intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội

Chia sẻ: Nhumbien999 Nhumbien999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

36
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm tổng quan hệ thống lý luận chung về an toàn vệ sinh thực phẩm và tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia và địa phương. Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phầm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tổng hợp phương hướng và đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA LƯU VĂN BA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Quản lý công Mã số: 60 34 04 03 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG HÀ NỘI, 2018
  2. Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Đinh Thị Minh Tuyết Phản biện 1: PGS.TS Vũ Trọng Hách Phản biện 2: PGS.TS. Phạm Kiên Cường Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia Địa điểm: Phòng..........., Nhà......... – Hội trường bảo vệ luận văn thạc sĩ, Học viện Hành chính quốc gia. Thời gian: vào hồi...........giờ..........tháng........năm 2018 Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia hoặc trên trang Web khoa Sau đại học, học viện Hành Quốc gia. 1
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài An toàn vệ sinh thực phẩm và ô nhiễm môi trường là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm vì ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sức khỏe của con người. Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là “Bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm chính là bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng và sức khoẻ nhân dân, là một nhiệm vụ thường xuyên cần tập trung chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền, là trách nhiệm và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm và của mỗi người dân”. Trong những năm gần đây, bên cạnh việc phát triển và thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa nông lâm thủy sản thì cũng đã phát hiện những vụ việc về thực phẩm không đảm bảo an toàn, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Trước sự phát triển không ngừng của đời sống sản xuất; tốc độ gia tăng dân số, đô thị hóa và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm của người tiêu dùng và thị trường quốc tế thì vấn đề quản lý, kiểm soát và đảm bảo an toàn thực phẩm cũng như an toàn thực phẩm nông sản càng được đặt ra hết sức cấp bách, đòi hỏi phải có chiến lược đồng bộ, mang tính định hướng chỉ đạo, tổ chức thực hiện các biện pháp nhằm kiểm soát hữu hiệu hoạt động sản xuất nông sản thực phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế ngành nông nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Ở Việt Nam, thực phẩm không đảm bảo an toàn đã dẫn đến hàng ngàn lượt người bị ngộ độc thực phẩm cấp tính, trung bình hơn 60 người chết mỗi năm; trung bình mỗi người dân bị 1,5 lần/năm nhiễm bệnh đường tiêu hóa; lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, hóa chất là một trong những nguyên nhân dẫn đến bệnh ung thư, tổn thương não, máu trắng, suy thận, thậm chí dẫn đến tử vong. Sản xuất và sử dụng thực phẩm không an toàn ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, khả năng lao động, chất lượng cuộc sống của con người hàng ngày và lâu dài. Không đảm bảo an toàn thực phẩm còn làm giảm khả năng tiếp cận thị trường cho các mặt hàng nông sản có giá trị cao mà Việt Nam có tiềm năng. Nhiều thị trường xuất khẩu lớn đã bị bỏ lỡ và rủi ro cao trong việc nắm giữ thị trường nội địa trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Thành phố Hà Nội có số dân khoảng 10 triệu người đang cư trú và công tác, học tập; trong đó có trên 3 triệu người trong độ tuổi lao động ở khu vực nông thôn; hàng năm, trung bình đón khoảng 20 triệu khách du lịch đến thăm viếng thủ đô mỗi năm. Để đáp ứng thực phẩm nông lâm thủy sản cho khoảng 10 triệu dân, mỗi năm thị trường Hà Nội cần khoảng 900 nghìn tấn gạo, 150 nghìn tấn thịt lợn, 45 nghìn tấn thịt gà, 900 triệu quả trứng các loại, 55 nghìn tấn hải sản tươi sống và chế biến, 1000 nghìn tấn rau xanh. Trong khi sản xuất nông nghiệp của Hà Nội hiện nay mới chỉ đáp ứng được 69% nhu cầu thịt gia súc, gia cầm các loại, 32% cá các loại, 84% trứng gia cầm, 19% sữa, 38% gạo tẻ chất lượng cao, 60% rau củ tươi và 18% quả tươi các loại. số còn lại được nhập khẩu và cung cấp từ các tỉnh khác. Hiện có 20 trung tâm thương mại, 120 siêu thị (trong đó có 92 siêu thị kinh doanh tổng hợp có kinh doanh thực phẩm), 460 chợ 2
  4. (02 chợ đầu mối, 04 chợ có tính chất đầu mối, 454 chợ dân sinh) cung cấp trực tiếp nguồn thực phẩm tới người dân [31]. Vì vậy, để đảm bảo cung cấp cho người tiêu dùng những sản phẩm thực phẩm đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, kịp thời đưa ra cảnh báo về an toàn thực phẩm và xây dựng cơ sở dữ liệu để phục vụ công tác hoạch định chính sách, quy định về quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm thì hoạt động giám sát an toàn thực phẩm là rất cần thiết. Chính vì những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội” sẽ đóng góp một phần rất quan trọng trong công tác nêu trên. 2. Tình hình nghiên cứu Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm được nhiều nhà nghiên cứu, đề cập. Các đề tài trước, những công trình nghiên cứu trước đề cập đến những góc độ khoa học khác nhau như: - Báo cáo của Hoàng Thị Minh Thu và cộng sự (2012) trong Tạp chí Y học thực hành số 842-2012, Bộ Y tế xuất bản, Tr. 296-300 về kết quả triển khai thực hiện mô hình cải thiện an toàn thực phẩm Dịch vụ ăn uống tại một số phường, thị trấn thành phố Hà Nội năm 2010-2011[26]. - Báo cáo của Hà Thị Anh Đào, Vi Văn Sơn, Nguyễn Minh Trường (2009) trong kỷ yếu Hội nghị khoa học an toàn vệ sinh thực phẩm lần thứ 5, Nxb Hà Nội, tr. 191-196 về Thực trạng vệ sinh cơ sở dịch vụ thức ăn đường phố khu vực chợ Đồng Xuân và Thanh Xuân Bắc – Hà Nội [25]. - GS.TS. Nguyễn Công Khẩn, 2012, Hướng dẫn chung công tác thanh tra, kiểm tra an toàn thực phẩm. Tài liệu nhằm hướng dẫn thực hiện công tác thanh tra kiểm tra do một số đơn vị mới được thành lập, cán bộ thanh tra an toàn vệ sinh thực phẩm còn thiếu, chưa có kinh nghiệm và chưa được đào tạo đầy đủ nên gặp nhiều khó khăn trong hoạt động, Bộ Y tế, 2012 [31]. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan hệ thống lý luận chung về an toàn vệ sinh thực phẩm và tổng hợp kinh nghiệm của một số quốc gia và địa phương. - Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phầm trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Tổng hợp phương hướng và đề xuất giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Lý luận và thực tế quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu một số nội dung quản lý nhà nước bao gồm: xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược an toàn vệ 3
  5. sinh thực phẩm; xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế quản lý nhà nước; thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách; xây dựng và tổ chức thực hiện tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ; hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính cho an toàn vệ sinh thực phẩm; thanh tra, kiểm tra, tổng kết và đánh giá hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm. - Không gian: Trên địa bàn thành phố Hà Nội - Thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm từ năm 2011 đến hết năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Phương pháp luận Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, học viên luận giải các hoạt động quản lý nhà nước về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tư duy logic biện chứng, mang tính khách quan trong mối liên hệ phổ biến, tránh sự phiến diện. Luận văn xem xét và nghiên cứu các hoạt động quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong mối quan hệ mang tính hệ thống giữa các yếu tố hoạt động quản lý. Dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về an toàn vệ sinh thực phẩm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, xử lý thông tin và tổng hợp khi nghiên cứu các văn kiện của Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước, tài liệu, giáo trình, công trình, bài viết có liên quan nhằm hệ thống hóa, khái quát hóa lý luận cũng như xác định cơ sở thực tiễn của quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Luận văn cũng kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, sử dụng, bổ sung và phát triển các luận cứ khoa học và thực tiễn mới phù hợp với mục đích nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp thống kê: các tài liệu thống kê đảm bảo giá trị pháp lý được sử dụng để phục vụ cho việc nghiên cứu. Nguồn số liệu được thu thập, tổng hợp, xử lý dựa vào các báo cáo năm, báo cáo khảo của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và các Bộ, ngành, cơ quan tổ chức khác. - Phương pháp phân tích và tổng hợp: luận án sử dụng phương pháp này để phân tích và tổng hợp hệ thống quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, phân tích và tổng hợp các số liệu chứng minh cho việc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, phân tích nguyên nhân của những kết quả đạt được hay những tồn tại của quản lý nhà nước về đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, từ đó rút ra những kinh nghiệm của nội dung này. - Kỹ thuật xử lý thông tin, số liệu: học viên đã xử lý số liệu thu thập được bằng một số công cụ thống kê, phần mềm ứng dụng như Word, Excell. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa những lý luận cơ bản và những kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm. 4
  6. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần phân tích, đánh giá và xác định nguyên nhân thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm hiện nay của thành phố Hà Nội. Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý thành phố Hà Nội và ngành nông nghiệp trong công tác an toàn vệ sinh thực phẩm. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội. 5
  7. Chương 1 CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM 1.1. Khái niệm liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm 1.1.1. Thực phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm Theo Luật An toàn thực phẩm (2010), một số khái niệm được định nghĩa như sau [10]: Thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm. Điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm là những quy chuẩn kỹ thuật và những quy định khác đối với thực phẩm, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích bảo đảm thực phẩm an toàn đối với sức khoẻ, tính mạng con người. Ô nhiễm thực phẩm là sự xuất hiện tác nhân làm ô nhiễm thực phẩm gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người. Bệnh truyền qua thực phẩm là bệnh do ăn, uống thực phẩm bị nhiễm tác nhân gây bệnh. Tác nhân gây ô nhiễm là yếu tố không mong muốn, không được chủ động cho thêm vào thực phẩm, có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến an toàn thực phẩm. Sự cố về an toàn thực phẩm là tình huống xảy ra do ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm hoặc các tình huống khác phát sinh từ thực phẩm gây hại trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người. Ngộ độc thực phẩm là tình trạng bệnh lý do hấp thụ thực phẩm bị ô nhiễm hoặc có chứa chất độc. Điều kiện chung về bảo đảm an toàn đối với thực phẩm là: Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về giới hạn vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác trong thực phẩm có thể gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người. Tùy từng loại thực phẩm, ngoài các điều kiện chung như trên thực phẩm còn phải đáp ứng một hoặc một số các quy định sau đây: Quy định về sử dụng phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; Quy định về bao gói và ghi nhãn thực phẩm; Quy định về bảo quản thực phẩm. Điều kiện riêng bảo đảm an toàn đối với từng loại thực phẩm là: Đối với thực phẩm tươi sống: Bảo đảm truy xuất được nguồn gốc theo quy định của Luật An toàn thực phẩm; Có chứng nhận vệ sinh thú y của cơ quan thú y có thẩm quyền đối với thực phẩm tươi sống có nguồn gốc từ động vật theo quy định của pháp luật về thú y. Đối với thực phẩm đã qua chế biến: Nguyên liệu ban đầu tạo nên thực phẩm phải bảo đảm an toàn và giữ nguyên các thuộc tính vốn có của nó; các nguyên liệu tạo thành thực phẩm không được tương tác với nhau để tạo ra các 6
  8. sản phẩm gây hại đến sức khoẻ, tính mạng con người; Thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn phải đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị trường. Đối với thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng: Nguyên liệu ban đầu tạo nên thực phẩm phải bảo đảm an toàn và giữ nguyên các thuộc tính vốn có của nó; các nguyên liệu tạo thành thực phẩm không được tương tác với nhau để tạo ra các sản phẩm gây hại đến sức khoẻ, tính mạng con người; Chỉ được tăng cường vi chất dinh dưỡng là vitamin, chất khoáng, chất vi lượng vào thực phẩm với hàm lượng bảo đảm không gây hại đến sức khoẻ, tính mạng con người và thuộc Danh mục theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. Đối với thực phẩm chức năng: Có thông tin, tài liệu khoa học chứng minh về tác dụng của thành phần tạo nên chức năng đã công bố; Thực phẩm chức năng lần đầu tiên đưa ra lưu thông trên thị trường phải có báo cáo thử nghiệm hiệu quả về công dụng của sản phẩm. Đối với thực phẩm biến đổi gen: Tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn đối với sức khỏe con người và môi trường theo quy định của Chính phủ. Đối với thực phẩm đã qua chiếu xạ: Thuộc Danh mục nhóm thực phẩm được phép chiếu xạ; Tuân thủ quy định về liều lượng chiếu xạ. Đối với phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm: Đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy định về phụ gia thực phẩm và chất hỗ trợ chế biến thực phẩm; Có hướng dẫn sử dụng ghi trên nhãn hoặc tài liệu đính kèm trong mỗi đơn vị sản phẩm bằng tiếng Việt và ngôn ngữ khác theo xuất xứ sản phẩm; Thuộc Danh mục phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm được phép sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định; iv) Đăng ký bản công bố hợp quy với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi lưu thông trên thị trường. 1.1.2. Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường. Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của con người. Quản lý nhà nước biểu hiện trước hết ở việc tác động vào nhận thức hành vi của con người, các tổ chức, buộc mọi cá nhân, tổ chức phải hành động theo một định hướng và mục tiêu nhất định. Bên cạnh việc sử dụng pháp luật như một phương thức cơ bản, quan trọng nhất, Nhà nước cũng chú trọng đến việc tuyên truyền, giáo dục và động viên tinh thần các công dân, kết hợp với việc xây dựng và thực hiện các chính sách đòn bẩy kích thích kinh tế, vật chất nhằm phát huy tính chủ động, sánh tạo của cơ quan, doanh nghiệp và mọi tầng lớp nhân dân. Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm là một một lĩnh vực quản lý nhà nước, xét về phạm vi cả nước, chủ thể của quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm là cơ quan hành chính cao nhất là Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trong cả nước. Hệ thống cơ quan quản lý 7
  9. nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm ở nước ta hiện nay gồm: Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn, Bộ Công Thương, Ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân (Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương và các đơn vị liên quan. Khách thể của quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm là toàn bộ các hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm diễn ra trên phạm vi cả nước. Vấn đề đặt ra là chọn những định hướng, những trọng tâm cần quản lý ở từng giai đoạn, từng ngành, từng khu vực . và quan trọng là phải có một cơ chế quản lý khoa học và hợp lý để hướng những đối tượng cần quản lý vào đúng quỹ đạo mong muốn nhằm đi đến mục tiêu đã định. Ngày nay, đối tượng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm đã được mở rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động của đời sống con người, đặc biệt là những hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm trong thương mại, an toàn lao động, bảo vệ sức khoẻ và môi trường. Tuy nhiên, tuỳ tình hình cụ thể của mỗi nước mà phạm vi và đối tượng của quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm cũng khác nhau. Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm được hình thành với mục đích bảo vệ lợi ích hợp pháp của con người, giữa người mua và người bán, chăm sóc sức khoẻ và môi trường cho cộng đồng, đảm bảo sự công bằng trong xã hội và nó gắn liền với hoạt động kinh tế- xã hội và đời sống của nhân dân. Để từng bước thực hiện được mục đích nêu trên thì bất cứ nước nào cũng phải chăm lo, xây dựng hệ thống quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm đủ lớn mạnh để phục vụ nhu cầu của kinh tế - xã hội. Do vậy, tăng cường hoạt động quản lý Nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Nội dung quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm 1.2.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược an toàn vệ sinh thực phẩm Luật An toàn thực phẩm (2010) đã được Quốc hội thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010 với mục tiêu giải quyết các mối quan tâm quốc gia đang ngày càng gia tăng về các nguy cơ an toàn vệ sinh thực phẩm và các vấn đề tác động tới thương mại cũng như sức khoẻ con người. Luật này là khung pháp lý hiện đại, theo các tiêu chuẩn và cách tiếp cận quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm quốc tế. Luật phân rõ trách nhiệm quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm cho 3 bộ liên quan: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế và Bộ Công thương. Mỗi bộ được phân công đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho một số sản phẩm cụ thể trong toàn bộ chuỗi thực phẩm, bao gồm từ khâu sản xuất, sơ chế, chế biến, lưu trữ, xuất nhập khẩu cho đến khâu phân phối bán buôn bán lẻ. Bộ Y tế, thông qua Cục an toàn thực phẩm, ngoài các trách nhiệm cụ thể thì có trách nhiệm chung về an toàn vệ sinh thực phẩm ở Việt Nam. Việc quản lý nhà nước về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm đã được phân công, phân cấp theo pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm, được quy định cụ thể trong Luật An toàn thực phẩm như sau: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế thực hiện 8
  10. quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trong phạm vi địa phương. Ở Trung ương, có 3 bộ chịu trách nhiệm chính trong chuỗi cung cấp thực phẩm, đó là Bộ Y tế, Bộ công thương và Bộ nông nghiệp, trong đó Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm. Tại mỗi bộ có đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Ban chỉ đạo liên ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm trung ương được thành lập để chỉ đạo việc phối hợp hoạt động giữa các Bộ trong các vấn đề liên ngành. Ở địa phương, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm trong phạm vi địa phương. Tham mưu giúp UBND tỉnh là Sở Y tế, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các sở, ban, ngành hữu quan khác. Ban chỉ đạo liên ngành về an toàn vệ sinh thực phẩm các cấp (được thành lập tới cấp xã) có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp hoạt động liên ngành tại địa phương. 1.2.2. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm Luật An toàn thực phẩm năm 2010 phân rõ trách nhiệm quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm cho 3 bộ liên quan: Bộ Y tế, Bộ Công thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cơ sở pháp lý để quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm, tức là những văn bản quy định những điều được làm, không được làm và những điều bắt buộc phải thực hiện để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đồng thời quy định các loại chế tài để xử lý đối với những chủ thể vi phạm quy định của pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm. Luật An toàn thực phẩm năm 2010 cùng với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến an toàn vệ sinh thực phẩm như: Bộ luật Hình sự (1999), Bộ luật Dân sự (2005), Luật Đất đai (2003), Luật tài nguyên nước (1998, sửa đổi 2004), Luật Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, Luật Quảng cáo, Luật Thú y, Luật Bảo vệ thực vật, Pháp lệnh chăn nuôi; đã tạo khung pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm theo hướng hiệu quả, bền vững. 1.2.3.Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách an toàn vệ sinh thực phẩm Xây dựng tổng thể chính sách về bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, chính sách đặc thù với vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên. Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất thực phẩm chất lượng cao, bảo đảm an toàn; bổ sung vi chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm; xây dựng thương hiệu và phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn. 9
  11. 1.2.4. Kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm Quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm được phân cấp quản lý từ trung ương tới địa phương theo các cấp (từ cấp tỉnh đến cấp quận, huyện và xã). Công tác này được thực hiện thông qua sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân. Nhiệm vụ chính theo Luật quy định là xây dựng và ban hành các quy định kỹ thuật tại địa phương, xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch tổng thể cấp vùng và chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm đối với các lĩnh vực chịu trách nhiệm. 1.2.5. Hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính cho an toàn vệ sinh thực phẩm Bố trí đủ ngân sách cho công tác quản lý an toàn thực phẩm theo dự toán. Cho phép sử dụng kinh phí xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm để phục vụ quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, trong đó được trích một tỷ lệ hợp lý khen thưởng cho tổ chức, cá nhân có thành tích trong quản lý, tham gia bảo đảm an toàn thực phẩm. Sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực khác đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ phục vụ việc phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm; xây dựng mới, nâng cấp một số phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn khu vực, quốc tế; nâng cao năng lực các phòng thí nghiệm phân tích hiện có; hỗ trợ đầu tư xây dựng các vùng sản xuất nguyên liệu thực phẩm an toàn, chợ đầu mối nông sản thực phẩm, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm quy mô công nghiệp. Việc nghiên cứu thiết lập cơ chế tài chính phù hợp, đặc thù cho hệ thống quản lý, kiểm soát chất lượng, an toàn thực phẩm theo hướng kết hợp hài hòa nguồn thu phí và lệ phí với nguồn lực từ ngân sách nhà nước. Hoàn thiện, qui định đồng bộ và thống nhất về thu, nộp và quản lý phí và lệ phí quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm. Bố trí đủ ngân sách cho công tác quản lý an toàn thực phẩm theo dự toán. Cho phép sử dụng kinh phí xử phạt vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm để phục vụ quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, trong đó được trích một tỷ lệ hợp lý khen thưởng cho tổ chức, cá nhân có thành tích trong quản lý, tham gia bảo đảm an toàn thực phẩm. Tăng cường xã hội hóa, đa dạng các nguồn lực tài chính và một số khâu dịch vụ kỹ thuật phục vụ công tác quản lý an toàn thực phẩm; thực hiện tốt việc tổ chức đánh giá, công nhận các cơ sở thực hiện xã hội hóa quản lý an toàn thực phẩm và chỉ định các cơ quan, tổ chức có đủ điều kiện kiểm nghiệm về an toàn thực phẩm tham gia kiểm định, giám định chất lượng thực phẩm. Phối hợp tích cực với hoạt động giám sát của các tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, xã hội-nghề nghiệp, đặc biệt là của người dân trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm. Nghiên cứu chính sách khuyến khích việc xã hội hoá công tác đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm theo hướng mở rộng mô hình hợp tác công tư, khuyến khích đầu tư của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, tư nhân, cổ phần cho các dịch vụ tư vấn, đào tạo, chứng nhận, kiểm nghiệm. 10
  12. 1.2.6. Thanh tra, kiểm tra, tổng kết và đánh giá hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm Thanh tra, kiểm tra là một công cụ sắc bén nhằm bảo đảm tính hiệu quả của quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm. Mục đích của hoạt động này nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm, góp phần quan trọng bảo đảm cho pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả thực tế. Thanh tra về an toàn thực phẩm là thanh tra chuyên ngành. Thanh tra an toàn thực phẩm do ngành y tế, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngành công thương thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra. Chính phủ quy định việc phối hợp giữa các lực lượng thanh tra an toàn thực phẩm của các bộ, cơ quan ngang bộ với một số lực lượng khác trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm. Việc thực hiện các quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm đối với sản xuất, kinh doanh thực phẩm và sản phẩm thực phẩm do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành; Việc thực hiện các tiêu chuẩn có liên quan đến an toàn thực phẩm do tổ chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng đối với sản xuất, kinh doanh thực phẩm và sản phẩm thực phẩm; Hoạt động quảng cáo, ghi nhãn đối với thực phẩm thuộc phạm vi quản lý; Hoạt động chứng nhận hợp quy, kiểm nghiệm an toàn thực phẩm; Việc thực hiện các quy định khác của pháp luật về an toàn thực phẩm. Kiểm tra an toàn thực phẩm: Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm thuộc Bộ quản lý ngành thực hiện việc kiểm tra an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo quy định; Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc kiểm tra an toàn thực phẩm trong phạm vi địa phương theo quy định của Bộ quản lý ngành và sự phân công của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Trong trường hợp kiểm tra liên ngành về an toàn thực phẩm có liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều ngành hoặc địa phương, cơ quan chủ trì thực hiện kiểm tra có trách nhiệm phối hợp với cơ quan hữu quan thuộc các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan để thực hiện. Hoạt động kiểm tra an toàn thực phẩm phải bảo đảm nguyên tắc: Khách quan, chính xác, công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử; Bảo vệ bí mật thông tin, tài liệu, kết quả kiểm tra liên quan đến cơ quan, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm được kiểm tra khi chưa có kết luận chính thức; Không được sách nhiễu, gây phiền hà cho tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả kiểm tra, kết luận có liên quan. Bộ trưởng Bộ quản lý ngành quy định cụ thể về hoạt động kiểm tra an toàn thực phẩm trong phạm vi quản lý nhà nước được phân công. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan quản lý an toàn thực phẩm có các quyền trong kiểm tra an toàn thực phẩm: Quyết định thành lập đoàn kiểm tra thực hiện công tác kiểm tra theo kế hoạch hoặc đột xuất; 11
  13. Cảnh báo nguy cơ không bảo đảm an toàn thực phẩm; Xử lý vi phạm trong quá trình kiểm tra an toàn thực phẩm theo quy định tại Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về quyết định của đoàn kiểm tra, hành vi của thành viên đoàn kiểm tra theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan quản lý an toàn thực phẩm có nhiệm vụ: Xây dựng kế hoạch kiểm tra hằng năm trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định; Tiếp nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra an toàn thực phẩm nhập khẩu; xác nhận điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm đối với thực phẩm nhập khẩu; Ra quyết định xử lý chậm nhất trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo của đoàn kiểm tra về việc tạm đình chỉ hoạt động sản xuất, kinh doanh, niêm phong thực phẩm, tạm dừng việc quảng cáo đối với thực phẩm không bảo đảm an toàn. 1.3. Vai trò quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm 1.3.1. Định hướng và điều chỉnh hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm Hình thức quản lý hành chính nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài của những hoạt động cùng loại về nội dung, tính chất và phương thức tác động do các chủ thể thực hiện quản lý hành chính nhà nước đối với các cá nhân tổ chức thuộc đối tượng bị quản lý. Giữa hình thức quản lý hành chính nhà nước và phương pháp quản lý hành chính nhà nước có mối liên hệ chặt chẽ. Phương pháp quản lý hành chính nhà nước thuộc về nội dung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Sự áp dụng hình thức hoạt động nào đó ở mức độ này hay mức độ khác nói lên các chủ thể quản lý hành chính nhà nước đã sử dụng phương pháp hoạt động nào. 1.3.2. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm Phương pháp hành chính là những phương thức tác động tới các cá nhân tổ chức thuộc đối tượng quản lý thông qua quy định trực tiếp nghĩa vụ của họ, qua những mệnh lệnh dựa trên quyền lực nhà nước và phục tùng. Chẳng hạn Luật An toàn thực phẩm ấn định nghĩa vụ của các chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm cần phải thực hiện những hành vi nào để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. 1.3.3. Đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho người dân Hoàn thiện đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, kinh doanh thực phẩm đồng bộ với quy hoạch vùng, cơ sở sản xuất an toàn; có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất, kinh doanh thực phẩm theo chuỗi khép kín, áp dụng chương trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, hệ thống kiểm soát chất lượng tiên tiến trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; phát triển sản xuất nông nghiệp công nghệ cao và sản xuất hàng hóa quy mô lớn gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ, bảo đảm an toàn thực phẩm, có lộ trình giảm tỷ trọng sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ, kém chất lượng. Giảm số vụ ngộ độc thực phẩm nhiều người, giảm tỷ lệ mẫu thực phẩm kiểm tra không đảm bảo an toàn, tăng tỷ lệ cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm nông, lâm, thủy sản được kiểm tra đạt yêu cầu về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm so với giai đoạn trước. Có lộ trình và giải pháp giải quyết dứt 12
  14. điểm các vấn đề yếu kém: về dư lượng vượt ngưỡng cho phép của thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, sử dụng chất cấm trong chăn nuôi; kiểm soát chặt chẽ nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, kinh doanh thực phẩm; kiểm soát giết mổ nhỏ lẻ, thực phẩm có nguy cơ cao, thức ăn đường phố; ngộ độc thực phẩm cấp tính và mãn tính; kinh doanh thực phẩm giả, kém chất lượng, quá hạn sử dụng, không rõ nguồn gốc xuất xứ, vi phạm quy định ghi nhãn hàng hóa, hàng nhập lậu và gian lận thương mại; kiểm soát môi trường đất, nước cho sản xuất thực phẩm an toàn. 1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm và bài học kinh nghiệm cho thành phố Hà Nội 1.4.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm * Kinh nghiệm của một số quốc gia Singapore: Singapore là một trong những nước tiêu biểu thành công trong công tác đảm bảo an toàn thực phẩm, Singapore có những qui định chặt chẽ và kinh nghiệm trong việc thực hiện đồng bộ các chính sách về an toàn thực phẩm, từ khung pháp lý đến công tác đào tạo, tuyên truyền; Khung pháp lý và các qui định chặt chẽ về an toàn thực phẩm. Một trong những nước có chính sách phúc lợi xã hội và bảo vệ người tiêu dùng từ rất sớm, ngay từ năm 1985 Singapore đã ban hành Luật kinh doanh thực phẩm, quy định rõ thực phẩm tiêu thụ trên thị trường phải là hàng thật; nghiêm cấm mọi hình thức hàng giả, hàng nhái, hàng không có nhãn mác rõ ràng. Nghiêm cấm việc sử dụng những thông tin trong nhãn mác có thể gây ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng; mọi hàng hóa không đủ phẩm chất đều phải tiêu huỷ, nếu vi phạm phải sử lý theo luật pháp. Cơ quan Nông sản thực phẩm và Thú y Singapore có trách nhiệm điều chỉnh và đảm bảo sự ổn định và cung cấp đầy đủ an toàn, không độc hại và chất lượng sản phẩm tươi. Trung Quốc: Mặc dù hiện nay Chính phủ Trung Quốc vẫn đang phải đau đầu về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng trong thực tế, Chính phủ Trung Quốc đã có những chính sách nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm có thể tham khảo như, như mỗi cơ quan phụ trách một mắt xích quy chế: Bộ Nông nghiệp quản lý nhà nước về các nông sản chính; Hiệp hội Chứng nhận và cấp chứng quản lý sản xuất lương thực và ngành chế biến; Bộ Y tế quản lý ngành tiêu dùng; Tập đoàn Công nghiệp ôtô Thượng Hải quản lý ngành vận tải thực phẩm và Cơ quan Quản lý dược - thực phẩm chịu trách nhiệm chung về an toàn thực phẩm. Nhờ vậy, tiêu chuẩn thực phẩm quốc gia và ngành đã áp dụng cho hơn 3.000 mặt hàng thực phẩm chế biến và gần 4.000 mặt hàng nông sản, đề ra tiêu chuẩn thanh tra, vệ sinh thực phẩm.  Kinh nghiệm một số địa phương trong nước Quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm ở nước ta là một số lĩnh vực còn nhiều mới mẻ, vì thế ở nhiều tỉnh thành trong cả nước chưa có nhiều kinh nghiệm như một số quốc gia trên thế giới, Cục An toàn thực phẩm mới được thành lập vào năm 1999. Chúng ta chưa thể làm thay đổi ngay những tồn tại, yếu kém đã kéo dài nhiều năm, đã thành tiền lệ trong khi đó nhu cầu hội nhập là bất khả kháng. Không có cách nào khác ngoài việc học tập kinh nghiệm 13
  15. các nước để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam vào từng địa phương cho phù hợp thực tiễn nước ta. Thành phố Hồ Chí Minh Trước yêu cầu cấp bách về công tác an toàn vệ sinh thực phẩm của địa phương, thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng mô hình quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm khác biệt so với 62 tỉnh thành khác trên cả nước đó là thành lập Ban quản lý an toàn thực phẩm của thành phố. Theo đó, các ban ngành liên quan đến thực phẩm sẽ quy tụ về một đầu mối thực hiện theo chuỗi sản phẩm, tránh đùn đẩy trách nhiệm và thực thi nhiệm vụ các vấn đề liên quan về an toàn thực phẩm do Ban quản lý chịu trách nhiệm. Đà Nẵng Ngày 30 tháng 12 năm 2017, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng tổ chức công bố quyết định thí điểm thành lập Ban quản lý an toàn thực phẩm thành phố Đà Nẵng của Thủ tướng Chính phủ. Ban quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm là cơ quan trực thuộc UBND thành phố Đà Nẵng, có chức năng giúp UBND thành phố tổ chức thực thi pháp luật và thực hiện chức năng, thẩm quyền của thanh tra chuyên ngành về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố. Ban Quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm thành phố Đà Nẵng tiếp nhận nhiệm vụ và nhân sự thực hiện công tác quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố tại Chi cục Vệ sinh an toàn thực phẩm trực thuộc Sở Y tế, Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản trực thuộc Sở NN&PTNT, và bộ phận an toàn vệ sinh thực phẩm của Sở Công Thương để thực hiện nhiệm vụ. 1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho thành phố Hà Nội Một là, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai và đôn đốc, kiểm tra đối với công tác an toàn vệ sinh thực phẩm ở địa phương; đưa chỉ tiêu bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương hằng năm để tổ chức thực hiện; lồng ghép các hoạt động bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm với Chương trình dinh dưỡng cộng đồng và các chương trình khác. Thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức và pháp luật về an toàn thực phẩm, nhất là Luật An toàn thực phẩm và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; hướng dẫn, định hướng thay đổi hành vi và các biện pháp thực hiện hành vi bảo đảm an toàn thực phẩm của cả cơ sở sản xuất kinh doanh và nhân dân, phù hợp với từng nhóm đối tượng, tạo sự chuyển biến căn bản trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng. Phát động phong trào thi đua bảo đảm an toàn thực phẩm; tập trung cao trong tháng hành động vì an toàn thực phẩm, trong mùa hè, mùa cưới, các dịp lễ, tết, các ngày diễn ra sự kiện lớn về chính trị, văn hóa, xã hội. Tiểu kết chương 1 Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, việc bảo đảm chất lượng an toàn thực phẩm ngày càng được nhiều nước trên thế giới đặc biệt quan tâm. Tùy theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới mà có nhiều cách quản lý chất lượng an toàn thực phẩm sao cho phù hợp và mức độ hiệu quả trong công tác quản lý chất lượng an toàn thực phẩm của mỗi nước cũng khác nhau nhưng nhìn chung Chính phủ của mỗi nước đều rất quan tâm đến công tác 14
  16. thể hiện ở việc đầu tư ngân sách, đầu tư nguồn lực, ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn, luật về an toàn vệ sinh thực phẩm, đầu tư về tổ chức và nhân lực cho công tác này. Phần cơ sở lý luận quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở trên đã hệ thống những kiến thức cơ bản về thực phẩm, an toàn thực phẩm, quản lý, quản lý nhà nước cũng như vai trò của quản lý nhà nước đối với an toàn thực phẩm ở nước ta và rút ra bài học từ kinh nghiệm quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước trên thế giới. Từ đó nhận thấy rằng công tác quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm rất cần thiết và là hoạt động tất yếu nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Đây cũng chính là cơ sở để có thể tìm hiểu thực trạng và giải pháp quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ AN TOÀN VỆ SINH THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.1.1 Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trong khâu sản xuất, chế biến Hiện nay công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn như chưa kiểm soát được dư lượng hoá chất bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, hoá chất bảo quản trong nông sản, thực phẩm. Vì vậy, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm của các cơ sở chế biến thực phẩm loại này hầu như không đạt yêu cầu. Một bộ phận người chủ cơ sở sản xuất, chế biến chưa có ý thức trách nhiệm với sức khỏe cộng đồng, vì lợi ích trước mắt. Nhiều cơ sở sản xuất, chế biến nhỏ lẻ manh mún, chưa đủ điều kiện thực hành sản xuất, chế biến kinh doanh thực phẩm an toàn Việc mở rộng tổ chức quản lý theo chuỗi và truy suất nguồn gốc thực phẩm theo chuỗi còn chậm. Quản lý các thực phẩm nhập vào từ các tỉnh ngoài còn khó khăn. Tình trạng giết mổ nhỏ lẻ, mất vệ sinh, gây ô nhiễm môi trường vẫn diễn ra trên địa bàn thành phố. Nhiều nơi trên địa bàn thành phố mỗi ngày giết khoảng vài chục nghìn con gia cầm, nhưng quá trình giết mổ tràn lan trong khi công tác bảo vệ môi trường tại khu vực này còn hạn chế. 2.1.2 Thực trạng an toàn vệ sinh thực phẩm trong khâu kinh doanh và tiêu thụ Vấn đề thực phẩm buôn bán trên thị trường vẫn chưa được kiểm soát hiệu quả, thực phẩm giả, thực phẩm kém chất lượng, thực phẩm nhập lậu còn lưu thông trên thị trường. Vấn đề thực phẩm, phụ gia thực phẩm, hoá chất bảo vệ thực vật và thuốc thú y nhập lậu qua biên giới diễn biến rất phức tạp, đang là vấn đề gây nhức nhối, bức xúc cho tất cả các cơ quan quản lý và xã hội. Trong khi đó, ý thức chấp hành pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm của một số tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và người tiêu dùng 15
  17. còn chưa cao. Thực phẩm bẩn, thực phẩm không an toàn đang ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và sự phát triển giống nòi. 2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.2.1. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược an toàn vệ sinh thực phẩm Thành phố Hà Nội xây dựng các văn bản chỉ đạo về ATVSTP của Trung ương, và triển khai thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm đồng bộ từ thành phố tới quận huyện, xã phường: ban hành Chỉ thị 10 - CT/TU ngày 27/10/2016 của Thành ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm trong tình hình mới”; Chỉ thị số 20/CT - UBND ngày 22/12/2014 của UBND thành phố về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo đảm an toàn thực phẩm và phòng chống ngộ độc thực phẩm trong tình hình mới 2.2.2. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm Theo quyết định 16/2016/QĐ-UBND ngày 09/5/2016 của UBND thành phố về quy định Phân công trách nhiệm quản lý về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội với nguyên tắc quản lý ATVSTP theo chuỗi và quản lý toàn diện theo địa giới hành chính công tác an toàn thực phẩm được phân công cho 03 cấp: - Cấp thành phố: cơ sở có đăng ký kinh doanh do thành phố cấp và cơ sở do Bộ Nông nghiệp & PTNT phân cấp (trừ cơ sở có sản phẩm xuất khẩu trong trường hợp có yêu cầu của nước nhập khẩu về cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm): Giao cho 04 Chi cục: Quản lý chất lượng NLS&TS, Thú Y, Bảo vệ thực vật, Thủy sản thực hiện; Cơ quan thường trực là Chi cục Quản lỹ chất lượng nông lâm sản và thuỷ sản. - Cấp quận, huyện, thị xã: cơ sở sản xuất có đăng ký kinh doanh do UBND quận, huyện, thị xã cấp: do Phòng Kinh tế và làm đầu mối phối hợp với Trạm Thú y, Trạm Bảo vệ thực vật, Trạm Khuyến nông tham mưu, tổng hợp. - Cấp xã, phường, thị trấn: Cơ sở kinh doanh có đăng ký kinh doanh do cấp quận, huyện, thị xã cấp; cơ sở sản xuất ban đầu nhỏ lẻ, cơ sở không có đăng ký kinh doanh đóng trên địa bàn xã, phường, thị trấn. 2.2.3. Thực trạng xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách an toàn vệ sinh thực phẩm Ủy ban nhân dân thành phố đã ban hành quyết định 3410/QĐ-UBND ngày 30/7/2012 của UBND thành phố về ban hành quy định tạm thời tiêu chí cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm đảm bảo các yêu cầu về vệ sinh thú y, VSATTP, vệ sinh môi trường được áp dụng chính sách Khuyến khích đầu tư theo Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐND ngày 5/4/2012 của HĐND TP Hà Nội; quyết định 16/2012/QĐ-UBND ngày 06/7/2012 của UBND TP về ban hành quy định thí điểm một số chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012-2016; quyết định 2393/QĐ- UBND ngày 26/5/2015 của UBND thành phố về chế phối hợp trong công tác 16
  18. quản lý nhà nước về giết mổ, vận chuyển, sơ chế, chế biến, bảo quản kinh doanh gia súc gia cầm và sản phẩm gia súc gia cầm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chính sách đầu tư cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm tập trung: hiện đã cho kết quả 76 xã chăn nuôi trọng điểm và 3.232 trại chăn nuôi quy mô lớn ngoài khu dân cư, 25 vùng nuôi trồng thủy sản tập trung với diện tích 1.690ha; Có 06 cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm công nghiệp (03 cơ sở đang hoạt động), 16 cơ sở giết mổ bán công nghiệp, 03 khu giết mổ thủ công và còn khoảng trên 1.000 điểm, hộ giêt mổ nhỏ lẻ, thủ công. Chính sách hỗ trợ xây dựng các chuỗi thực phẩm an toàn, truy xuất nguồn gốc xuất xứ sản phẩm nông lâm sản và thuỷ sản: Hiện đã có 60 chuỗi liên kết an toàn thực phẩm (27 chuỗi có nguồn gốc động vật, 33 chuỗi nguồn gốc trồng trọt) trong đó 07 chuỗi rau, thịt với 06 cơ sở với 11 địa điểm bày bán được xác nhận sản phẩm an toàn. Tỷ lệ sản phẩm gia súc, gia cầm được kiểm soát tại cơ sở giết mổ đạt khoảng 45% số gia súc, gia cầm giết mổ trên địa bàn Thành phố. Hỗ trợ 1000 mã sản phẩm nông lâm sản thực phẩm để truy xuất nguồn gốc xuất xứ qua tem mã điện tử thông minh QRcode . 2.2.4. Thực trạng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm * Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm Thực hiện Chỉ thị 13/CT-TTg ngày 09/5/2016 của Thủ tướng chính phủ về tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về ATVSTP, Hà Nội đã thành lập lại Ban chỉ đạo công tác ATVSTP từ thành phố tới xã, phường, thị trấn do đồng chí Chủ tịch UBND các cấp trực tiếp làm Trưởng ban. Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý ATVSTP. Ban chỉ đạo quy định trách nhiệm của người đứng đầu các cấp từ thành phố đến địa phương trong công tác đảm bảo ATVSTP, chịu trách nhiệm khi để xảy ra vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn. Tăng cường kiểm tra, giám sát ATVSTP trên địa bàn: Đồng chí Phó chủ tịch cấp quận, huyện kiểm tra ATVSTP 1 lần/2 tuần, chủ tịch xã/phường/trị trấn kiểm tra 1lần/ 1 tuần, phó chủ tịch xã/phường/trị trấn kiểm tra 2 lần/1 tuần. 2.2.5. Thực trạng hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính cho an toàn vệ sinh thực phẩm Về đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị như trụ sở làm việc, trang thiết bị văn phòng cho các cơ quan chuyên môn cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chuyên môn về quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Từ năm 2011-2016 ngân sách Trung ương và thành phố đầu tư về an toàn thực phẩm trong Chương trình đảm bảo an toàn thực phẩm 5000đ/dân trung bình trên 30 tỷ VNĐ/năm. Cơ sở vật chất, trang thiết bị: Cơ bản đáp ứng với công việc thông thường hiện tại, tuy nhiên số lượng xe ô tô đi công tác (thanh kiểm tra, hậu kiểm, giám sát, kiểm nghiệm) còn hạn chế, phòng kiểm nghiệm tuy đạt ÍSO 17025 nhưng chưa kiểm nghiệm được một số chất cấm. 17
  19. 2.2.6. Thực trạng thanh tra, kiểm tra, tổng kết đánh giá hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm Công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về ATVSTP ngày càng được tăng cường, phối hợp chặt chẽ giữa các tuyến. Việc thực hiện chính sách, pháp luật về ATVSTP trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2018 về cơ bản được triển khai đồng bộ. Tuy nhiên, trong tổng số vụ, lượt kiểm tra là hơn 824 nghìn cơ sở, trong đó phát hiện hơn 135 nghìn cơ sở vi phạm, xử lý hơn 41 nghìn vụ, phạt tiền hơn 18,5 nghìn cơ sở với tổng số tiền phạt trên 92 tỷ đồng, tiêu hủy thực phẩm không đảm bảo chất lượng giá trị gần 48 tỷ đồng điều nay chứng tỏ việc thực hiện chính sách, pháp luật về ATVSTP trên thành phố vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Từ năm 2011 đến năm 2017, thành phố có 14 vụ ngộ độc thực phẩm nhỏ, lẻ với 222 người mắc, không có tử vong 2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.3.1. Kết quả đạt được Một là, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai kịp thời, đúng quy định Hai là, thể chế quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm được tuyên truyền và phổ biến rộng rãi Ba là, xây dựng và tổ chức thực tốt hiện chính sách an toàn vệ sinh thực phẩm Bốn là, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước được kiện toàn và năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm được thực hiện theo hướng tinh gọn và chất lượng Năm là, công tác thanh tra, kiểm tra, tổng kết và đánh giá hoạt động an toàn vệ sinh thực phẩm tiến hành theo kế hoạch 2.3.2. Những hạn chế Một là, việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược an toàn vệ sinh thực phẩm còn chậm tiến độ theo kế hoạch đề ra, chưa gắn với điều kiện thực tế của Việt Nam: công tác kết nối các khâu trong mô hình chuỗi sản xuất, kinh doanh sản phẩm an toàn chưa được bền vững, các bên chưa thấy rõ lợi ích đem lại nên hiệu quả, tính ổn định lâu dài chưa cao. Hai là, việc xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm còn chậm, chồng chéo và chưa đồng bộ Ba là, chính sách an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được cụ thể hóa phù hợp với yêu cầu thực hiện: Bốn là, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm còn cồng kềnh, chức năng còn chồng chéo: Tổ chức bộ máy cơ quan quản lý chuyên ngành ATVSTP chưa hoàn thiện, thiếu nguồn nhân lực về số lượng và kinh nghiệm công tác an toàn thực phẩm. Năm là, hỗ trợ và huy động nguồn lực tài chính cho an toàn vệ sinh thực phẩm còn ít, chưa đảm bảo yêu cầu hoạt động. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2