TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG TÂY CỔ - TRUNG ĐẠI<br />
<br />
I. Tổng quan về phương Tây cổ - trung đại.<br />
1. Cơ sở hình thành nền văn minh phương Tây cổ đại<br />
Thuật ngữ phương Tây đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử. Vào thời cổ đại, khi con người còn chưa<br />
tìm ra những lục địa mới người Hy Lạp đã gọi khu vực mặt trời lặn so với họ là phương Tây, các vùng<br />
đất còn lại (Châu Á, châu Phi) gọi là phương Đông. Sự phân loại này mang tính chất tương đối và chỉ là<br />
sự quy ước của con người mà thôi. Văn minh phương Tây cổ đại ngày nay được hiểu chính là hai nền<br />
văn minh lớn : Hi Lạp và La Mã cổ đại.<br />
1.1 Hi Lạp.<br />
*Điều kiện tự nhiên:<br />
Hi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thần biển từ đất liền<br />
vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp gọi tên nước mình là Hellad hay Ellad dựa theo<br />
tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ Trung Quốc, ta gọi là Hi Lạp.<br />
Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày nay, các đảo trong biển Aegean tới phía Tây Tiểu Á,<br />
và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan trọng nhất là vùng lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục<br />
địa Hi Lạp gồm 3 phần: miền Bắc là vùng đồng bằng rộng lớn và quan trọng nhất Hi Lạp; miền Trung<br />
ngăn cách với phía bắc bởi đèo Thermopil hiểm trở, nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù<br />
phú với thành thị Athens nổi tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hình bàn tay bốn ngón xòe ra<br />
Địa Trung Hải – đây là nơi xuất hiện nhà nước thành bang đầu tiên của Hi Lạp – nhà nước Sparta.<br />
Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi Lạp không phì nhiêu lắm, chủ<br />
yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ công, còn lương thực chính là lúa mì phần lớn được nhập<br />
từ Ai Cập.<br />
Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự thuận lợi tuyệt vời với<br />
con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh, thuận lợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây,<br />
người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á, Bắc Hải để giao thương.<br />
Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những thành tựu của nền văn minh<br />
phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi Lạp cổ đại độc đáo và rực rỡ, với những thành tựu<br />
tuyệt vời đóng góp cho sự phát triển của văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói<br />
chung.<br />
*Các thời kì phát triển:<br />
- Văn minh Crete – Mycenae (thiên niên kỉ III – thế kỉ XII TCN)<br />
- Thời kì Homer (thế kỉ XI – IX TCN)<br />
- Thời kì xã hội có giai cấp, nhà nước : các quốc gia thành bang Sparta và Athens (thế kỉ VII – IV<br />
TCN)<br />
- Thời kì Macedonia và thời kì Hi Lạp hóa (337 – 30TCN)<br />
1.2 La Mã<br />
* Điều kiện tự nhiên:<br />
Nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và hẹp như chiếc hia duỗi<br />
thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần bán đảo Hi Lạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như<br />
một bức tường thành tự nhiên ngăn cách bán đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có<br />
biển bao bọc. Dãy núi Apennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống Đông<br />
Nam.<br />
Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi đây có nhiều đồng<br />
bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu: đồng bằng sông Pô (miền Bắc), đồng bằng sông Tibrơ (miền<br />
Trung), các đồng bằng trên đảo Xixin. Ở miền Nam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho việc<br />
phát triển nghề nông và chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ<br />
dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.<br />
* Các thời kì phát triển:<br />
Thời kì Vương chính (753 – 510 TCN)<br />
Thời kì Cộng hòa (thế kỉ VI – I TCN)<br />
Thời kì Đế chế (thế kỉ I – V)<br />
Tóm lại: Văn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hi Lạp và La Mã đã<br />
hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của những cư dân gốc du mục. Khác với các quốc<br />
gia cổ đại phương Đông, nền văn minh chủ yếu được hình thành trên những khu vực gần các con sông<br />
lớn, thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, văn minh phương Tây cổ đại hình thành và phát triển trên<br />
những khu vực điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt và phức tạp hơn. Điều kiện tự nhiên đó tuy khó<br />
khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù lại nền văn minh phương Tây có được sự trợ giúp<br />
tuyệt vời của biển đảo. Những con đường giao thương trên biển, hải cảng, tàu bè… không chỉ tạo điều<br />
kiện phát triển trong mối quốc gia mà còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các nước, mang những<br />
thành tựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền bá khắp nơi trên thế giới. Sự phát triển về kinh tế, đặc<br />
biệt là kinh tế thương nghiệp hàng hải đã tạo ra một nền kinh tế giàu mạnh cho các quốc gia phương Tây<br />
cổ đại, đặc biệt là sự phát triển cực thịnh của chế độ chiếm nô. Phương thức sản xuất chiếm nô thời bấy<br />
giờ đạt đến mức hoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ đại. Chính sự phát triển của<br />
chế độ chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần của nền văn minh<br />
phương Tây. Sự giàu mạnh về kinh tế cùng với những con đường giao thông trên biển là những nguyên<br />
nhân quan trọng đã thúc đẩy quá trình bành trướng của các quốc gia được mệnh danh là đế quốc cổ đại:<br />
Hi Lạp và La Mã.<br />
Như vậy, điều kiện tự nhiên của Hi Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng, cơ sở tạo ra nền văn minh<br />
phương Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ mà điều kiện tự nhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan<br />
trọng đã mang nền văn minh phương Tây cổ đại truyền bá khắp thế giới dù bằng nhiều con đường khác<br />
nhau: hòa bình hoặc chiến tranh.<br />
2. Phương Tây thời kì trung đại (Tây Âu)<br />
2.1 Thời kì phong kiến Tây Âu<br />
Vào thời kì cuối của đế quốc Rôma, chế độ chiếm hữu nô lệ bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm<br />
trọng, kinh tế suy sụp, nền văn hóa huy hoàng một thời cũng dần lụi tàn. Bên cạnh đó, những cuộc viễn<br />
chinh của các tộc Giecmanh đã tàn phá nặng nề những di sản của nền văn minh cổ đại.<br />
Bước vào đầu thời kì trung đại, các quốc gia phong kiến dần hình thành, cùng với nó là sự ra đời<br />
của các thành thị trung đại và nền kinh tế hàng hóa phong kiến. Tuy nhiên, cũng chính thành thị và nền<br />
kinh tế hàng hóa đã ngầm phá hoại dần chế độ phong kiến.<br />
Một đặc điểm đáng lưu ý của thời kì này là đạo Kitô đã trở thành tôn giáo phục vụ đắc lực cho cho<br />
chế độ phong kiến. Chính sự yếu kém của nền kinh tế và suy tàn về văn hóa là nền tảng để truyền bá<br />
những học thuyết cuồng tín, ma quỷ… được giáo sĩ, nhà thờ tận dụng triệt để để bảo vệ tối đa quyền lợi<br />
cho giai cấp thống trị. Tòa thánh Rôma lúc này rất có thế lực về chính trị, cùng với giai cấp phong kiến<br />
Tây Âu, trong gần 200 năm đã tiến hành 8 cuộc viễn chinh sang phương Đông, được gọi là “Những cuộc<br />
viễn chinh của quân Thập tự”. Đây được xem như một cuộc chiến tranh xâm lược và bành trướng cả về<br />
kinh tế lẫn văn hóa. Cuộc viễn chinh để lại nhiều hệ quả tốt xấu khác nhau nhưng nhìn chung cũng đã<br />
mang lại những hệ quả tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế - văn hóa Tây Âu phát triển một bước.<br />
Tóm lại, giai đoạn phong kiến Tây Âu từ thế kỉ X – XIII, tuy bị giáo hội Thiên chúa lũng đoạn về<br />
tư tưởng nhưng cũng về văn hóa cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Đó là một trong những<br />
tiền đề quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát triển của văn hóa Phục hưng giai đoạn sau.<br />
2.2 Thời kì văn hóa Phục hưng<br />
Cuối thời trung đại, ở châu Âu xuất hiện một phong trào văn hóa mới, gọi là phong trào văn hóa<br />
Phục hưng. Văn hóa Phục hưng không chỉ là một phong trào phục hồi văn hóa Hy-La cổ đại một cách<br />
đơn thuần mà nó được nảy sinh và phát triển dựa trên những điều kiện lịch sử mới.<br />
Từ thế kỉ XIV – XVI, những mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu xuất hiện ở các quốc gia<br />
Tây Âu ngay trong lòng chế độ phong kiến. Đến thế kỉ XVI, chủ nghĩa tư bản chính thức ra đời và phát<br />
triển ở châu Âu. Sự ra đời của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã mang đến cho xã hội loài người nói<br />
chung và châu Âu nói riêng một sự tiến bộ vượt bậc cả về kinh tế lẫn xã hội, thể hiện rõ tính chất của<br />
một chế độ ưu việt hơn chế độ phong kiến với nhiều tác động tích cực làm thay đổi xã hội. Nền sản xuất<br />
tư bản chủ nghĩa đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế các nước, quan hệ sản xuất tư bản xâm nhập và chi phối<br />
hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Về xã hội, cùng với nền sản xuất mới đã làm xuất hiện hai giai cấp mới đối<br />
lập nhau về quyền lợi kinh tế, chính trị là giai cấp tư sản và vô sản. Trong buổi đầu hình thành, giai cấp<br />
tư sản là giai cấp tiến bộ, đại diện cho một phương thức sản xuất mới, làm thúc đẩy sự phát triển của xã<br />
hội. Trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, sự ra đời của chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đã tạo ra những<br />
biến động lớn. Cùng với sự xuất hiện của giai cấp tư sản là sự ra đời của một trào lưu tư tưởng mới tiến<br />
bộ hơn, đối lập với hệ tư tưởng phong kiến. Cuộc đấu tranh giữa tư sản và phong kiến trong buổi đầu<br />
chính là cuộc đấu tranh hết sức gay gắt và quyết liệt trên lĩnh vực văn hóa-tư tưởng, tạo ra một phong<br />
trào quyết liệt và mạnh mẽ là “Phong trào văn hóa Phục hưng”. Thực chất đó là trận chiến đầu tiên của<br />
hai giai cấp đối lập nhau, một là giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng lạc hậu, lỗi thời với một nền kinh tế<br />
yếu kém với một giai cấp mới đang lên là giai cấp tư sản với sự tiến bộ và ưu việt về nhiều mặt.<br />
Như vậy, châu Âu thời hậu kì trung đại đã có những biến đổi về mọi mặt. Từ trong lòng xã hội<br />
phong kiến, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tư bản đã ra đời với những tiến bộ vượt bậc đã thúc đẩy nền<br />
kinh tế các nước nhanh chóng phát triển. Giai cấp tư sản với thế lực kinh tế ngày càng mạnh đang gặp<br />
phải những trở lực từ phong kiến và giáo hội mang nặng tính chất bảo thủ và kiên cố. Chính vì vậy, châu<br />
Âu từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVI sôi động và quyết liệt với cuộc đấu tranh toàn diện của giai cấp tư sản<br />
chống lại chế độ phong kiến trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, khoa học, văn hóa-nghệ thuật, tư tưởng và<br />
tôn giáo với những thành tựu rực rỡ. Bên cạnh đó, giai đoạn nửa sau thế kỉ XV, người châu Âu đã tiến<br />
hành nhiều cuộc thám hiểm vượt đại dương với mục đích tìm con đường biển sang phương Đông: Cuộc<br />
thám hiểm tìm ra châu Mĩ (1492) của Christopho Columbo, cuộc thám hiểm đi vòng quanh thế giới của<br />
Magienlăng (1519 – 1522)…cùng với những cuộc thám hiểm là những phát kiến địa lý khai phá những<br />
vùng đất mới, mang một nền văn hóa mới của châu Âu đến các quốc gia, dân tộc trên khắp thế giới.<br />
Giai đoạn văn hóa Phục hưng chính là tiền đề trực tiếp cho văn minh châu Âu thời kì cận-hiện đại.<br />
II. Những thành tựu của văn hóa phương Tây cổ - trung đại và ảnh hưởng của nó đối với nền<br />
văn hóa thế giới<br />
1. Chữ viết<br />
Những thành tựu huy hoàng của văn minh Hi Lạp đã trở thành mẫu mực và đỉnh cao cuả nhiều<br />
thời đại. Đó là kết quả của một nền kinh tế phát triển cao, một thể chế dân chủ không bị chi phối bởi tôn<br />
giáo và sự tiếp thu một cách tinh tế những thành tựu của văn hóa phương Đông.<br />
Chữ viết của Hi Lạp đã xuất hiện từ thời Crete – Mycenae. Vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu<br />
thế kỉ XX, người ta đã tìm thấy hàng nghìn tấm đất sét được khắc chữ cổ được xác định là của thời kì<br />
này.<br />
Sau khi bị người Dorien thống trị, loại chữ trên đã bị mai một. Đến cuối thế kỉ VII TCN, người Hi<br />
Lạp khôi phục lại chữ viết của mình trên cơ sở văn tự của người Phoenicia. Đến năm 403 TCN, nhà<br />
nước Athens đã thống nhất quy định thể thức viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ cái xuống còn 27<br />
chữ 9sau này rút lại còn 24 chữ). Loại chữ này được sử dụng rộng rãi và được coi là thứ chữ đẹp nhất<br />
thế giới bởi sự cân đối, hài hòa, thanh nhã và tiện dụng.<br />
So với hệ thống chữ tượng hình của người phương Đông, hệ thống chữ cái Hi Lạp đã đạt đến trình<br />
độ khái quát hóa rất cao. Với khoảng hơn 20 chữ cái người ta có thể diễn đạt mọi ý tưởng trừu tượng<br />
nhất bằng cách ghép chữ dựa theo âm tiết. Đây là một trong những cống hiến lớn lao của Hi Lạp vào<br />
kho tàng văn hóa chung của nhân loại. Từ chữ cái Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ cái Latinh<br />
và chữ cái Cyrill (của các ngôn ngữ gốc Slav). Đó là các cơ sở chữ cái mà nhiều dân tộc trên thế giới<br />
ngày nay đang sử dụng.<br />
Tiếng Hy Lạp viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp có từ thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên. Bảng chữ cái<br />
Hy Lạp bao gồm:<br />
Chữ Hoa:<br />
Α, Β, Γ, Δ, Ε, Ζ, Η, Θ, Ι, Κ, Λ, Μ, Ν, Ξ, Ο, Π, Ρ, Σ, Τ, Υ, Φ, Χ, Ψ, Ω.<br />
Chữ Thường:<br />
α, β, γ, δ, ε, ζ, η, θ, ι, κ, λ, μ, ν, ξ, ο, π, ρ, σ (ς), τ, υ, φ, χ, ψ, ω.<br />
Tiếng Hy Lạp được dạy trong các trường và đại học ở nhiều nước từ thời Phục hưng trở đi. Tiếng<br />
Hy Lạp hiện nay có khác nhiều so với tiếng Hy Lạp cổ đại nhưng vẫn có thể nhận ra nhiều điểm giống<br />
nhau. Trên thế giới có khoảng 12 triệu người sử dụng tiếng Hy Lạp (ở Hy Lạp và những quốc gia có<br />
người Hy Lạp sinh sống).<br />
Ở La Mã, chữ viết của người Etrusque xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII – VII TCN nhưng đến<br />
hiện giờ người ta vẫn chưa đọc được loại chữ này. Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức<br />
có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La<br />
Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ<br />
Latinh.<br />
Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và được sử<br />
dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu<br />
Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày<br />
nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.<br />
Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử dụng làm<br />
ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học,<br />
nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.<br />
2. Văn học<br />
Văn học Hi Lạp gồm 3 bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau: thần thoại, thơ, kịch. Theo tiếng Hi Lạp<br />
thần thoại có nghĩa là một tập hợp, tổng thể những câu chuyện dân gian truyền miệng với những nội<br />
dung hoang đường, kì ảo gồm những truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng,<br />
dũng sĩ Hi Lạp... Điểm nổi bật trong thần thoại Hi Lạp chính là hình ảnh các vị thần. Hệ thống các vị<br />
thần trong thần thoại Hi Lạp đa dạng và phong phú, được miêu tả rất gần với cuộc sống đời thường của<br />
con người, khác với các vị thần của phương Đông. Sau này người La Mã đã tiếp thu các vị thần của Hi<br />
Lạp và cải biên đi thành các vị thần của mình:<br />
- Thần Zeus – thần Jupiter: thần sấm sét tối cao trong 12 vị thần trên đỉnh Olympus<br />
- Nữ thần Aphrodite – nữ thần Venus: thần tình yêu và sắc đẹp<br />
- Nữ thần Demeter – nữ thần Cerès: nữ thần nông nghiệp<br />
…<br />
Thần thoại Hi Lạp là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng với những tính<br />
cách, khát vọng, tình cảm gần gũi với con người. Đằng sau cái vẻ cổ xưa thần thoại là những vấn đề<br />
nhân văn và nhân sinh rất con người được thể hiện qua hình ảnh các vị thần. Không phải ngẫu nhiên mà<br />
cho đến nay vô số chủ đề thơ kịch, tiểu thuyết của châu Âu lấy đề tài từ những vị thần của Hi Lạp.<br />
Những giá trị nhân văn của văn học Phục hưng có thể được bắt nguồn từ đây.<br />
Thần thoại Hi Lạp là nguồn cảm hứng cho nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác của Hi Lạp: thơ, kịch,<br />
kiến trúc, điêu khắc…<br />
Về thơ ca, nổi bật lên là 2 bộ sử thi Iliade và Odixe của Homer, có giá trị cả về lịch sử lẫn văn học,<br />
để lại cho thế giới nhiều điển tích VH cho đến ngày nay: gót chân Asin, con ngựa thành Troy…Hai bộ<br />
sử thi này cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ La Mã lựa chọn đề tài để sáng tác.<br />
Nghệ thuật kịch Hi Lạp ra đời và phát triển rực rỡ với nhiều nhà soạn kịch nổi tiếng: Etsin,<br />
Sôpôclơ…Đây chính là nguồn gốc của kịch châu Âu đương đại. Sau này chính Shakespear là người đã<br />
kế thừa truyền thống và tinh hoa của kịch Hi Lạp, La Mã cổ đại đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh.<br />
Nghệ thuật kịch Hi Lạp đã cho ra đời một công trình kiến trúc khá hiện đại và quy mô: nhà hát<br />
Athens.<br />
Văn học La Mã về sau chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp. Hai tập sử<br />
thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch<br />
La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được<br />
phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Hay các nhân vật trong Iliat và Ôđixe như tráng sĩ Agamemnong trở<br />
thành nhân vật trong vở Orextex của Etsin.<br />
Thời kì Phục hưng, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của văn học Hi Lạp và La Mã, văn học Tây<br />
Âu phát triển rực rỡ, để lại nhiều tác phẩm giá trị cho văn học thế giới.<br />
Về thơ ca, tiêu biểu là Đantê với “Thần khúc”, mở đầu cho thơ ca thời kì phục hưng. Ngoài ra còn<br />
có Pêtêraca, Bôcaixô…đây đều là những tác giả say mê nghiên cứu và chịu những ảnh hưởng nhất định<br />
từ nền văn học của Hi Lạp và La Mã. Về tiểu thuyết, Rabơle được xem là học giả vĩ đại nhất của văn<br />
học Phục hưng Pháp với tác phẩm “Cuộc đời đáng chán của người khổng lồ Gácgăngchuya và người<br />
con Păngtagruyen”, trở thành cha đẻ của hai nhân vật khôi hài nhất trong lịch sử văn chương. Đặc biệt<br />
trong nền văn học Phục hưng nổi lên một học giả lừng danh là nhà văn Xecvantec với tác phẩm<br />
Đônkihôtê. Cuốn tiểu thuyết là một bắc tranh chân thực, rõ ràng về xã hội Tây Ban Nha thế kỉ XVI,<br />
đồng thời cũng là tác phẩm châm biếm toàn bộ xã hội phong kiến. Giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm<br />
không cần phải nói gì nhiều, chỉ nghe đến tên thì rất nhiều người biết rất rõ về tác giả và tác phẩm, đủ<br />
cho thấy tầm ảnh hưởng của nó rộng rãi như thế nào.<br />
Về kịch, đại văn hào William Shakespears đã trở thành nhà soạn kịch vĩ đại của không chỉ của<br />
nước Anh mà của cả thế giới với các tác phẩm: Romeo và Juliet, Hămlet, Macbeth, vua Lear…Những<br />
tác phẩm của ông vừa mang tính chất bi kịch vừa mang tính chất hài kịch nhưng tràn đầy một sức sống<br />
huy hoàng, mạnh mẽ. Tài năng và tầm ảnh hưởng của ảnh hưởng của ông đã được cả thế giới công nhận<br />
“Shakespear không chỉ thuộc về nước Anh mà ông thuộc về mọi thời đại”, các tác phẩm của ông cho đến<br />
ngày nay vẫn đang được biểu diễn trên khắp các sân khấu kịch châu Âu và thế giới. Tài năng của<br />
Shakespears được K. Marx và F. Engels nhắc nhiều trong các tác phẩm của mình.<br />
Tại Việt Nam, sau 1975 ở trường phổ thông và đại học đã bắt đầu giảng dạy một số tác phẩm của<br />
Shakespear<br />
*Vài nét về Shakespears: ông sinh ra và lớn lên ở Staford, trong một gia đình khá giả, ông được<br />
học hành tử tế cho đến năm 18 tuổi phải thôi học vì hoàn cảnh gia đình và lấy vợ. Cuộc đời Shakespear<br />
trải qua nhiều thăng trầm, để có thể viết kịch và làm trong nhà hát ông đã phải làm rất nhiều nghề: nhắc<br />
tuồng, giữ chân ngựa, sửa bản in…nhưng cuối cùng đã trở thành một nhà viết kịch thiên tài của thế giới.<br />
Nhìn chung, văn học thời kì Phục hưng mang tính nhân văn sâu sắc, một mặt văn học đóng vai trò<br />
phê phán lên án giáo hội và phong kiến, mặt khác nó lại đề cao những giá trị con người, tính lạc quan,<br />
lòng yêu tự do, công bằng, danh dự… Tuy nhiên nền văn học Phục hưng cũng là một trong những cơ sở<br />
cho sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân sau này.<br />
Tóm lại, trải qua một thời dài từ cổ đại đến trung đại, nền văn học phương Tây đã để lại cho thế<br />
giới một kho tàng văn học đồ sộ với một hệ thống các tác phẩm có giá trị về nhiều mặt, nhiều tác phẩm<br />
được xem là khuôn mẫu, chuẩn mực cho văn học và nghệ thuật của châu Âu và thế giới. Sự đóng góp và<br />
ảnh hưởng của những thành tựu văn học phương Tây cổ trung đại đối với châu Âu và thế giới không chỉ<br />
trong giai đoạn cổ trung đại mà cho đến tận ngày nay, nhiều tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị và không<br />
ngừng được khai thác, nghiên cứu, phát triển nhiều mặt.<br />
3. Nghệ thuật<br />
Trong số những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Hi Lạp và La Mã thời kì cổ trung đại đối với<br />
thế giới, người ta đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của những thành tựu về nghệ thuật, bao gồm 3 lĩnh vực:<br />
kiến trúc, điêu khắc, hội họa. Văn minh Hi-La được xem là nền tảng, là cơ sở của văn minh Tây Âu –<br />
châu Âu cận hiện đại, có thể nói nếu không có những thành tựu của văn minh Hi-La thì không thể có<br />
văn minh Tây Âu trung đại và châu Âu ngày nay. Trên nền tảng của nghệ thuật Hi-La, nghệ thuật Phục<br />
hưng đã kế thừa và phát triển một cách rực rỡ, để lại những giá trị và thành tựu đặc sắc, đưa nghệ thuật<br />
Tây Âu mang tầm giá trị thời đại.<br />
3.1 Kiến trúc<br />
Mặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng ngwời Hi Lạp đã sáng<br />
tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật riêng biệt của mình, tạo ra những giá trị nghệ<br />
thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh vực kiến trúc, người Hi Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc<br />
bất hủ với thời gian.<br />
Công trình kiến trúc đẹp nhất của Hi Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là kiệt tác về kiến trúc<br />
và là biểu tượng của kiến trúc Hi Lạp cổ. Người xây dựng nên công trình này là là kiến trúc sư Ictinus<br />
dưới sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên tài Phidias.<br />
Tọa lạc trên đỉnh đồi Acropolis, từ đây người ta có thể quan sát toàn bộ khu vực Athens. Đền<br />
Parthernon dài 70 m, rộng 314 m, cao 14 m được xây dựng để thờ nữ thần Athena, vị thần bảo hộ của<br />
Athens. Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình tròn được chạm<br />
khắc tinh vi. Công trình thể hiện tài năng của một bậc thầy xuất chúng về kiến trúc và điêu khắc. Kiệt<br />
tác này được giữ nguyên vẹn suốt 2000 năm, đến 1697 mới bị chiến tranh tàn phá.<br />
Trong nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp, người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên lối kiến trúc cột.<br />
Kiến trúc cột là cách người Hi Lạp tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng trong nghệ thuật kiến trúc. Những thức cột<br />
Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian,<br />
biểu trưng cho vẻ đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ bản<br />
trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Thức cột Hy Lạp được xem như biểu<br />
tượng của kiến trúc cổ điển.<br />
Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens, trong đó có đền Pathernon.<br />
*Ngôi đền Delphi, sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Hi Lạp và vùng tiểu Á được xây dựng vào thế<br />
kỉ V TCN để thờ thần Apolo – thần mặt trời (nay thuộc thành phố Ephesus – Thổ Nhĩ Kì).<br />
Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát triển mang tính chất riêng biệt và<br />
phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh hưởng nhất định của nghệ thuật Hi Lạp<br />
nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những công trình mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và<br />
quy mô vượt trội.<br />
Kiến trúc La Mã mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kế những công trình kiến<br />
trúc, người La Mã chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơn là sự hài hòa, cân đối giữa công trình với môi<br />
trường xung quanh. Những đường nét uốn lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng các<br />
công trình đơn điệu, nặng nề nhưng vững chắc.<br />
Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu trường Colosseum, nhà<br />
tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.<br />
Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của đế chế La Mã triều<br />
đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi 524m, bao gồm nhiều tầng với vật liệu<br />
chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toán hiện nay, đấu trường chứa được khoảng 45.000 đến 50.000<br />
người. do sự hủy hoại cuả thiên nhiên và con người, công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.<br />
Caracalla là một công trình nhà tắm công cộng được hoàn thành dưới thời hoàng đế Alexander<br />
năm 235 với tổng diện tích lên đến 14.000 hecta. Đây không chỉ đơn thuần là nơi giải trí mà còn là một<br />
công trình văn hóa với các thư viện và phòng đọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ<br />
dưỡng, nhà hàng ăn, phòng trưng bày nghệ thuật…Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà<br />
còn là sự văn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã.<br />
Đền Pantheon được xây dựng dưới thời hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoại sau hai trận hỏa<br />
hoạn và được xây dựng lại vào thời hoàng đế Hadrian (117-138) sau đó được chuyển thành nhà thờ<br />
Công giáo.<br />
Đặc điểm nổi bật của kiến trúc La Mã chính là kĩ thuật vòm cuốn, có thể thấy được qua những<br />
công trình kiến trúc tiêu biểu.<br />
Đấu trường Colosseum của La Mã và đền Parthenon của Hi Lạp là 2 trong số 7 kì quan của thế<br />
giới cổ đại.<br />
Những thành tựu của kiến trúc Hi-La cổ đại đã được thế giới thừa nhận và ứng dụng cho những<br />
công trình kiến trúc hiện đại.<br />
Kiến trúc thời Phục hưng mang đậm nét tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên chúa, nổi bật lên với 2<br />
phong cách kiến trúc tiêu biểu là kiến trúc Gôtich và Roman. Cả hai phong cách kiến trúc này đều là sự<br />
kế thừa và phát triển từ nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp và La Mã cổ đại. Nghệ thuật kiến trúc thời Phục<br />
hưng thể hiện sự giàu có, lộng lẫy cao sang quý phái.<br />
Những thánh đường Kitô giáo có kiến trúc chủ yếu mang phong cách Roman, Gô tích và Cổ điển<br />
Hy Lạp-La Mã. Khi đạo Kitô phát triển mạnh mẽ, những phong cách kiến trúc này đã được mang đến<br />
khắp nơi trên thế giới.<br />
Tóm lại, kiến trúc châu Âu ngày nay được phát triển trên nền tảng của kiến trúc thời cổ trung<br />
đại của Hi-La và Tây Âu. Mức độ ảnh hưởng và phát triển không chỉ ở trong phạm vi châu Âu mà đã lan<br />
rộng toàn thế giới. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra phong cách kiến trúc châu Âu ở rất nhiều công trình<br />
kiến trúc lớn, nhỏ ở rất hầu hết quốc gia trên thế giới hiện nay.<br />
3.2 Hội họa và điêu khắc<br />
Cùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của nhân loại, nghệ thuật<br />
điêu khắc Hi Lạp cũng được xem là những giá trị có một không hai trong nền nghệ thuật thế giới. Hai<br />
nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hi Lạp là Praxitele và Scopas ở thế kỉ IV TCN. Tượng thần Hermes và<br />
thần Aphrodite (thần vệ nữ - Venus), được xem là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc cổ đại, thể<br />
hiện vẻ đẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày nay, với một nền nghệ thuật hiện đại, chưa có nơi<br />
nào mà nghệ thuật điêu khắc vượt qua trình độ nghệ thuật của người Hi Lạp cổ đại. Bức tượng thần Zeus<br />
ở Olympia, một trong 7 kì quan của thế giới cổ đại cũng được tạo ra bởi nhà điêu khắc của Hi Lạp là<br />
Phidias.<br />
Ngoài ra, tượng nữ thần Athena và tác phẩm lực sĩ ném đĩa cũng được xem là những tác phẩm<br />
tuyệt vời thể hiện trình độ bậc thầy của nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cổ đại.<br />
Về hội họa người Hi Lạp cũng có nhiều thành tựu rỡ nhưng rất tiếc các phẩm hiện nay không còn<br />
được lưu giữ. Theo nghiên cứu, những họa sĩ Hi Lạp là người đã phát minh ra phép phối cảnh theo tỉ lệ<br />
xa gần của các nhân vật trong tranh. Ngày nay người ta chỉ còn lưu giữ một số tác phẩm do người La Mã<br />
phỏng theo họa mà ra.<br />
Đỉnh cao của hội họa phương Tây chính là hội họa thời Phục hưng. Bước sang thế kỉ XVI, nghệ<br />
thuật Phục hưng phát triển đến đỉnh cao với các tên tuổi của Leonardo da Vinci, Michelangelo,<br />
Raphael…Đặc điểm nổi bật của hội họa thời Phục hưng chính là sự biểu hiện tinh tế đời sống nội tâm,<br />
chiều sâu cá tính của nhân vật. Điều này được thể hiện rất rõ qua nhiều tác phẩm nổi tiếng của các họa sĩ<br />
thời kì này.<br />
Leonardo da Vinci (1452-1519) là một thiên tài của nước Ý trên lĩnh vực nghệ thuật. Ông không<br />
những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại<br />
những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng, Nàng La Joconde , Đức mẹ đồng trinh trong hang<br />
đá… Ông nghiên cứu rất kĩ và sâu sắc về tâm lý, giải phẩu; xác định cá quy luật phối cảnh, ánh sáng…<br />
Từ thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo; vẽ ra<br />
nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm...nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho<br />
phép ông thực hiện những ý tưởng của mình.<br />
Michelangelo (1475-1564) cũng là một người Ý, sống cùng thời với Leonardo da Vinci. Ông là<br />
một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một thi sĩ. Ông là người<br />
đã đưa điêu khắc Phục hưng đến tuyệt đỉnh. Tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất của ông là bức tượng<br />
David. Tượng được tạc trên đá cẩm thạch cao 5.3m, thể hiện một chàng thanh niên đang độ đôi mươi<br />
với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử<br />
thách. Mượn hình tượng David, Michelangelo thể hiện sức sống đang lên của một lớp người đại diện<br />
cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng<br />
lồ. Ông là kiến trúc sư đầu tiên thiết kế thánh đường Xanh Pie (nhà thờ thánh Peter ở La Mã), sau khi<br />
ông mất nhiều chi tiết đã bị thay đổi nhưng nguyên mẫu vẫn là thiết kế của ông.<br />
Về hội họa ông cũng đã để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Sáng tạo thế giới, Cuộc phán xét cuối<br />
cùng…Trong đó tác phẩm lớn nhất là bức họa Sáng tạo thế giới với 343 nhân vật được ông vẽ trong 4<br />
suốt 4 năm. Tác phẩm này được trang trí trên trần nhà thờ Sistine ở Vatican.<br />
Raphael Sanzio (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài người Ý. Tác phẩm của ông thường thể<br />
hiện quang cảnh vui tươi, êm dịu, cuộc sống sung túc; hình ảnh những người phụ nữ đẹp, hiền hậu; trẻ<br />
em ngây thơ… Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Người làm vườn xinh đẹp; ngoài ra còn có các bức<br />
tranh về Thánh mẫu…<br />
Tóm lại, nghệ thuật Phục hưng chính là sự hồi sinh hay sự khôi phục lại những giá trị của nghệ<br />
thuật Hi-La cổ đại. Phong trào văn hóa Phục hưng là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử văn minh Tây<br />
Âu. Phong trào đã cống hiến cho nền văn minh nhân loại “những con người khổng lồ” với những tác<br />
phẩm bất hủ tồn tại cùng thời gian, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa thế giới.<br />
4. Giáo dục<br />
Tại Hi Lạp, trong giai đoạn phát triển rực rỡ của nhà nước Athens và Spart, giáo dục đã được chú<br />
trọng. Trong khi thành bang Spart chủ yếu chú trọng đến giáo dục quân sự thì Athens xây dựng một nền<br />
giáo dục theo hướng tự do dân chủ.<br />
Tại La Mã, dưới thời kì đế chế, giáo dục phát triển với những nội dung, đề tài giáo dục liên quan<br />
nhiều đến chính trị, chiến tranh, chủ yếu để đào tạo những ra những thủ lĩnh quân sự, những nhà lãnh<br />
đạo, quản lý chính quyền.<br />
Trong thời kì cổ đại, giáo dục Hi Lạp và La Mã tuy còn sơ khai nhưng được xem là cực kì tiến bộ.<br />
Họ đào tạo ra những con người họ cần cho đất nước theo những phương pháp chủ động, tích cực. Những<br />
môn học được giảng dạy ở thời kì này bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, văn hóa,<br />
lịch sử, xã hội, ngữ pháp, hùng biện, logic…với phương pháp học đòi hỏi sự tư duy và lý luận sâu sắc.<br />
Đây là nền tảng quan trọng cho một nền giáo dục Tây Âu đương đại.<br />
Đến trước thế kỉ X, giáo dục Tây Âu chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo hội và kinh thánh. Đầu thế<br />
kỉ XI, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, sự đòi hỏi của con người về tri thức ngày càng cao nhiều<br />
trường đại học đã ra đời ở nhiều nước khi giáo dục giáo hội không còn đủ điều kiện để đáp ứng. Trường<br />
đại học ra đời sớm nhất là Đại học Bôlôna ở Italia. Sang thế kỉ XII, XIII, rất nhiều trường đại học khác<br />
đã lần lượt xuất hiện: Đại học Pari, đại học Oóclêăng (Pháp); đại học Oxford, đại học Cambridge (Anh);<br />
đại học Xalamanca ở Tây Ban Nha…Đến cuối thế kỉ XIV ở châu Âu đã có tất cả hơn 40 trường đại học.<br />
Ngôn ngữ được giảng dạy ở các trường đại học là tiếng Latinh. Phương pháp học tập là nghe<br />
giảng, ghi chép và thảo luận, trong đó thảo luận giữ vai trò rất quan trọng. Khi tốt nghiệp sinh viên phải<br />
làm và bảo vệ luận văn.<br />
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, những con người năng động, tích cực của phương Tây đã tạo ra<br />
một nền giáo dục hết sức tiến bộ cả về phương pháp lẫn nội dung giảng dạy. Sự vượt trội về tư duy và<br />
phương pháp giáo dục ngay buổi đầu đã tạo một nền tảng khá vững chắc cho sự phát triển của giáo dục<br />
Tây Âu sau này. Những nội dung và phương pháp giáo dục thời cổ đại hầu như được tiếp nhận và áp<br />
dụng trong các thời kì sau. Điều này rất dễ lý giải cho sự tiến bộ vượt bậc và hiệu của nền giáo dục<br />
phương Tây hiện nay. Hầu hết những trường đại học thời trung đại hiện nay đều trở thành những trường<br />
đại học danh tiếng của thế giới, nơi đào tạo những con người với bộ óc tuyệt vời cho mọi quốc gia. Mọi<br />
quốc gia có nền giáo dục tiên tiến hiện nay đều tiếp nhận nền giáo dục tiên tiến của phương Tây.<br />
5. Tổ chức nhà nước và luật pháp<br />
Khi nói đến văn minh phương Đông người ta nhắc nhiều đến những thành tựu văn hóa thiên về<br />
lĩnh vực tinh thần còn khi nói đến văn minh phương Tây người ta hay nói đến những thành tựu văn minh<br />
thiên về giá trị vật chất cho nhân loại. Một trong số những thành tựu đó là tổ chức nhà nước và luật<br />
pháp.<br />
Trong hàng chục quốc gia thành thị của Hi Lạp thì Athens có hình thức nhà nước dân chủ điển<br />
hình nhất và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Hi Lạp cổ đại. Ra đời trên cơ sở tan rã của<br />
xã hội thị tộc, nhà nước dân chủ chủ nô Athens dân chủ hóa và hoàn thiện qua những cải cách: cải cách<br />
Solon, cải cách Cleisthenes. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm các cơ quan như: Đại hội nhân dân, Hội<br />
đồng nhân dân (hội đồng 500), Tòa án nhân dân, Hội đồng cấp chính (hội đồng trưởng lão )…được sửa<br />
đổi và bổ sung qua từng thời kì khác nhau nhằm tăng cường và hoàn thiện thể chế dân chủ. Đỉnh cao của<br />
thể chế nhà nước Athens là dưới thời Pericles.<br />
Nếu như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật người La Mã được xem như một học trò của người<br />
Hi Lạp thì về mặt luật pháp, người La Mã được xem là bậc thầy. Cùng với những thành tựu khác, luật<br />
pháp của người La Mã cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn minh chung của nhân loại.<br />
Khi nhà nước La Mã thành lập đã cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên Luật 12 bảng trên cơ sở<br />
kế thừa và tham khảo luật Solon của người Hi Lạp. Nội dung bộ luật khá rộng rãi và tiến bộ, nó chống<br />
lại sự xét xử độc đoán của quý tộc, bảo vệ quyền lợi và danh dự cho mọi công dân, đề ra những nguyên<br />
tắc về tố tụng, vấn đề thừa kế tài sản… Mặc dù còn nhiều hạn chế khi xét về bản chất vẫn là bảo hệ<br />
quyền lợi cho giai cấp quý tộc, tuy nhiên tại thời điểm đó, bộ luật là một sự tiến bộ đối với xã hội đương<br />
thời.<br />
Tóm lại, những hạn chế về thời đại là không tránh khỏi nhưng thiết chế nhà nước dân chủ và<br />
những bộ luật được ban hành của Hi Lạp và La Mã là biểu hiện của sự văn minh về mặt chính trị và xã<br />
hội. Sau này, trong thời kì trung đại, để chống lại phong kiến, giai cấp tư sản không chỉ khôi phục lại<br />
những của nền văn hóa Hi-La mà còn dựa trên những thành tựu về nhà nước và luật pháp của Hi-La cổ<br />
đại để thiết lập nên thể chế chính trị và nền dân chủ của giai cấp tư sản. Các hình thức nhà nước quân<br />
chủ và chế độ cộng hòa qua các giai đoạn lịch sử sau này chính là sự kế thừa và phát triển từ thể chế<br />
chính trị của Hi Lạp và La Mã. Những thuật ngữ chính trị quen dùng ngày nay như: chính trị, dân chủ,<br />
quân chủ, cộng hòa…đều có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp.<br />
6. Thể thao<br />
Thể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín ngưỡng của các thành phố<br />
Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776 TCN và kéo dài tới năm 393. Được tổ chức mỗi<br />
4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số môn tham gia thi đấu chính thức có lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau.<br />
Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ theo thời gian, tuy vậy<br />
nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và thần thoại Hy Lạp.<br />
<br />
Thế vận hội Olympic ngày nay chính là sự bắt nguồn từ thể thao của Hi Lạp. Cũng 4 năm tổ chức<br />
một lần tại các thành phố lớn, thế vận hội Olympic đã trở thành thành sân chơi thể thao của cả thế giới<br />
với nhiều nội dung thi đấu phong phú và đa dạng. Olympic hiện nay là đỉnh cao của thể thao nhân loại.<br />
Năm 2004 Olympic được tổ chức tại Athens – Hi Lạp, lần đầu tiên được trở về với nơi mà hoạt động thể<br />
thao này đã ra đời từ thời cổ đại.<br />
<br />
6. Tôn giáo<br />
Thời cổ đại, người Hy Lạp theo đa thần giáo. Về sau khi tiếp xúc với nền văn hóa Hy Lạp, người<br />
La Mã đã tiếp thu toàn bộ hệ thống thần thoại Hy Lạp và đổi tên gọi các vị thần Hy Lạp theo kiểu La<br />
Mã.<br />
Đến cuối thế kỉ thứ II - đầu thế kỉ thứ I – TCN, đạo Kitô ra đời ở La Mã. Trong buổi đầu, đạo Kitô<br />
là tôn giáo của những người nghèo khổ, của những người chịu nhiều áp bức trong xã hội. đạo tuyên<br />
truyền những tư tưởng bình đẳng, bác ái của con người trước Chúa, lòng tin nơi thiên đàng và lên án chế<br />
độ thống trị hà khắc của chính quyền lúc bấy giờ. Đạo có nhiều ảnh hưởng đến các tầng lớp trong xã hội<br />
và vượt ra khỏi phạm vi La Mã.<br />
Hiện nay, đạo Kitô là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, tầm ảnh hưởng lan rộng hầu khắp<br />
các quốc gia.<br />
Thời kì trung đại, cùng với những cuộc cải cách tôn giáo đã cho ra đời tôn giáo mới trên cơ sở sự<br />
điều chỉnh và tách ra từ giáo hội Kitô: đạo Tin lành, Công giáo, Thiên chúa giáo...Đây đều là những tôn<br />
giáo lớn và có tầm ảnh hưởng đến thế giới.<br />
Tôn giáo phương Tây thời kì cổ trung đại qua các thời kì phát triển đã tác động nhiều mặt đến<br />
nền văn hóa-nghệ thuật thế giới: kiến trúc, hội họa, đieu khắc… và đời sống của con người. Hiện nay<br />
mức độ ảnh hưởng của các tôn giáo đã mang tầm thế giới. Sự ảnh hưởng của các tôn giáo hiện nay đối<br />
với thế giới là sự tác động đa chiều, nhiều mặt và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.<br />
III. Kết luận<br />
Những thành tựu rực rỡ của văn minh Hi-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân loại như những ánh<br />
hào quang rực rỡ nhất. Cùng với những giá trị của văn minh thời kì trung đại mà điển hình là phong trào<br />
văn hóa Phục hưng, văn minh phương Tây thời kì cổ trung đại đã đặt một nền tảng khá vững chắc cho<br />
văn minh châu Âu nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ<br />
mọi thời đại. Giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây cổ trung đại được khẳng định và thừa<br />
nhận xét cho cùng chính là những giá trị có tầm ảnh hưởng đến thời đại ngày nay.<br />
Khẳng định những giá trị và đóng góp của văn minh Hi-La cổ đại, Engels viết: “Dại dột là những<br />
ai không thấy hết giá trị của thời cổ đại Hi Lạp đối với chủ nghĩa xã hội vừa chiến thắng trong sự<br />
nghiệp xây dựng lại đời sống nhân loại” và “Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hi Lạp, không<br />
có nghệ thuật và khoa học Hi Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia La Mã. Mà không có cơ<br />
sở của văn minh Hy Lạp và Đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện đại”. Nói như vậy để thấy<br />
được giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây thời kì cổ trung đại đối với nền văn hóa thế<br />
giới lớn như thế nào.<br />