<br />
BÀN LUẬN<br />
Tỷ lệ suy dinh dưỡng<br />
Trong nghiên cứu, chúng tôi có 53,1% bệnh<br />
nhân suy dinh dưỡng mức độ vừa và nặng (SGA<br />
B: 41,6% và SGA C: 11,5%). Kết quả này tương tự<br />
với nghiên cứu của Nguyễn Thùy An. Tuy<br />
nhiên, trong khi nhóm SGA A có tỷ lệ gần tương<br />
đương thì nhóm SGA B của chúng tôi chiếm tỷ lệ<br />
cao hơn. Ngược lại, nhóm SGA C của Nguyễn<br />
Thùy An chiếm tới 31,7% cao hơn chúng tôi<br />
nhiều (11,5%)(3). Sự khác biệt này có thể phần nào<br />
do đánh giá chủ quan cũng như tình trạng dinh<br />
dưỡng khác nhau của bệnh nhân mỗi thời điểm.<br />
So sánh với một số tác giả khác chúng tôi nhận<br />
thấy: nhóm SGA A chiếm tỷ lệ đa số, tỷ lệ giảm<br />
dần ở nhóm SGA B và C. Tỷ lệ suy dinh dưỡng<br />
của chúng tôi tương tự của Phạm Văn Năng<br />
(55,7%)(20), cao hơn kết quả nghiên cứu của Lưu<br />
Ngân Tâm và Shirodkar (khoảng 42%)(2,24) Chỉ có<br />
kết quả của Bauer và cs (2002) có sự khác biệt,<br />
nhóm SGA B chiếm ưu thế. Sự khác biệt này có<br />
thể do phương pháp đánh giá của chúng tôi và<br />
Bauer khác nhau. Tác giả Bauer dùng bảng phân<br />
loại SGA cải biên (PG-SGA: Patient Generated –<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Subjective Global Assessment) là loại bảng thiết<br />
kế chi tiết có tính điểm để bệnh nhân có thể tự<br />
điền thông tin vào.<br />
Khi Detsky áp dụng SGA để đánh giá tình<br />
trạng dinh dưỡng, tỷ lệ suy dinh dưỡng là 31%.<br />
Đến nay các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ suy dinh<br />
dưỡng trên bệnh nhân nằm viện vẫn còn rất<br />
cao(3,7,12,20,24). Điều đó chứng tỏ sau khoảng 2 thập<br />
niên, tỷ lệ suy dinh dưỡng trên lâm sàng vẫn<br />
không giảm đi mà còn có xu hướng tăng, trái<br />
ngược hẳn với tỷ lệ suy dinh dưỡng trên cộng<br />
đồng ngày càng giảm khi tình trạng kinh tế xã<br />
hội ngày một cải thiện(1). Trong đó nghiên cứu<br />
của chúng tôi tỷ lệ suy dinh dưỡng chung (SGA<br />
B và C) là 53,1% cao hơn gần 20% so với đánh<br />
giá bằng BMI. Kết quả của Nguyễn Thùy An<br />
đánh giá bằng SGA, tỷ lệ suy dinh dưỡng cao<br />
gấp đôi so với dùng BMI(3). Có thể thấy phương<br />
pháp đánh giá bằng SGA có khả năng tầm soát<br />
các đối tượng suy dinh dưỡng tốt hơn, vì nó có<br />
thể phân loại sớm ngay khi bệnh nhân có vấn<br />
đề về dinh dưỡng mà chưa có sự thay đổi nhiều<br />
về cân nặng.<br />
<br />
Albumin, prealbumin trước mổ<br />
Albumin máu trung bình của chúng tôi là<br />
4,16 g/dL, prealbumin trước mổ của chúng tôi là<br />
20,86 mg/dL, tương tự với kết quả trong nghiên<br />
cứu của Nguyễn Thùy An (lần lượt là 4,61 g/dL<br />
và 22,41 mg/dL)(3). Nồng độ hai loại protein máu<br />
của chúng tôi hơi thấp hơn so với kết quả của<br />
của Nguyễn Thùy An. Ở nghiên cứu của Lưu<br />
Ngân Tâm, chỉ số albumin máu dao động trong<br />
khoảng từ 3,8 – 4,2 g/dL tùy vào tình trạng dinh<br />
dưỡng theo SGA(2).<br />
Ngược lại, kết quả albumin và prealbumin<br />
máu của chúng tôi cao hơn kết quả trong nghiên<br />
cứu của Devoto và cs (2006): albumin và<br />
prealbumin trung bình lần lượt là 3,1 g/L và 16<br />
mg/dL(13). Sự khác nhau này có thể do tình trạng<br />
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi và<br />
Devoto khác nhau. Devoto chọn 108 bệnh nhân<br />
có tình trạng khá nặng gồm: nội tổng quát, thần<br />
kinh, phục hồi chức năng hay phải chăm sóc dài<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />
331<br />
<br />
Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013<br />
<br />
ngày, chúng tôi chọn mẫu gồm nhiều loại bệnh<br />
ngoại gan mật tụy có cả nặng và nhẹ.<br />
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo nồng độ<br />
albumin, chúng tôi nhận thấy số bệnh nhân có<br />
albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 14,5% (trong đó<br />
albumin máu < 3 g/dL là 6,3%) khác biệt không<br />
nhiều so với kết quả của Nguyễn Thùy An<br />
(18,2%)(3)và Putwatana (18,9%)(22). Tỷ lệ này thấp<br />
hơn kết quả trong nghiên cứu của Al Hudiathy<br />
và cs (1996): nhóm bệnh nhân không phẫu thuật<br />
tiêu hóa albumin máu < 3,5 g/dL chiếm 31% còn<br />
nhóm phẫu thuật tiêu hóa là 36%(5). Kết quả này<br />
cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có albumin máu thấp<br />
khá ít, đa số bệnh nhân (hơn 80%) có albumin<br />
trong giới hạn bình thường. Tuy nhiên nếu chỉ<br />
căn cứ vào chỉ số albumin này mà cho rằng tỷ lệ<br />
bệnh nhân suy dinh dưỡng thấp là không chính<br />
xác. Vì thời gian bán hủy của albumin khoảng 21<br />
ngày, thời gian để tổng hợp cũng khá dài trong<br />
khi trong mẫu nghiên cứu có những trường hợp<br />
bệnh nhân bệnh cấp tính (sỏi ống mật chủ, viêm<br />
túi mật cấp, áp xe lách…), tổng trạng trước đó lại<br />
tốt cho nên ảnh hưởng của bệnh lên tình trạng<br />
sinh tổng hợp albumin chưa thay đổi nhiều. Tuy<br />
nhiên, nếu dựa vào phương pháp đánh giá bằng<br />
SGA hoặc prealbumin là protein có thời gian bán<br />
hủy ngắn hơn chúng tôi vẫn đánh giá được tình<br />
trạng suy dinh dưỡng hiện tại. Điều đó cho thấy<br />
albumin không phải là một xét nghiệm nhạy để<br />
phát hiện tình trạng suy dinh dưỡng trên lâm<br />
sàng, nó phù hợp để đánh giá tình trạng dinh<br />
dưỡng tổng thể hơn(8).<br />
Khi phân nhóm dinh dưỡng theo<br />
prealbumin máu, số bệnh nhân có prealbumin<br />
máu < 20 mg/dL chiếm 50% hơi thấp hơn kết quả<br />
của các tác giả khác: Nguyễn Thùy An là 55,7%,<br />
Devoto G và cs (2006) tỷ lệ prealbumin < 17<br />
mg/dL là 59%(3,13) Đặt hai kết quả albumin và<br />
prealbumin cạnh nhau có thể thấy prealbumin<br />
nhạy hơn hẳn trong đánh giá tình trạng dinh<br />
dưỡng. Prealbumin có thời gian bán hủy ngắn (2<br />
ngày) lại không bị ảnh hưởng bởi lượng nước<br />
trong cơ thể nên nó phản ánh chính xác tình<br />
trạng dinh dưỡng hiện tại của bệnh nhân(8,23). Xét<br />
<br />
332<br />
<br />
nghiệm này không những thích hợp để đánh giá<br />
bước đầu mà còn là công cụ để theo dõi tình<br />
trạng dinh dưỡng trên bệnh nhân nằm viện.<br />
<br />
SGA và biến chứng<br />
SGA và xì rò<br />
Trong 15 trường hợp bị xì – rò sau mổ, có 12<br />
bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng kém trong<br />
khi chỉ có 3 người dinh dưỡng tốt. Sự khác biệt<br />
giữa 2 nhóm này có ý nghĩa thống kê (p =<br />
0,0303). Loại trừ yếu tố gây nhiễu là loại phẫu<br />
thuật nặng hay nhẹ, chúng tôi tính được số đo<br />
kết hợp RR = 2,9 ở nhóm đại phẫu. Riêng nhóm<br />
trung phẫu do không có trường hợp xì rò nào<br />
nên không tính được RR về mặt thống kê. Như<br />
vậy, trên bệnh nhân đại phẫu những người có<br />
dinh dưỡng kém có nguy cơ bị xì rò cao gấp 2,9<br />
lần so với người có dinh dưỡng tốt. Kết quả này<br />
rất có ý nghĩa vì các điều kiện để một miệng nối<br />
tiêu hóa lành tốt ngoài yếu tố kỹ thuật khâu nối,<br />
điều kiện môi trường trong ổ bụng… thì tình<br />
trạng dinh dưỡng phải đầy đủ để bổ sung<br />
nguyên liệu làm lành vết thương.<br />
SGA và nhiễm trùng vết mổ<br />
Trong 32 trường hợp nhiễm trùng vết mổ,<br />
nhóm dinh dưỡng kém có 23 bệnh nhân, dinh<br />
dưỡng tốt có 9 bệnh nhân. Khác biệt có ý nghĩa<br />
thống kê (p = 0,0208). Phân tích phân tầng theo<br />
loại phẫu thuật, ở nhóm trung phẫu những bệnh<br />
nhân dinh dưỡng kém có nguy cơ nhiễm trùng<br />
vết mổ cao gấp 1,8 lần nhóm có dinh dưỡng tốt.<br />
Ở nhóm đại phẫu, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ<br />
của nhóm dinh dưỡng kém gấp 3,9 lần. Tính<br />
chung cả hai nhóm phẫu thuật, bệnh nhân suy<br />
dinh dưỡng có nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao<br />
gấp 2,3 lần bệnh nhân bình thường. Rõ ràng là<br />
bệnh nhân dinh dưỡng kém khả năng miễn dịch<br />
và đề kháng với mầm bệnh giảm đi nên nguy cơ<br />
nhiễm trùng (cả toàn thân và tại vết mổ) cao hơn.<br />
Chính nhiễm trùng vết mổ cũng góp phần làm<br />
chậm lành vết thương của bệnh nhân.<br />
SGA và các biến chứng khác<br />
Trong 10 trường hợp có biến chứng khác,<br />
nhóm dinh dưỡng kém và dinh dưỡng tốt mỗi<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012<br />
<br />