intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Toàn tập về C.Mác và Ph.Ăng-ghen - Tập 2

Chia sẻ: Vũ Huyền Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:443

19
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tập 2 của bộ "Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen" bao gồm những tác phẩm của hai nhà kinh điển viết trong thời gian từ tháng Chín 1844 đến tháng Hai 1846. Đây là thời kỳ hình thành thêm một bước thế giới quan duy vật cách mạng của hai ông. Trong các tác phẩm viết vào thời kỳ này, hai ông đã đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật chiến đấu, phê phán kịch liệt những quan điểm chủ quan của phái Hê-ghen trẻ. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Toàn tập về C.Mác và Ph.Ăng-ghen - Tập 2

  1. 4 9 VÔ SẢN TẤT CẢ CÁC NƯỚC, ĐOÀN KẾT LẠI!
  2. 5 11 TOÀN TẬP C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN XUẤT BẢN THEO QUYẾT ĐỊNH CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
  3. 6 13 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN TOÀN TẬP HỘI ĐỒNG XUẤT BẢN TOÀN TẬP C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN TẬP 2 GS. Nguyễn Đức Bình Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng (THÁNG CHÍN 1844 - THÁNG HAI 1846) GS.Đặng Xuân Kỳ Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Viện trưởng Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch (thường trực) Hội đồng GS.PTS. Trần Ngọc Hiên Phó giám đốc Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, uỷ viên PGS. Hà Học Hợi Phó trưởng ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, uỷ viên GS.PTS. Phạm Xuân Nam Phó giám đốc Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, uỷ viên GS. Trần Nhâm Giám đốc, Tổng biên tập Nhà xuất bản chính trị quốc NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA gia, uỷ viên SỰ THẬT GS. Trần Xuân Trường Trung tướng, Viện trưởng Học viện chính trị - quân HÀ NỘI - 1995 sự, uỷ viên
  4. 7 15
  5. 8 17
  6. 6 13 LỜI NHÀ XUẤT BẢN Tập 2 của bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen bao gồm những tác phẩm của hai nhà kinh điển viết trong thời gian từ tháng Chín 1844 đến tháng Hai 1846. Đây là thời kỳ hình thành thêm một bước thế giới quan duy vật cách mạng của hai ông. Trong các tác phẩm viết vào thời kỳ này, hai ông đã đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật chiến đấu, phê phán kịch liệt những quan điểm chủ quan của phái Hê-ghen trẻ, cũng như triết học duy tâm của Hê-ghen. Hai ông đánh giá đúng mức cái hợp lý trong phép biện chứng của Hê-ghen, song đã phê phán mạnh mẽ khía cạnh thần bí của phép biện chứng này. Hai ông đã đi tới một loạt nguyên lý hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử như: vai trò quyết định của phương thức sản xuất trong sự phát triển của xã hội, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong các tác phẩm viết vào thời kỳ này, hai nhà kinh điển cũng đã đề ra một số nguyên lý của khoa kinh tế chính trị mác-xít. Tập này được dịch dựa vào bản tiếng Nga bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng-ghen, tập 2, do Nhà xuất bản sách chính trị quốc gia Liên Xô xuất bản tại Mát-xcơ-va năm 1955. Ngoài phần chính văn, chúng tôi còn in kèm theo phần chú thích và các bản chỉ dẫn do Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin Liên Xô (trước đây) biên soạn để bạn đọc tham khảo. Đồng thời với việc xuất bản bộ Toàn tập C.Mác và Ph.Ăng -ghen, chúng tôi sẽ tổ chức biên soạn sách giới thiệu nội dung mỗi tập và tư tưởng cơ bản trong các tác phẩm chính của hai nhà kinh điển. Tháng 4-1995 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
  7. 7 15 C.MÁC VÀ PH. ĂNG-GHEN GIA ĐÌNH THẦN THÁNH HAY LÀ PHÊ PHÁN SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN Chống Bru-nô Bau-ơ và đồng bọn 1 Do C.Mác và Ph. Ăng-ghen viết vào tháng In theo bản in xuất bản năm Chín - tháng Mười một 1844 1845 In thành sách riêng vào năm 1845 tại Phran- Nguyên văn là tiếng Đức phuốc trên sông Mai-nơ Ký tên: P h r i - đrí c h Ăng-ghenvàCác Mác
  8. 8 17
  9. 9 19 LỜI TỰA Ở Đức, chủ nghĩa nhân đạo hiện thực không có kẻ thù nào nguy hiểm hơn chủ nghĩa duy linh tức chủ nghĩa duy tâm tư biện, là chủ nghĩa đem thay thế con người cá thể hiện thực bằng "tự ý thức" hoặc "tinh thần" và cùng với nhà truyền đạo, nó giảng dạy rằng: "Tinh thần đem lại sinh khí còn thể xác thì yếu đuối bất lực". Rõ ràng là cái tinh thần không có thể xác đó chỉ có lực lượng tinh thần, lực lượng trí tuệ trong óc tưởng tượng của nó thôi. Cái mà chúng tôi đấu tranh chống lại trong sự phê phán của Bau-ơ chính là tư biện tự tái sinh dưới hình thức biếm hoạ. Theo chúng tôi, nó là biểu hiện hoàn chỉnh nhất của nguyên tắc Cơ Đốc giáo Đức định giãy giụa lần cuối cùng bằng cách biến bản thân "sự phê phán" thành một lực lượng siêu nghiệm để tự khẳng định mình. Bản trình bày của chúng tôi chủ yếu là nhằm vào "Allgemeine Literatur-Zeitung" 2 của Bru-nô Bau-ơ mà chúng tôi đã có tám số đầu, vì trong đó có sự phê phán của Bru-nô Bau-ơ và do đó mọi sự bịa đặt ngu xuẩn của tư biện Đức nói chung đã đạt tới đỉnh cao nhất của nó. Sự phê phán có tính phê phán (sự phê phán của "Literatur - Zeitung") càng dùng triết học để xuyên tạc hiện thực đến tức cười như một vở đại hài kịch thì nó lại càng bổ ích cho chúng ta. Phau- sơ và Sê-li-ga là một ví dụ: "Literatur-Zeitung" cung cấp cho chúng tôi những tài liệu có thể dùng để giúp đông đảo bạn đọc quan niệm được rõ rệt những ảo tưởng của triết học tư biện. Đấy cũng là mục đích của tác phẩm của chúng tôi. Lẽ tất nhiên là phương pháp chúng tôi trình bày đối tượng phải
  10. 14 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 7 15 phụ thuộc vào tính chất của bản thân đối tượng. Về mọi mặt, sự phê phán có tính phê phán đều thấp hơn trình độ phát triển của lý luận ở Đức. Vì vậy, tính chất của đối tượng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tại sao ở đây, chúng tôi không bàn nhiều thêm về sự phát triển đó. Hơn nữa: sự phê phán có tính phê phán buộc chúng tôi phải CHƯƠNG I dùng bản thân những thành quả hiện đã đạt được để đối chiếu SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN giản đơn với nó. VỚI TƯ THẾ MỘT ANH THỢ ĐÓNG SÁCH, Vì vậy, theo chúng tôi, tác phẩm luận chiến này chỉ là lời mở HAY LÀ đầu cho những tác phẩm riêng trong đó chúng tôi sẽ trình bày - SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN dĩ nhiên là mỗi người sẽ trình bày riêng - quan điểm khẳng định THỂ HIỆN Ở ÔNG RAI-SƠ-HÁT của chúng tôi và do đó lập trường khẳng định của chúng tôi đối với các học thuyết triết học và xã hội hiện đại. Sự phê phán có tính phê phán, tuy cho rằng mình vượt lên Pa-ri, tháng Chín 1844 Ăng-ghen - Mác trên quần chúng rất nh iều, nhưng vẫn vô cùng thương hại quần chúng đó. Sự phê phán thương yêu quần chúng đến mức đã sai con một của mình xuống trần gian để cho tất cả những ai tin nó sẽ không chết đi mà được sống cuộc đời phê phán. Bản thân sự phê phán đã trở thành quần chúng v à sống giữa chúng ta nên chúng ta thấy được cái vĩ đại của nó, giống như cái vĩ đại của người con một của Đức chúa cha. Nói cách khác, sự phê phán đã trở thành xã hội chủ nghĩa và bàn đến những "luận văn về bần cùng hoá" 3 . Nó không hề xét xem việc tự so sánh với thượng đế có chỗ nào phạm thượng không: nó tự tha hoá và mang hì nh dạng của một anh t hợ đóng sách và tự hạ mình xuống trình độ ăn nói bậy bạ, hơ n nữa ăn nói bậy bạ một cách phê phán bằng tiếng nước ngoài. Nó trong trắng như trời xanh, như gái đồng trinh, hễ nhìn t hầy quần chúng mắc b ệ n h h ủi và đầ y t ộ i l ỗi l à r ùn g mì n h ki n h t ở m, n h ưn g n ó đ ã t ự ki ề m chế đ ượ c nên đã n ghi ên c ứu t ác phẩ m của "Bô-dơ" 1 * và "tất cả n hững t ài l i ệu gốc về s ự bần cùng hoá" 1* Bút danh của Sác-lơ Đích-ken-xơ "Boz" mà Rai-sơ-hát xuyên tạc đi.
  11. 16 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 8 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 17 và "theo dõi từng bướ c trong nhiều năm bệnh của thời đại". " Vă n c h í n h lu ậ n h ữ u c ơ n h â n d â n " . Nó không thèm viết cho các chuyên gia học rộng, nó viết " Nh â n d â n m à t h ậ m c h í n gà i B ru y - g ơ- m a n c ấ p g i ấ y c h ứ n g n h ậ n l à đ ã c h ị u l ễ r ử a t ộ i v à o t u ổ i t h a n h n i ê n" . cho công chúng rộng rãi, nó gạt bỏ hết những từ ngữ kỳ "M â u t h u ẫ n k h á ga y gắ t v ới n h ữ n g t í n h q u y đ ị n h k h á c t rì n h b à y t r on g t á c quặc, mọi "từ la -tinh khó hiểu và tiếng lóng nhà nghề". Nó p h ẩ m c h u yê n n gh i ên c ứu v ề s ứ m ện h ri ên g b i ệt c ủ a n h â n d â n ". phải quét sạch những cái đó trong các tác phẩm của người " Lò n g t h a m xấ u x a là m t i êu t a n n h a n h c h ón g m ọi ả o t ư ở n g c ủ a ý c h í d â n khác, vì nếu hy vọng bản thân nó phải phục tùng "quy định tộc". hành chính ấy" thì đó là một yêu cầu quá đáng. Nhưng ngay " Lò n g k h a o k h á t là m gi à u n ha n h , v. v. , đ ó là t i n h t h ầ n q uá n t ri ệt s u ốt t h ời cả về điểm này, nó vẫn còn làm một phần. Nó vứt bỏ một k ỳ Ph ụ c t í c h và c ũ n g là t i n h t h ầ n l i ê n mi n h v ới t h ời đ ạ i m ớ i b ằ n g m ột s ự b à ng cách dễ dàng kỳ lạ nếu không phải là bản thân những chữ ấy quan khá lớn". thì cũng là nội dung của những chữ ấy. Như vậy, ai dám " Qu a n n i ệ m m ơ h ồ v ề ý n gh ĩ a c h í n h t rị v ốn c ó ở d â n t ộ c n ô n g n g h i ệ p P h ổ là dựa trên hồi ức về lịch sử vĩ đai". trách nó dùng "hàng đống chữ nước ngoài khó hiểu" khi mà " Ác c ả m b i ến đ i và c h u yển t h à n h t r ạ n g t h á i h ưn g p h ấ n h oà n t oà n ". bản thân nó xác nhận, bằng biểu hiện nhất quán của tính độc " T r on g s ự c h u yể n b i ến lạ lù n g đ ó , m ỗi n g ư ời đ ều vẫ n đ ư a r a , t h e o p h ư ơn g đáo của nó, cái kết luận cho rằng những chữ đó cũng khó t h ứ c c ủ a m ì n h , m ột n g u y ệ n v ọn g r i ê n g t r o n g v i ễ n c ả n h c ủ a m ì n h ". hiểu đối với chính nó nữa? "M ột gi á o l ý t rì n h b à y t h e o n g ô n n gữ u yển c h u yển c ủ a Xa -l ô - m ôn g m à t i ến g Đây là mấy ví dụ về những biểu hiện nhất quán đó : n ói n h ư c h i m b ồ c â u - gu gù ! gu gù ! - đ a n g ê m á i b a y l ên đ ến lĩ n h vực c ó s ứ c " D o đ ó n h ữn g t h ể c h ế c ủ a s ự k h ố n c ù n g " " là đ ối t ư ợn g s ợ h ã i đ ối v ới t ru yền c ả m và b ề n g o à i r ề n v a n g n h ư s ấ m" . c h ú n g ". " C ả m ột s ự h a m mê n g h ệ t h u ật , c h ể n h mả n g b a mư ơ i n h ă m n ă m" . "M ột h ọc t h u yết v ề t i n h t h ầ n t rá c h n h i ệ m t r on g đ ó m ỗi s ự vậ n đ ộn g c ủ a t ư " N ếu q u a n n i ệm c ủ a B en -đ a v ề lu ậ t l ệ t h à n h p h ố n ă m 1 8 0 8 k h ôn g m ắ c t ư ở n g l o à i n g ư ờ i đ ề u t r ở t h à n h h ì n h t ư ợ n g c ủ a b à Lố t " . k h u yết đ i ểm là l ồ n g t ư t ư ở n g Hồ i g i á o v à o n h ữ n g k h á i n i ệ m v ề b ả n c h ấ t và s ự " Đá xâ y c u ốn t r ên k h u n g c ửa t ò vò c ủ a c ô n g t r ì n h n g h ệ t hu ậ t t h ực s ự g i à u t h ự c h i ện lu ậ t l ệ t h à n h p h ố, t h ì v ới t i n h t h ầ n đ i ề m đ ạ m vố n c ó ở đ ạ i b i ểu c ủ a lòng tin đó". c h ú n g t a , c h ú n g t a c òn c ó t h ể t i ếp t h u đ ượ c l ờ i t r á c h mắ n g q u á đ i ế c t a i m à m ột " Đâ y là n ội d u n g c h ủ yếu c ủa b ả n d i c h ú c c h í n h t rị c ủ a St a i -n ơ m à t ừ lâ u k ẻ t h ốn g t rị t h à n h p h ố t rư ớc k i a đ ổ l ên đ ầ u c ôn g d â n t h à n h p h ố". t rư ớc k h i t ừ c h ức , n h â n vậ t v ĩ đ ạ i ấ y c ủ a n h à n ư ớc , đ ã gi a o c h o c h í n h p h ủ và Ở ngài Rai-xác-tơ, đâu đâu sự táo bạo của tiến trình suy mọ i t á c p h ẩ m c ủ a n ó " . " B ấ y gi ờ d â n t ộc đ ó c ò n c h ưa c ó s ự đ o l ư ờ n g n à o ch o t ự d o r ộn g rã i n h ư nghĩ cũng phù hợp với sự táo bạo về văn phong. Ông ta t h ế ". chuyển tiếp như thế này: " C u ối b à i c h í n h lu ậ n , ôn g t a l u ậ n đ à m k h á vữn g và n g rằ n g c h ỉ t h i ếu c ó s ự "Ngài B ru y-gơ-man. .. và o n ăm 1843. .. h ọc thu yết về nhà n ước. .. m ỗi n gười t í n n h i ệm t h ôi ". chính t rực ... đ ức khi êm t ốn vĩ đại củ a các nhà xã h ội chủ n ghĩa chún g t a.. . nh ữn g " T r í t u ệ q u ốc gi a t ối c a o, xứn g đ á n g với đ ấ n g n a m n h i c hâ n c h í n h ; t rí t ụ ê ph ép mầu t ự nhi ên.. . nh ữn g yê u sá ch cần đ ưa ra với n ước Đức. .. nh ữn g ph ép mầu v ư ợt l ên t r ên n ề n ếp c ó s ẵ n và s ự s ợ h ã i h èn n h á t , t rí t u ệ đ ư ợ c gi á o d ụ c t r on g t ự s i êu t ự nh i ên. .. A -b ra -h am.. . Phi -la -d en -phi -a. .. n ước cam lộ.. . th ợ bánh mì. .. l ị c h s ử và b ồi d ưỡn g b ằ n g t r ực q u a n s i n h đ ộn g c ủ a s i n h h oạ t c h í n h t rị c ủ a c ôn g và bởi vì chún g ta n ói đ ến những phép mầu cho nên Na -pô -l ê -ông đ em c h ú n g n ư ớc n g oà i " . và o". .. v. v.. " S ự gi á o d ụ c v ề p h ú c l ợi t oà n d â n ". " D ư ới s ự gi á m s á t c ủ a c á c nh à c ầ m q u yề n , t ự d o n gủ t ri ền m i ên t r o n g l ò n g s ứ Xem xong những thí dụ đó, chúng ta chẳng còn ngạc nhiên mệnh Phổ của các dân tộc".
  12. 18 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 9 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 19 thấy tại sao sự phê phán có tính phê phán lại còn "giải thích" cách nói mà bản thân nó cho là "phương pháp biểu hiện phổ thông". Vì nó "vũ trang cho đôi mắt của nó bằng một lực lượng hữu cơ có thể nhìn xuyên suốt cả mớ hỗn loạn". Và ở đây cần nói rằng đã như vậy thì ngay cả đến "phương pháp biểu hiện phổ thông" cũng không còn có thể khó hiểu đối với sự phê phán có tính phê phán CHƯƠNG II nữa. Nó hiểu rằng con đường văn học tất nhiên phải khúc khuỷu SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN nếu người bước vào con đường đó không đủ sức nắn thẳng lại; cho VỚI TƯ THẾ "MÜHLEIGNER" 4 , nên nó cũng gán một cách rất tự nhiên những "phép tính" cho nhà HAY LÀ SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN văn. THỂ HIỆN Ở ÔNG I-U-LI- ÚT PHAU SƠ Không cần nói ai cũng biết - và lịch sử chứng thực tất cả cái gì không cần nói cũng đã rõ, cũng chứng thực điều này - sự phê phán Sau khi sự phê phán sa xuống chỗ nói nhăng nhít bằng tiếng biến thành quần chúng không phải cốt để thành quần chúng, mà là nước ngoài đã phục vụ đắc lực cho tự ý thức và đồng thời bằng để tránh cho quần chúng khỏi tính quần chúng có tính quần chúng hành động đó đã giải phóng thế giới khỏi cảnh bần cùng thì trong của mình, nghĩa là để nâng phương pháp biểu hiện phổ thông của thực tiễn và lịch sử, sự phê phán cũng quyết tâm sa xuống chỗ nói quần chúng lên thành ngôn ngữ phê phán của sự phê phán có tính nhăng nhít. Nó thông hiểu "những vấn đề bức thiết trong sinh phê phán. Khi sự phê phán nắm được ngôn ngữ thông thường của hoạt nước Anh" và cung cấp cho chúng ta một bức phác hoạ thực quần chúng và cải tạo thứ tiếng nói thô tục đó thành những câu sự phê phán về lịch sử công nghiệp Anh" 5 . cao siêu thần bí vốn có trong phép biện chứng của sự phê phán có Sự phê phán tự mãn tự túc, hoàn thiện hoàn mỹ trong bản thân tính phê phán thì đó chính là sự phê phán đã tự hạ mình xuống nó, dĩ nhiên không thể thừa nhận lịch sử đúng như lịch sử đã phát cùng cực rồi. triển trong thực tế, vì như vậy có khác gì thừa nhận quần chúng hèn kém trong tính quần chúng có tính toàn bộ quần chúng mà thực ra vấn đề ở đây chính là làm cho quần chúng mất tính quần chúng ấy đi. Như vậy lịch sử được giải thoát khỏi tính quần chúng của nó và sự phê phán được tự do xử lý đối tượng của mình, thét bảo lịch sử rằng: "mi nên biết rằng mi phải diễn ra như thế, như thế!". Mọi luật pháp của sự phê phán đều có lực lượng đảo ngược: trước khi có những phán quyết của sự phê phán, lịch sử đã diễn ra hoàn toàn khác với phán quyết của sự phê phán. Cho nên lịch sử của quần chúng, tức cái gọi là lịch sử hiện thực,
  13. 20 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 10 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 21 khác xa với lịch sử của sự phê phán trình bày trong "Literatur- Trên thực tế, trong các công xưởng Anh có thang lương từ 1 si- Zeitung" số VII, kể từ trang 4. linh 1/2 đến 40 si-linh hoặc hơn nữa; nhưng trong sự phê phán thì Trong lịch sử của quần chúng, chưa có công xưởng thì chưa có chỉ có một mức lương là 11 si-linh thôi. Trên thực tế, máy móc thay thế lao động thủ công, nhưng trong sự phê phán máy móc lại thay bất cứ thành phần công xưởng nào; nhưng trong lịch sử phê phán, thế tư duy. Trên thực tế, công nhân ở Anh được phép liên hợp lại để trong đó con sinh ra cha như trong triết học Hê-ghen trước kia thì đòi tăng lương, nhưng trong sự phê phán thì họ lại bị cấm làm việc Man-se-xtơ, Bôn-tơn và Pre-xtơn đã là những thành phố công xưởng đó vì quần chúng muốn làm việc gì cũng phải xin phép sự phê phán phồn vinh khi chưa ai nghĩ đến công xưởng cả. Trong lịch sử hiện trước đã. Trên thực tế, lao động công xưởng là hết sức mệt nhọc và thực, sự phát triển của công nghiệp dệt bông bắt đầu chủ yếu từ khi gây ra những bệnh đặc biệt (đã có những bộ sách y học chuyên máy kéo sợi gien-ny của Hác-gri-vơ và máy kéo sợi (chạy bằng sức nghiên cứu những bệnh đó); nhưng trong sự phê phán "sự khẩn nước) của Ác-crai-tơ được dùng vào sản xuất, và máy mun của trương quá mức không thể làm trở ngại lao động vì sức lực bỏ ra là Crôm-tơn thì chỉ là máy kéo sợi gien-ny được cải tiến thêm dựa vào của máy móc". Trên thực tế, máy móc là máy móc; nhưng trong sự nguyên lý mới của Ác-crai-tơ mà thôi. Nhưng lịch sử phê phán lại phê phán máy móc lại có ý chí: máy móc không nghỉ ngơi nên công khéo phân biệt: nó khinh miệt tính phiến diện của máy kéo sợi gien- nhân cũng không được nghỉ ngơi; như vậy là công nhân bị một ý chí ny và máy kéo sợi chạy bằng sức nước và đề cao máy mun lên thành ngoại lai chi phối. sự đồng nhất tư biện của hai cực ấy. Thực ra với sự phát minh ra máy Nhưng tất cả cái đó đều chưa đáng kể. Sự phê phán không thoả kéo sợi chạy bằng sức nước và máy mun đã mở ngay ra khả năng ứng mãn với những chính đảng của quần chúng ở Anh; nó còn sáng tạo dụng sức nước vào những máy móc đó; nhưng sự phê phán có tính phê ra những chính đảng mới; nó sáng lập ra "đảng công xưởng", bởi phán lại tách rời những nguyên tắc đã được bàn tay thô lỗ của lịch sử vậy lịch sử phải cảm ơn nó. Song nó lại nhập cục chủ xưởng với trộn lẫn với nhau và quy sự ứng dụng đó vào thời đại muộn hơn coi công nhân công xưởng thành một khối quần chúng - những chuyện như một cái gì hoàn toàn đặc thù. Trên thực tế, sự phát minh ra máy lặt vặt đó có gì đáng phải bận tâm! - và quả quyết rằng công nhân hơi nước đã có trước tất cả những phát minh vừa kể trên; nhưng ở sự công xưởng không quyên tiền vào quỹ của Đồng minh chống đạo phê phán, máy hơi nước là đỉnh cao nhất của toàn bộ lâu đài, do đó luật ngũ cốc 6, không phải như bọn chủ xưởng ngu ngốc tưởng, là do xét về thời gian, là một phát minh muộn về sau. ác ý hoặc do ủng hộ chủ nghĩa hiến chương mà chỉ là vì nghèo khổ. Sau đó nó còn quả quyết rằng nếu người ta huỷ bỏ đạo luật ngũ cốc Trên thực tế, quan hệ buôn bán, theo ý nghĩa hiện đại, giữa Li- của nước Anh thì công nhân nông nghiệp làm công nhật phải vớc-pun và Man-se-xtơ là kết quả của việc xuất khẩu hàng hoá của chịu hạ tiền lương xuống, nhưng chúng tôi mạo muội chỉ ra nước Anh, nhưng trong sự phê phán, những quan hệ buôn bán đó đều rằng giai cấp nghèo xác nghèo xơ đó không còn có thể chịu để là nguyên nhân của xuất khẩu, và cả hai, quan hệ buôn bán và xuất mất một xu nào nữa, nếu không họ sẽ chết đói. Nó quả quyết khẩu, đều là kết quả của vị trí gần nhau của hai thành phố ấy. Trong rằng trong các công xưởng Anh, người ta làm việc mỗi ngày thực tế, hầu hết mọi hàng hoá mà Man-se-xtơ gửi sang đại lục đều 16 giờ, mặc dầu luật pháp nước Anh rất ngu xuẩn và không qua Hun, nhưng trong sự phê phán lại qua Li-vớc-pun. có t i nh t hần phê phán đã quan t â m s a o c h o ngà y l à m kh ô n g
  14. 22 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 11 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 23 vượt quá 12 giờ. Nó quả quyết rằng nước Anh vẫn phải là một ngu xuẩn của ông Giêm-xơ Grê-hêm: bằng cách giải thích tiếng công xưởng lớn của toàn thế giới, mặc dầu đông đảo người Mỹ, Anh một cách phê phán, nó đã gắn cho ông bộ trưởng không phê người Đức và người Bỉ không có tinh thần phê phán đã cướp đoạt phán của Bộ nội vụ những điều mà ông ta chưa hề nói bao giờ, và dần dần, bằng cạnh tranh, hết thị trường này đến thị trường khác nó làm như thế chỉ cốt cho sự ngu xuẩn của Grê-hêm làm nổi bật của người Anh. Sau hết, nó khẳng định rằng sự tập trung tài sản và hơn sự thông minh của bản thân sự phê phán. Nếu nghe theo sự phê hậu quả của sự tập trung đó đối với các giai cấp cần lao thì ở Anh, phán thì Grê-hêm khẳng định rằng máy móc ở công xưởng có thể vô luận là người vô sản hay người hữu sản, đều không nhìn thấy, dùng trong khoảng 12 năm bất kể là mỗi ngày máy móc đó làm việc 10 hoặc 12 giờ, thành thử luật 10 giờ làm cho nhà tư bản không thể song phái Hiến chương ngu xuẩn lại cho rằng họ đã hiểu hết sức rõ tái sản xuất ra được số tư bản đã bỏ vào những máy đó trong 12 ràng hiện tượng tập trung tài sản, và những người xã hội chủ nghĩa năm làm việc của máy. Sự phê phán chứng tỏ rằng kết luận mà nó thì nghĩ rằng từ lâu lắm rồi họ đã trình bày cặn kẽ tất cả những hậu gán cho ông Giêm-xơ Grê-hêm, là kết luận sai, vì một chiếc máy quả đó. Không phải chỉ có thế: ngay cả phái bảo thủ và phái tự do làm việc mỗi ngày kém đi 1/6 thời gian thì dĩ nhiên có thể sử dụng như Các-lai-lơ, A-li-xơ và Ga-xken cũng đã chứng minh, bằng tác được lâu hơn. phẩm của mình, rằng họ đã hiểu biết hiện tượng ấy. Dù nhận định đó của sự phê phán có tính phê phán đối với kết Sự phê phán quả quyết rằng luật mười giờ của huân tước Ê-sli 7 là luận sai lầm của bản thân nó có chính xác thế nào đi nữa, chúng ta một biện pháp trung dung hời hợt và bản thân huân tước Ê-sli "là sự cũng vẫn phải công bằng đối với ông Giêm-xơ Grê-hêm; thực ra phản ánh trung thành của hoạt động lập hiến", trong khi đó thì ông tuyên bố rằng: thực hiện luật ngày làm 10 giờ thì máy móc hiện nay bọn chủ xưởng, phái Hiến chương, bọn chiếm hữu ruộng phải tăng tốc độ của nó một cách tỷ lệ với sự rút ngắn thời gian đất, tóm lại cả cái nước Anh quần chúng vẫn coi biện pháp đó là công tác của nó (đó là điều mà bản thân sự phê phán dẫn ra trong biểu hiện - đành rằng rất yếu ớt - của một nguyên tắc triệt để cấp trang 32, số VIII) và trong điều kiện này, thời gian hao mòn của tiến vì nó phá vỡ nền móng của ngoại thương và do đó phá vỡ nền máy móc vẫn như cũ, nghĩa là 12 năm. Không thể không thừa nhận móng của chế độ công xưởng, hay nói đúng hơn không những phá điều đó, nhất là thừa nhận như vậy chỉ là tán dương và ca tụng "sự vỡ mà còn đào tận gốc nền móng đó. Điểm này, sự phê phán có phê phán" vì không phải ai khác mà chính sự phê phán không tính phê phán biết rõ hơn ai hết. Nó biết rằng vấn đề ngày làm những đã đưa ra kết luận sai lầm ấy, kết luận mà sau này chính nó lại bác bỏ. Sự phê phán cũng tỏ ra hết sức rộng lượng đối với huân việc 10 giờ đã được thảo luận trong một "tiểu ban" nào đó của Hạ tước Giôn Rớt-xen, người mà nó gán cho là có ý định sửa đổi hình nghị viện, trong khi những báo không phê phán tìm cách làm cho thức của chế độ nhà nước và chế độ bầu cử; do đó chúng ta phải rút chúng ta tin rằng "tiểu ban" ấy là bản thân Hạ nghị viện, nghĩa là ra kết luận rằng hoặc là sự phê phán vốn đặc biệt ưa bịa ra những "uỷ ban toàn viện"; nhưng dĩ nhiên là sự phê phán không thể xoá điều ngu xuẩn, hoặc là tuần lễ vừa qua, bản thân huân tước Rớt -xen bỏ cái tính kỳ quặc đó của hiến pháp Anh. đã biến thành một nhà phê phán có tính phê phán. Sự phê phán có tính phê phán tự mình tạo ra cái đối lập với Nhưng sự phê phán chỉ trở thành thực sự tuyệt diệu trong việc mình tức sự ngu xuẩn của quần chúng, đồng thời cũng tạo ra sự thêu dệt ra những điều ngu xuẩn khi nó phát hiện rằng công nhân
  15. 24 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 12 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 25 Anh - những công nhân này, trong tháng Tư và tháng Năm, đã tổ ai nói rằng tập đoàn này - trên thực tế là biểu hiện triệt để nhất và chức hết cuộc mít-tinh này đến cuộc mít-tinh khác, đã viết hết đơn đỉnh cao của các chính đảng - lại tuyệt đối đồng nhất với các tập yêu cầu này đến đơn yêu cầu khác để đòi thực hiện luật 10 giờ, đoàn chính đảng. Sự phê phán còn thật sự tuyệt diệu hết chỗ nói khi những công nhân này đã biểu thị một sự phẫn nộ chưa từng có nó gán cho tất cả những ai chống lại đạo luật ngũ cốc là chẳng hiểu trong suốt cả hai năm qua, và điều đó xảy ra khắp nơi trong các khu gì về một sự thực là trong tình hình các điều kiện khác không thay công xưởng - chỉ "quan tâm một phần" đến vấn đề đó tuy rằng xem đổi thì sự hạ giá ngũ cốc tất nhiên sẽ đưa tới sự hạ thấp tiền lương ra thì "sự hạn chế bằng pháp luật thời gian lao động cũng làm họ và do đó đâu lại vào đấy cả, song thực ra các ngài đó lại trông chờ chú ý". Sự phê phán thực sự tuyệt diệu khi mà nó đã có những phát sự hạ thấp tiền lương một cách rõ rệt và do đó sự giảm bớt chi phí hiện lớn lao, tuyệt diệu, chưa từng có là "thoạt nhìn sự xoá bỏ đạo sản xuất gắn liền với sự hạ thấp tiền lương sẽ đưa tới sự mở rộng luật ngũ cốc hứa hẹn một sự giúp đỡ trực tiếp hơn, cho nên công nhân đang và sẽ gửi gấm phần lớn hy vọng của họ vào đấy cho tới thị trường một cách tương ứng và đưa tới sự giảm bớt cạnh tranh khi sự thoả mãn những nguyện vọng ấy - sự thoả mãn mà người ta giữa công nhân với nhau, kết quả là tiền lương so với giá ngũ cốc không nghi ngờ mảy may nào cả - thực tế chứng minh cho họ thấy sẽ được duy trì hơi cao hơn hiện nay. tất cả sự vô ích của việc xoá bỏ đạo luật đó". Và sự phê phán ấy nói Say sưa theo kiểu nhà nghệ thuật, sự phê phán tự mình sáng tạo về những công nhân đã kiên quyết đuổi khỏi diễn đàn của các cuộc ra cái đối lập với mình là lời nói nhăng nhít, - cũng sự phê phán đó, mít-tinh kẻ nào phát biểu ủng hộ việc huỷ bỏ đạo luật ngũ cốc; về trước đây hai năm, đã kêu lên rằng: "sự phê phán nói tiếng Đức, những công nhân đã làm cho Đồng minh chống đạo luật ngũ cốc thần học nói tiếng la-tinh" 8 , bây giờ nó lại đã học tiếng Anh, và gọi không dám tổ chức mít-tinh ở bất cứ thành phố công xưởng nào ở người chiếm hữu ruộng đất là "Landeigner" (landowners), gọi chữ Anh; về những người công nhân đã coi Đồng minh ấy là kẻ thù duy công xưởng là "Mühleigner (mill-owners; tiếng Anh, chữ "mill" dùng nhất của mình và đã được sự ủng hộ của phái bảo thủ trong cuộc thảo để chỉ những công xưởng máy móc đều chạy bằng hơi nước hoặc sức luận về đạo luật 10 giờ cũng như trong hầu hết các cuộc thảo luận trước kia về những vấn đề tương tự. Sự phê phán cũng rất là tuyệt nước), gọi công nhân là "tay" (hands), dùng "giao thoa" (interference) diệu khi nó phát hiện ra rằng "công nhân vẫn còn bị mê hoặc bởi thay cho "can thiệp", và dựa vào lòng thương hại vô hạn đối với tiếng những lời hứa hẹn rộng rãi của phong trào Hiến chương", một phong Anh thấm đầy tính quần chúng tội lỗi, nó thậm chí đã hạ mình xuống trào thực ra chỉ là biểu hiện chính trị của dư luận rộng rãi của công cải tiến tiếng Anh và xoá bỏ quy tắc rởm của người Anh, quy tắc theo nhân. Trong thâm tâm của tinh thần tuyệt đối của mình, sự phê phán đó người Anh bao giờ cũng đặt tiếng xưng hô "Xơ" trước tên chứ không nhìn thấy rằng "hai tập đoàn - tập đoàn chính trị và tập đoàn chủ phải trước họ của các huân tước và nam tước. Quần chúng nói "Xơ ruộng đất và chủ công xưởng - đã không trùng hợp với nhau và Giêm-xơ Grê-hêm", còn sự phê phán nói: "Xơ Grê-hêm". không hoà lẫn vào nhau", song hiện nay, chúng tôi chưa thấy ai Sự phê phán bắt tay cải tạo lịch sử nước Anh và tiếng Anh xuất phát nói rằng tập đoàn chủ ruộng đất và chủ công xưởng, tuy số người từ nguyên tắc chứ không phải vì nhẹ dạ. Đó là điều mà giờ đây bạn đọc của hai giai cấp những người tư hữu này không đông và có sẽ thấy trong tính triệt để của sự phê phán khi nó giải thích lịch sử của quyền lợi chính trị hoàn toàn giống nhau (trừ một thiểu số quý tộc) nhưng lại có tính chất rộng như vậy, và chúng tôi chưa thấy ngài Nau-véc.
  16. 26 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 13 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 27 đó trở đi lịch sử thế giới chỉ còn là kẻ sao chép lại sự phê phán mà thôi? 4) Tại sao hệ triết học cho rằng việc công kích những tác phẩm CHƯƠNG III của ngài Nau-véc chính là chĩa vào nó; TÍNH TRIỆT ĐỂ CỦA SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ 5) Tại sao ngài N không có cách nào khác hơn là tự động rời bỏ PHÁN, HAY LÀ SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN chức vụ; THỂ HIỆN Ở ÔNG I-U. (I-UNG-NÍT-XƠ?)9 6) Tại sao hệ triết học phải bênh vực ngài N, nếu nó không muốn từ bỏ bản thân nó; Sự phê phán không thể không chú ý đến cuộc tranh luận vô cùng 7) Tại sao "sự tranh chấp bên trong hệ triết học tất nhiên phải biểu hiện dưới hình thức" là hệ triết học, đồng thời cho rằng cả ngài quan trọng giữa ngài Nau-véc và hệ triết học đại học Béc-lin. Nó vốn N. lẫn chính phủ đều vừa đúng vừa sai; đã kinh qua tình cảnh tương tự và tất nhiên phải lấy số phận ngài Nau-véc làm bối cảnh để làm cho người ta chú ý đến việc bản thân 8) Tại sao hệ triết học không thể tìm thấy trong các tác phẩm nó bị cách chức ở Bon 10 . Vì sự phê phán đã quen coi giai đoạn lịch của ngài N. căn cứ đầy đủ của việc cách chức ông ta; sử ở Bon là một sự kiện nổi bật của thời đại chúng ta, thậm chí đã 9) Cái gì khiến cho toàn bộ sự phán đoán thiếu rõ ràng; viết "triết học về vụ cách chức sự phê phán", nên có thể dự tính rằng 10) Tại sao hệ triết học, "với tính cách là cơ quan khoa học (!), nó sẽ dùng phương thức giống như thế để biến "sự xung đột" ở Béc - cho rằng mình (!) có quyền (!) xem xét nguồn gốc của sự việc", và lin thành một hệ thống triết học được vạch ra một cách chi tiết. Nó sau hết; chứng minh a priori 1* rằng mọi việc phải xảy ra như thế này chứ 11) Tại sao hệ triết học, dẫu sao, vẫn không muốn viết như ngài không thể khác được. Nghĩa là nó chỉ ra: N. 1) Tại sao hệ triết học nhất định phải "xung đột" với nhà triết Sự phê phán đã phân tích, trong bốn trang sách, những vấn đề học của nhà nước chứ không phải với nhà lô-gíc học hoặc nhà siêu quan trọng đó một cách triệt để hiếm có, đồng thời dùng lô -gích hình học; của Hê-ghen để chứng minh tại sao tất cả những việc ấy đã xảy ra 2) Tại sao cuộc xung đột này không thể gay gắt và triệt để như như vậy và tại sao không có vị thần nào có thể phản đối điều đó. Sự phê phán nói ở một chỗ khác rằng chưa có một thời kỳ lịch sử nào cuộc xung đột ở Bon giữa sự phê phán và thần học; đã được nhận thức cả; tính khiêm tốn ngăn cản nó nói rằng ít ra nó 3) Tại sao cuộc xung đột đó nói đúng ra chỉ là một sự ngu cũng đã nhận thức được đầy đủ vụ xung đột của nó và vụ xung đột xuẩn sau khi trong vụ xung đột của mình ở Bon, sự phê phán đã của Nau-véc, là những vụ xung đột tuy không phải là những thời tận dụng tất cả những nguyên tắc và nội dung có thể có, và từ đại, nhưng theo quan niệm của nó, vẫn làm ra thời đại. Sự phê phán có tính phê phán, đã "tước bỏ" của bản thân mình 1* - một cách tiên nghiệm "nhân tố" tính triệt để, lại biến thành "sự yên tĩnh của nhận thức".
  17. 28 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 14 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 29 cái gì sống đều là phi phê phán, đều là có tính quần chúng, vì vậy là "hư không", chỉ có những sáng tạo lý tưởng và hư ảo của sự phê phán có tính phê phán mới là "tất cả". Công nhân không sáng tạo cái gì cả, vì công việc của họ là một CHƯƠNG IV cái đơn nhất nào dó, chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu cá nhân của họ, nghĩa là vì trong trật tự thế giới hiện đại, các ngành lao động SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN VỚI riêng lẻ có liên hệ bên trong với nhau đều tách rời nhau thậm chí TÍNH CÁCH LÀ SỰ YÊN TĨNH CỦA NHẬN THỨC đối lập với nhau, tóm lại, vì lao động không được tổ chức. Nếu HAY LÀ SỰ PHÊ PHÁN CÓ TÍNH PHÊ PHÁN giải thích theo ý nghĩa hợp lý duy nhất có thể có thì luận điểm mà THỂ HIỆN Ở ÔNG ÉT-GA bản thân sự phê phán nêu lên, là yêu cầu về lao động có tổ chức. Phlô-ra Tơ-ri-xtăng - nếu phân tích tác phẩm của bà thì thấy nổi 1) "HỘI LIÊN HIỆP CÔNG NHÂN" bật lên luận điểm vĩ đại đó - cũng yêu cầu điều đó, và vì bà đã CỦA PHLÔ-RA TƠ-RI-XTĂNG 11 dám đi trước sự phê phán có tính phê phán nên đã bị nó đối xử en Những nhà xã hội chủ nghĩa Pháp khẳng định rằng công nhân canaille 1*. "Công nhân không tạo ra cái gì hết". Hơn nữa, luận điểm làm ra hết thảy, sản xuất ra hết thảy nhưng họ không có quyền cũng đó là sự mê sảng điên rồ, nếu không kể rằng người công nhân cá không có tài sản, - nói tóm lại họ chẳng có gì hết. Về điểm này, qua biệt không sản xuất ra cái gì toàn bộ cả, mà điều này lại là một lối miệng của ông Ét-ga, người thể hiện sự yên tĩnh của nhận thức, sự nói trùng lặp. Sự phê phán có tính phê phán chẳng sáng tạo ra cái gì phê phán đã trả lời như sau: cả, công nhân mới sáng tạo ra tất cả, sáng tạo ra tất cả đến mức "Muốn sáng tạo ra hết thảy thì cần có một ý thức mạnh hơn ý thức của công nhân. ngay cả với những sáng tạo tinh thần của họ, họ cũng làm cho Luận điểm trên chỉ đúng nếu đem lộn ngược lại như sau: công nhân chẳng tạo ra cái gì toàn bộ sự phê phán phải hổ thẹn. Công nhân Anh và Pháp đã hết, nên họ cũng chẳng có gì hết; họ chẳng tạo ra cái gì hết, vì công việc của họ bao giờ chứng minh rõ ràng điều đó. Công nhân sáng tạo ra cả con người, cũng vẫn là một cái đơn nhất nào đó nhằm thoả mãn nhu cầu của chính họ, và là công việc thường ngày". còn nhà phê phán thì vĩnh viễn vẫn là con quái vật, nhưng ngược Ở đây, sự phê phán đã đạt tới sự trừu tượng cao đến mức theo nó lại dĩ nhiên là nhà phê phán có sự thoả mãn nội tâm rằng mình là thì chỉ có những sáng tạo tư tưởng của nó và tính phổ biến mâu nhà phê phán có tính phê phán. thuẫn với mọi hiện thực mới là "một cái nào đó" hay - hơn nữa - là "Plô-ra Tơ-ri-xtăng cho chúng ta một ví dụ về chủ nghĩa giáo điều của phụ nữ, thứ chủ nghĩa giáo điều không thể không cần đến những công thức và đặt ra cho mình "tất cả". Công nhân sở dĩ không tạo ra cái gì cả, vì họ chỉ tạo những công thức từ những phạm trù về cái đang tồn tại". ra "cái đơn nhất", tức là những đối tượng có thể cảm thấy được, Điều mà sự phê phán làm, chỉ là "đặt ra những công thức từ có thể sờ mó được, phi tinh thần và phi phê phán, những đối những phạm trù về cái đang tồn tại", - nghĩa là đặt ra những tượng mà bất cứ một loại nào của chúng cũng đã làm cho sự phê phán thuần tuý phải kinh khủng. Tất cả cái gì hiện thực, tất cả 1* - như đồ súc sinh
  18. 30 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 15 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 31 công thức từ triết học Hê-ghen hiện đang tồn tại và từ những phục "cái hành động ấu trĩ mà người ta gọi là tình yêu" . Tình yêu nguyện vọng xã hội hiện đang tồn tại. Những công thức không là nỗi kinh khủng và quái vật. Nó gây ra sự giận dữ, sự phẫn nộ, phải là gì khác hơn là những công thức. Và mặc dầu sự phê phán ra thậm chí sự điên cuồng của sự phê phán có tính phê phán. sức đả kích chủ nghĩa giáo điều, nhưng bản thân nó vẫn tự tuyên bố "Tình yêu... là một hung thần; giống như tất cả các vị thần khác, nó muốn chi phối nó là chủ nghĩa giáo điều, và còn là thứ chủ nghĩa giáo điều của toàn bộ con người và chỉ thoả mãn khi nào người ta không những trao cho nó linh hồn phụ nữ. Nó là và sẽ còn là một bà già, nó là triết học Hê-ghen già mà còn trao cho nó cả "cái tôi" thể xác của mình nữa. Sự sùng bái tình yêu là sự đau nua và goá bụa đang tô son trát phấn trang điểm cho tấm thân trừu khổ, đỉnh cao nhất của sự sùng bái đó là sự hy sinh, là sự tự sát". tượng héo hon gớm ghiếc của mình và thèm khát kiếm lấy tấm Muốn biến tình yêu thành "Mô-lốc", thành hiện thân của ma chồng trên khắp xó xỉnh của nước Đức. quỷ, ông Ét-ga trước hết biến nó thành thần. Sau khi được biến thành thần, nghĩa là đối tượng của thần học thì dĩ nhiên là tình 2) BÊ-RÔ BÀN VỀ GÁI ĐIẾM yêu sẽ phải chịu sự phê phán của thần học; mà như người ta đều biết, thần và ma quỷ cũng chẳng khác nhau mấy tí. Ông Ét -ga biến Đã có một dạo, ông Ét-ga hạ mình xuống tận những vấn đề tình yêu thành "thần", hơn nữa thành "hung thần", bằng cách biến xã hội, ông cho rằng mình cũng có trách nhiệm can thiệp vào người đi yêu, biến tình yêu của con người, thành con người của tình "những quan hệ dâm loạn" (số V, tr. 26). yêu, - bằng cách tách "tình yêu", coi là một bản chất đặt biệt, khỏi Ông phê bình một cuốn sách của Bê-rô, một viên cảnh sát ở con người và đem lại cho tình yêu với tính cách là tình yêu một sự Pa-ri, viết về chế độ bán dâm, vì "quan điểm” của "Bê-rô khi khảo tồn tại độc lập. Thông qua quá trình giản đơn như vậy, thông qua sát quan hệ của gái điếm đối với xã hội" làm cho ông không yên tâm. "Sự yên tĩnh của nhận thức" ngạc nhiên thấy rằng cảnh sát lại sự biến đổi tân từ thành chủ từ như vậy thì có thể cải tạo một cách đứng trên chính quan điểm cảnh sát và nó muốn làm cho quần phê phán mọi quy định và biểu hiện vốn có của con người thành chúng biết rằng quan điểm đó là hoàn toàn sai lầm. Nhưng nó lại những quái vật cá biệt và sự tự tha hoá của bản chất con người. không nói rõ quan điểm của nó ra. Thật là rõ ràng! Khi sự phê phán Chẳng hạn, sự phê phán có tính phê phán biến sự phê phán, coi là tân quan tâm đến gái điếm thì không thể yêu cầu nó làm việc đó trước từ và hoạt động của con người, thành chủ từ đặc biệt, thành sự phê công chúng được. phán chĩa vào chính bản thân mình, do đó thành sự phê phán có tính phê phán, tức là thành "Mô-lốc" - mà sự sùng bái Mô-lốc là sự tự 3) TÌNH YÊU hy sinh, ở sự tự sát của con người, nhất là của năng lực tư duy của con người. Muốn đạt tới "sự yên tĩnh của nhận thức" hoàn mỹ thì trước "Đối tượng" - sự yên tĩnh của nhận thức kêu lên như vậy - "đối tượng là một từ hết sự phê phán có tính phê phán phải r a sức thoát khỏi tình yêu. thích đáng bởi chưng đối với người đi yêu thì người được yêu" (không có giống cái) Tình yêu là một thứ tình dục, mà đối với sự yên tĩnh của nhận "chỉ quan trọng với tính cách là cái khách thể bên ngoài mà anh ta say mê với tính cách thức thì chẳng có gì nguy hiểm hơn là tình dục. Cho nên ông là khách thể, trong đó anh ta muốn tìm thấy sự thoả mãn cho dục vọng ích kỷ của mình". Ét-ga đã nhờ vào những cuốn tiểu thuyết của bà Phôn Pa -li-xốp mà ông ta cam đoan "đã nghiên cứu đến nơi đến chốn", để khắc Đối tượng! Đáng sợ thay! Không có gì đáng ghét hơn, thô tục
  19. 32 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 16 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 33 hơn và có tính quần chúng hơn là đối tượng, - đả đảo đối tượng! ích kỷ vì nó muốn tìm thấy bản chất của chính mình ở người Làm thế nào mà tính chủ quan tuyệt đối, actus purus 1* , sự phê khác, mà điều đó thì không nên. Sự phê phán có tính phê phán phán "thuần tuý" có thể không coi tình yêu là bête noire 2*, là hiện không mảy may có tính ích kỷ đến mức có thể tìm thấy đầy đủ nội thân của quỷ Xa-tăng, cái tình yêu nó lần đầu tiên thực sự dạy dung toàn bộ của bản chất con người ở "cái tôi" của chính nó. người ta tin vào thế giới đối tượng ở bên ngoài bản thân, nó không Dĩ nhiên ông Ét-ga không cho chúng ta biết có cái gì khác nhau những biến con người thành đối tượng mà còn biến đối tượng thành giữa người được yêu và tất cả "những khách thể bên ngoài" khác con người! "làm người ta say mê, dùng để thoả mãn dục vọng ích kỷ của người Sự yên tĩnh của nhận thức phát khùng lên nói tiếp: tình yêu ta". Đối với sự yên tĩnh của nhận thức, cái đối tượng tình yêu quyến không yên tâm ngay cả về chỗ đã biến một con người thành phạm rũ con người, đa tình và phong phú về nội dung, chẳng qua chỉ là trù "khách thể" đối với người khác; nó còn biến anh ta thành một một mô hình trừu tượng: "cái khác thể bên ngoài làm người ta say khách thế hiện thực, nhất định, thành cái khách thể bên ngoài có mê", - cũng y như đối với nhà triết học tự nhiên tư biện, sao chổi tính chất cá nhân xấu này (xem "Hiện tượng học" của Hê-ghen 12 chẳng qua chỉ là phạm trù "âm" mà thôi. Trong khi biến một người nói về hai phạm trù "Cái này" và "Cái kia", một cuốn sách trong đó khác thành khách thể bên ngoài mà mình say mê, con người quả cũng đã tranh luận chống lại "Cái này" xấu) cái khách thể tồn tại thực - như sự phê phán có tính phê phán thừa nhận - là đã gán cho không những chỉ bên trong, ẩn giấu trong đầu óc mà còn có thể sờ nó "tính chất trọng yếu", nhưng đó là cái gọi là tính chất trọng mó được. yếu của đối tượng, thế nhưng tính chất trọng yếu mà sự phê phán "Tình yêu gán cho đối tượng lại chẳng phải là cái gì khác mà là tính chất Không phải chỉ bị giam hãm trong đầu óc" trọng yếu mà sự phê phán tự gán cho bản thân mình. Do đó "tính Không, người được yêu là đối tượng cảm tính. Mà sự phê phán có chất trọng yếu" có tính phê phán đó tự biểu hiện ra không phải tính phê phán, nếu buộc phải hạ mình xuống thừa nhận một đối trong "tồn tại xấu bên ngoài" mà là trong "hư không" của đối tượng nào đó, thì ít ra cũng sẽ yêu cầu đối tượng phải là một đối tượng trọng yếu của sự phê phán. tượng phi cảm tính. Thế nhưng tình yêu lại là nhà duy vật phi phê Nếu như sự yên tĩnh của nhận thức không có được đối tượng là phán và phi Cơ Đốc giáo. con người hiện thực thì trái lại nó có được sự nghiệp là loài Sau hết, tình yêu tìm cách thậm chí biến một con người thành người. Điều mà tình yêu có tính phê phán "đề phòng nhất là vì cá "cái khách thể bên ngoài ấy của sự say đắm" của một người khác, nhân mà quên mất sự nghiệp, sự nghiệp này không phải là cái gì thành khách thể thoả mãn dục vọng ích kỷ của một người khác, khác mà là sự nghiệp của loài người". Còn tình yêu không có tính phê phán thì lại không tách rời loài người với con người cá biệt, với cá nhân. "Với tính cách là một thứ tình dục trừu tượng, không biết từ đâu đến cũng không biết 1* - hoạt động thuần tuý 2* - nghĩa đen là con vật đen, nghĩa bóng là con ngoáo ộp, người hoặc vật mà mình ghét nhất. đi đâu, bản thân tình yêu không có hứng thú đối với sự phát triển bên trong".
  20. 34 C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN 17 GIA ĐÌNH THẦN THÁNH 35 Vì theo cách nói tư biện, tức là cách gọi cái cụ thể là trừu tượng "cái khách thể bên ngoài này" nữa - và nhân tiện cũng tỏ rõ sự và gọi cái trừu tượng là cái cụ thể, nên dưới con mắt của sự yên không ưa thích nhiều hơn của mình đối với tiếng Pháp. tĩnh của nhận thức, tình yêu là tình dục trừu tượng. "Cô gái không sinh ra nơi lũng nhỏ, Cô từ đâu đến, ai nào hay biết. 4) PRU-ĐÔNG Nhưng giờ đây, nàng ra đi, ly biệt, Và bóng dáng của nàng cũng biến mất theo" 13 . Theo lời của sự phê phán có tính phê phán, tác phẩm "Tài sản Dưới con mắt của sự trừu tượng, tình yêu là "Cô gái từ nơi khác là gì" 14 không phải do bản thân Pru-đông mà là do "quan điểm của đến", không có hộ chiếu biện chứng nên bị cảnh sát có tính phê Pru-đông" viết ra: phán trục xuất. "Tôi bắt đầu sự trình bày của tôi về quan điểm của Pru -đông từ những nhận định về tác phẩm của nó" (quan điểm): ""Tài sản là gì?"" Tình dục của tình yêu không cảm thấy thích thú đối với sự phát Vì chỉ có bản thân tác phẩm của quan điểm phê phán mới có triển bên trong vì nó không thể được cấu tạo ra a priori, vì sự phát đặc trưng, nên sự nhận định có tính phê phán tất nhiên bắt đầu từ triển của nó là sự phát triển hiện thực xảy ra trong thế giới cảm tính chỗ gán cho tác phẩm của Pru-đông một đặc trưng. Cái cách mà và giữa những cá nhân hiện thực. Còn sự thích thú chủ yếu của kết Ét-ga dùng để gán đặc trưng cho tác phẩm ấy là dịch nó. Dĩ nhiên cấu tư biện là "từ đâu đến" và "đi đâu". "Từ đâu đến" chính là "tính là ông ta gán cho nó đặc trưng xấu vì ông ta biến nó thành đối tất nhiên của khái niệm, là sự chứng minh và sự diễn dịch của nó" tượng của "sự phê phán". (Hê-ghen). "Đi đâu" là một quy định "nhờ nó mà mỗi khâu riêng biệt trong cái xích tư biện, coi như nội dung đầy sinh khí của phương Như vậy, tác phẩm của Pru-đông bị ông Ét-ga công kích theo pháp, lại đồng thời là khởi điểm của một khâu mới" (Hê-ghen). Như hai cách: công kích ngầm bằng cách dịch nó ra một cách đặc trưng vậy là chỉ khi nào có thể cấu tạo ra a priori cái "từ đâu đến" và "đi và công kích công khai bằng cách bình luận nó một cách phê phán. đâu" của tình yêu thì tình yêu mới đáng được sự phê phán tư biện Chúng ta sẽ thấy rằng khi dịch, ông Ét-ga tỏ ra hiểm độc hơn khi bình "quan tâm". luận. Ở đây, sự phê phán có tính phê phán không những chỉ đấu tranh chống tình yêu mà còn đấu tranh chống tất cả những cái có DỊCH MỘT CÁCH ĐẶC TRƯNG SỐ 1 sự sống, tất cả những cái trực tiếp, mọi kinh nghiệm cảm tính, mọi "Tôi không mong muốn" (Pru -đông bị dịch một cách phê phán nói) "đưa ra bất cứ một kinh nghiệm thực tế nói chung, tức là những kinh nghiệm mà hệ thống nào đó của cái mới, tôi không mong muốn gì hết ngoài việc xoá bỏ đặc quyền, chúng ta không bao giờ biết trước được chúng "từ đâu đến" và "đi tiêu diệt sự nô dịch... Sự công bằng, không có gì khác ngoài sự công bằng, đấy là chủ đâu". trương của tôi". Thông qua sự khắc phục tình yêu, ông Ét -ga hoàn toàn khẳng Pru-đông bị đặc trưng chỉ hạn chế ở sự mong muốn và chủ định bản thân mình là "sự yên tĩnh của nhận thức". Tiếp đó, ông trương, vì "sự mong muốn lương thiện" và "chủ trương" phi khoa ta lại lập tức thông qua Pru-đông để tỏ rõ kỳ tài to lớn của mình học là đặc tính của quần chúng phi phê phán. Pru -đông bị đặc về nhận thức - đối với nhận thức này "đối tượng" không còn là trưng có đặc điểm là tính tình nhún nhường thích hợp với quần
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2