intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Triết lý đào tạo đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong khuôn khổ bài viết này, trên tinh thần khai phóng, bài viết tập trung trao đổi về việc xây dựng các phương châm, triết lý đào tạo ở cấp độ đại học - cấp đào tạo tiệm cận nhất với quá trình sử dụng nhân lực trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Triết lý đào tạo đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay

  1. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY DƯƠNG VĂN SÁU Tóm tắt Trong nền kinh tế tri thức, giáo dục - đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay đang đặt ra cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo cần có những thay đổi to lớn, toàn diện, triệt để trên mọi phương diện. Trong khuôn khổ bài viết này, trên tinh thần khai phóng, chúng tôi tập trung trao đổi về việc xây dựng các phương châm, triết lý đào tạo ở cấp độ đại học - cấp đào tạo tiệm cận nhất với quá trình sử dụng nhân lực trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Những triết lý đào tạo theo hướng “tư tưởng” như: “nhân bản - sáng tạo - hội nhập” hay theo hướng “hành động” như: “thái độ - kiến thức - kỹ năng”, “thay đổi tư duy - khơi nguồn sáng tạo”… sẽ được trình bày khái quát trong bài viết này để góp phần làm rõ nội hàm của nền giáo dục khai phóng; đáp ứng những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ở Việt Nam hiện nay. Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, triết lý đào tạo, đào tạo đại học, giáo dục khai phóng Abstract In the knowledge economy, education - training plays an extremely important role for the development of the country. The fourth industrial revolution is currently set for the cause of education and training needs of enormous, comprehensive and thorough changes in all aspects. In this article, based on the spirit of liberation, we focus on discussing the development of the educating motto and philosophy at the university level - which is closest to the process of using human resources in the socioeconomic life of the nation. The educating philosophies that is in the direction of “thought” such as “humanity - creativity - integration” or philosophies that follow “action” such as: “attitude - knowledge - skill”, “change of thinking way - leading creativity ... ... will be presented briefly in this article to contribute to clarifying the content of liberal education; meet the requirements of the fourth Industrial Revolution in Vietnam today. Keywords: Industrial Revolution 4.0, philosophy of educating, higher education, liberal education 1. Đặt vấn đề trong các lĩnh vực sinh học, vật lý học, kỹ thuật C ho đến nay, loài người đã trải qua số hóa; từ đó tạo ra những đột phá về công 3 cuộc cách mạng công nghiệp và nghệ trong các lĩnh vực hiện đại của xã hội đang bước vào cuộc Cách mạng loài người, như robot, trí tuệ nhân tạo, xe tự lái, công nghiệp lần thứ tư (The Fourth Industrial internet, công nghệ nano v.v. Revolution) (CMCN 4.0). Đây sẽ là kỷ nguyên Là người sáng lập và là Chủ tịch điều hành công nghiệp mới, được mô tả như là sự ra đời Diễn đàn Kinh tế thế giới (World Economic của một loạt các công nghệ mới trong tất cả Forum), giáo sư Klaus Schwab trong cuốn các lĩnh vực của nền kinh tế. Đây cũng là quá sách Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trình kết hợp tất cả các kiến thức tinh hoa đã mô tả sự khác biệt cơ bản của cuộc CMCN 72 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  2. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN 4.0 với ba lần trước. Sự khác biệt lớn nhất là CMCN 4.0, Việt Nam cần tìm được hướng đi, những tiến bộ trong công nghệ có khả năng giải pháp riêng phù hợp với điều kiện và nhu mở rộng sự kết nối hàng tỷ người trên trái cầu thực tiễn của mình để chủ động nắm bắt đất thông qua Internet. Thông qua đó giúp thời cơ và vượt qua thách thức. thay đổi, cải thiện đáng kể công tác tổ chức Để làm được điều đó cần có tầm nhìn chiến sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh lược và hành động quyết liệt. Thủ tướng Chính doanh một cách tối ưu. Từ đó cũng giúp cho phủ Nguyễn Xuân Phúc khi tham dự Diễn đàn việc tăng cường bảo vệ và tái tạo môi trường cấp cao và Triển lãm quốc tế về CMCN 4.0 diễn tự nhiên và môi trường xã hội thông qua cách ra tại Hà Nội ngày 13/7/2018 vừa qua, đã nhấn thức quản lý tốt hơn các tài sản của mình, tạo mạnh: “Việt Nam cần chuyển mạnh từ nhận diện ra các chuỗi giá trị sử dụng hữu ích nhất cho sâu sắc sang tầm nhìn chiến lược và hành động con người. Do các điều kiện đặc thù, mỗi quốc quyết liệt, khẩn trương” (1) để không bỏ lỡ cơ gia đều có cách tiếp cận riêng của mình đối hội hội nhập trong thời kỳ hiện đại và đủ sức với cuộc CMCN 4.0, nhưng dù sao, tất cả đều lực “lên kịp chuyến tàu” CMCN 4.0 với các nước phải dựa vào nhân tố khoa học, công nghệ và trong khu vực và thế giới. Điều đó đặt ra nhiệm đổi mới sáng tạo làm yếu tố cốt lõi. Tuy nhiên, vụ vô cùng to lớn, đặc biệt quan trọng trong mỗi quốc gia lại có mục tiêu và bước đi riêng: giáo dục - đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực Nếu CMCN 4.0 của nước Đức lấy mục tiêu phát cho đất nước trong tiến trình hội nhập, công triển công nghiệp làm trọng tâm (Industry 4.0) nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước. thì các quốc gia châu Á cũng có những quan Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017 của Thủ điểm tiếp cận mới theo các hướng khác nhau: tướng Chính phủ về việc tăng cường năng lực Nhật Bản hướng tới Xã hội 5.0 (Society 5.0). Xã tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hội 5.0 là xã hội siêu thông minh (Super Smart 4, đã đưa ra các giải pháp trong đó có các giải Society) trong đó lấy con người làm trung tâm. pháp về giáo dục, đào tạo: “Thay đổi mạnh mẽ Trong khi Hàn Quốc hướng tới Kinh tế sáng tạo các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục (Creative Economy), Trung Quốc đặt mục tiêu và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả chiến lược sản xuất sản phẩm, hàng hóa mang năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất thương hiệu quốc gia (Made in China: MIC mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào 2025) thì Singapore hướng tới xây dựng Quốc tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học gia thông minh (Smart Nation) v.v. (STEM), ngoại ngữ, tin học trong chương trình giáo dục phổ thông; đẩy mạnh tự chủ đại học, Việt Nam đang trong quá trình hội nhập dạy nghề; thí điểm quy định về đào tạo nghề, sâu rộng với thế giới, chúng ta cũng không thể đào tạo đại học đối với một số ngành đặc thù. đứng ngoài cuộc CMCN 4.0. Tham gia tiến trình hội nhập cùng CMCN 4.0, Diễn đàn Kinh tế thế Biến thách thức dân số cùng giá trị dân số vàng giới xếp Việt Nam vào Nhóm quốc gia sơ khởi thành lợi thế trong hội nhập và phân công lao nhưng tiệm cận rất gần với Nhóm có triển vọng động quốc tế” (8, tr.3). cao với xếp hạng 48/100 về cấu trúc của nền Sở dĩ Thủ tướng Chính phủ chỉ thị như vậy sản xuất và 53/100 về các yếu tố dẫn dắt sản vì những năm gần đây, giáo dục STEM (Science xuất (1). Cũng theo Diễn đàn Kinh tế thế giới - Technology - Engineering - Maths: khoa học - năm 2015, Việt Nam đứng thứ 85/143 quốc gia công nghệ - kỹ thuật - toán học) đã và đang phát được xếp hạng về chỉ số sẵn sàng về hạ tầng triển mạnh mẽ ở rất nhiều nơi trên đất nước mạng (Network Readiness Index) (5). Đây là một ta, từ thành thị tới nông thôn. Giáo dục STEM thách thức vô cùng lớn đối với một đất nước về bản chất được hiểu là trang bị cho người đang trong quá trình phát triển như chúng ta. học những kiến thức và kỹ năng cần thiết liên Vì vậy, để phát triển đất nước trong bối cảnh quan đến các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 73
  3. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU thuật và toán học theo cách tiếp cận liên môn trình đào tạo. Triết lý đào tạo thường thể hiện (interdisciplinary). Hình thức giáo dục này giúp các quan điểm hành động, liên quan đến các cho giới trẻ Việt Nam tiếp cận gần hơn, nhanh cơ quan chức năng làm nhiệm vụ quản lý, các hơn với những thay đổi của cuộc CMCN 4.0. Chỉ cơ sở giáo dục đào tạo trong cả nước rồi từ đó thị của Thủ tướng Chính phủ cũng giao nhiệm chi phối hoạt động giảng dạy, đào tạo ở các cơ vụ cụ thể cho Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Thúc sở đào tạo. Tóm lại, triết lý đào tạo là sự định đẩy triển khai giáo dục về khoa học, công nghệ, hướng căn bản nhất mang tính hệ thống, xâu kỹ thuật và toán học (STEM) trong chương trình chuỗi và kết nối tiến trình đào tạo để đạt được giáo dục phổ thông; tổ chức thí điểm tại một số mục đích đào tạo, tạo ra những giá trị cốt lõi trường phổ thông ngay từ năm học 2017 - 2018. của cơ sở đào tạo. Nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng dạy trong Từ thực tiễn cuộc sống, bằng nhận thức của các cơ sở giáo dục đại học; tăng cường giáo dục mình, chúng tôi đưa ra khái niệm triết lý đào những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy sáng tạo như sau: “Triết lý đào tạo là tư tưởng mang tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của tính triết học về đào tạo, phản ánh thực tiễn và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4” (8, tr.4). định hướng phát triển sự nghiệp đào tạo của Để ngành giáo dục đào tạo có thể hoàn đất nước. Nó được hình thành thông qua sự trải thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong cuộc nghiệm, suy ngẫm, đúc rút, khái quát hóa những cách mạng này, có rất nhiều việc phải làm, nội dung có liên quan trong quá trình điều tiết sự trong đó trước hết phải thay đổi tư duy, phải vận hành bộ máy đào tạo của các chủ thể quản khơi nguồn sáng tạo cho cả người dạy, người lý trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các nhà khoa học và người đảm bảo, phục vụ. Công việc đó học cũng như dư luận xã hội; để rồi trở lại định bắt đầu từ sự thay đổi nhận thức, xây dựng và hướng, điều tiết hoạt động giáo dục đào tạo củng cố triết lý đào tạo tương thích với yêu cầu trong những không gian và thời gian nhất định” và nhiệm vụ đặt ra. (7, tr.15). Triết lý đào tạo bắt nguồn từ thực tiễn 2. Triết lý đào tạo là gì? cuộc sống, từ yêu cầu của cuộc sống. Nó cũng bắt nguồn từ quá trình đào tạo gắn với nghiên CMCN 4.0 là cuộc cách mạng của khoa học cứu khoa học - chuyển giao công nghệ và sản và công nghệ. Trong cuộc cách mạng này, xuất - kinh doanh… Triết lý đào tạo được coi nguồn lực con người sẽ quyết định sự thành là tư tưởng chủ đạo của những nguyên tắc bại của quốc gia trong cuộc đua phát triển về đạo lý và phương pháp quản lý để dẫn dắt để mang lại sự thịnh vượng cho đất nước. Do hành vi của các cá nhân và tổ chức trong quá vậy, giáo dục đào tạo nguồn nhân lực (đặc biệt trình đào tạo. Triết lý đào tạo thường thể hiện là giáo dục đại học) giữ vai trò quyết định sự qua lý do tồn tại của hoạt động đào tạo và các thành công của cuộc CMCN 4.0 hiện nay. Bên quan điểm hành động, liên quan đến các cơ cạnh những thành tích to lớn không thể phủ quan chức năng làm nhiệm vụ quản lý các cơ nhận, đào tạo đại học ở Việt Nam hiện nay sở đào tạo trong cả nước. cũng đang bộc lộ khá nhiều hạn chế, trong đó trước hết là thiếu triết lý đào tạo. Triết lý đào tạo 3. Tại sao phải thay đổi triết lý đào tạo trong chính là những giá trị cốt lõi được xâu chuỗi, lĩnh vực đào tạo đại học? kết nối và đúc rút từ thực tế đào tạo, tương ứng Việt Nam là một quốc gia văn hiến, có lịch với các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội trong sử phát triển rực rỡ mấy nghìn năm. Ngay từ những không gian và thời gian nhất định. Triết thế kỷ XV, sau khi đánh đuổi quân Minh, giành lý đào tạo là những luận điểm căn cốt về đào lại độc lập cho đất nước, danh nhân văn hóa tạo, là sự cụ thể hóa phương châm đào tạo, là thế giới Nguyễn Trãi đã khẳng định trong tác mục tiêu chính cần phải đạt được trong quá phẩm nổi tiếng Bình Ngô đại cáo: 唯,我大越之 74 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  4. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN 國,實為文献之邦… Duy, ngã Đại Việt chi quốc, đào tạo đại học Việt Nam có vai trò đặc biệt thực vi văn hiến chi bang... (Như nước Đại Việt quan trọng trong việc cung cấp nguồn nhân ta, thực là một nước văn hiến...). Một trong lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Đây là bậc những nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần đào tạo có mối liên quan, xâu chuỗi và kết nối, làm nên văn hiến Việt Nam chính là những gắn chặt mối quan hệ giữa người được đào tạo thành quả rực rỡ của nền giáo dục - đào tạo và người lao động, giữa “thầy và thợ”. Chính vì trong tiến trình lịch sử. Với truyền thống “tôn nhận thức được như vậy, nhiều năm trở lại đây, sư trọng đạo”, trọng người hiền tài, hơn 500 đào tạo đại học Việt Nam đã được quan tâm năm về trước, vâng mệnh vua Lê Thánh Tông đầu tư và phát triển mạnh mẽ trên tất cả các - vị minh quân “võ công văn trị” nổi tiếng trong ngành nghề, cả về số lượng và chất lượng. Dù lịch sử dân tộc, Thân Nhân Trung (Hàn lâm viện đã đạt được nhiều thành tích to lớn nhưng đào Thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ, Quốc tử giám Tế tạo đại học Việt Nam vẫn còn bộc lộ khá nhiều tửu, Lễ bộ Thượng thư, Lại bộ Thượng thư) đã hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ viết trên tấm bia tiến sĩ đầu tiên tại Văn Miếu cũng như kỳ vọng phát triển đối với tương lai của - Quốc Tử Giám như sau: “Hiền tài là nguyên đất nước. khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước Đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, trong tiến trình CNH-HĐH, đang biến đổi và rồi xuống thấp. Vì vậy các đấng thánh đế, minh phát triển không ngừng trong quá trình hội vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân nhập, đòi hỏi rất lớn nguồn nhân lực chất lượng tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc cao. Do vậy, đào tạo đại học ở Việt Nam hiện đầu tiên. Kẻ sĩ quan hệ với quốc gia trọng đại như nay đang đứng trước những thay đổi to lớn và thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào là mạnh mẽ trên nhiều bình diện của đất nước. cùng...” (9). Như vậy, ngay từ thời phong kiến, Điều đó cũng có nghĩa là đào tạo đại học Việt việc trọng người hiền tài (trọng người tài - đức) Nam đang đứng trước những thời cơ thuận đã trở thành nền móng để xây dựng quốc gia lợi và cả những thách thức to lớn. Mặc dù triết phát triển hùng cường. Cơ sở giáo dục đào tạo lý đào tạo đại học đã được bàn đến rất nhiều cao nhất, quy mô nhất dưới thời phong kiến là trên các phương tiện truyền thông trong thời Văn miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) còn tồn tại gian vừa qua, nhưng vẫn là một vấn đề thời sự từ khi ra đời đến nay. Tại Văn miếu - Quốc Tử hiện nay. Việc thiếu triết lý đào tạo là một hạn Giám, nơi tôn vinh và thờ phụng của đạo học chế lớn, gây khó khăn cho toàn bộ nền giáo Việt Nam cùng với thành tựu của các phương dục - đào tạo Việt Nam chứ không chỉ cho đào cách dạy - học qua các thời kỳ lịch sử đã trở tạo đại học. Với đào tạo đại học, do ảnh hưởng thành hình ảnh cũng như nội hàm của nền văn của truyền thống, những năm sau khi đất nước hiến Thăng Long, văn hiến Việt Nam. Đây được thống nhất, chúng ta vẫn duy trì những hình coi là trường đại học đầu tiên của đất nước thức tuyển sinh để chọn lọc người tài thông để rồi sau đó, theo dòng lịch sử, hệ thống các qua các kỳ thi. Những người được tuyển chọn trường đại học ở Việt Nam đã phát triển với vào học ở bậc đại học về cơ bản có chất lượng quy mô ngày càng to lớn như ngày nay. Thực cao hơn so với mặt bằng chung trong xã hội. tế cho thấy, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào, Tuy nhiên, những năm gần đây, do áp lực của muốn phát triển, đều phải chú trọng đến việc yêu cầu phát triển (đất nước cần rất nhiều nhân đào tạo, bồi dưỡng nhân tài. Trong quá trình lực cho các vị trí khác nhau trong xã hội); bên đẩy nhanh CNH-HĐH ở nước ta, sự nghiệp giáo cạnh đó là trình độ quản lý chưa cao, bộ máy dục - đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học càng quản lý chưa mạnh, điều kiện và phương tiện có vai trò to lớn hơn bao giờ hết. Những năm đào tạo thiếu thốn… Cùng với nhiều nguyên qua, cũng như nhiều quốc gia Á Đông khác, nhân sâu xa nữa đã tạo ra sự mất cân đối về Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 75
  5. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU chất lượng cung - cầu trong đào tạo, khiến cho sự phát triển để có một Việt Nam văn hiến hôm đào tạo đại học ở Việt Nam có sự dịch chuyển nay. Công bằng mà nói, sự nghiệp giáo dục - ở mức độ nhất định từ đào tạo tinh hoa, đỉnh đào tạo truyền thống đã góp một phần rất lớn cao xuống đào tạo phổ cập, đại trà. Nhận thức vào quá trình kiến tạo xã hội trong tiến trình của nhiều người đối với đào tạo đại học cũng lịch sử, vào việc tài bồi nền văn hiến nước nhà. đã có sự chuyển đổi theo hướng như vậy. Đây Để có được một Việt Nam như hôm nay, công chính là nguyên nhân khiến cho quá trình đào lao của các nhà giáo dục trước đây là rất lớn. tạo đại học không có định hướng đúng, không Thực tế lịch sử cho chúng ta thấy: những bảo đảm được tính chuyên sâu và nâng cao; thành tựu to lớn của nền giáo dục phong kiến không có bước đi thích hợp. Chất lượng đào Việt Nam chủ yếu nằm trong lĩnh vực khoa học tạo đại học ở mặt bằng chung toàn xã hội xã hội, nhân văn, chưa có thành tựu về khoa cũng vì thế mà có phần xuống cấp. học tự nhiên hay kỹ thuật, công nghệ. Do vậy, Nền giáo dục cách mạng Việt Nam vốn chịu việc chỉ có chuyển giao tri thức, khi đó, có thể ảnh hưởng lớn của hệ thống giáo dục - đào tạo đáp ứng được yêu cầu xã hội; nhưng với quá Khổng giáo phương Đông. Đó là nền giáo dục trình phát triển hiện nay, yêu cầu của giáo thiên về tập hợp kiến thức “tầm chương trích dục - đào tạo đã khác trước. Truyền thống cũ cú”, tìm lại quá khứ, học từ quá khứ là chính. hoàn toàn không thể đáp ứng được những Thầy để dạy, trò để học. Trong quá trình dạy đòi hỏi mới của đất nước. Cần phải có sự thay thì thầy chuyển giao tri thức, hiểu biết của mình đổi đồng bộ, toàn diện, triệt để! Cần có cuộc cho trò, còn đối với học trò thì thu nhận là chính; cách mạng trong tư duy - ý thức hệ của những phải “sôi kinh, nấu sử”, thuộc lòng những kiến người, những tổ chức làm giáo dục - đào tạo thức mà thầy truyền cho. Đương nhiên, qua trong CMCN 4.0 hiện nay! sự trao truyền này, tất yếu, tri thức sẽ rơi rụng, 4. Những phương châm, triết lý đào tạo đại không thể nguyên vẹn. Khi thầy truyền đạt hết học ở Việt Nam hiện nay kiến thức thì cũng có nghĩa là một quá trình Mặc dù đã đạt được nhiều thành tích to lớn giáo dục bị gián đoạn, phải chuyển sang quá không thể phủ nhận nhưng đối chiếu với yêu trình khác, ở nơi khác. Trật tự Nho giáo trong cầu, nhiệm vụ của tiến trình hội nhập, thực nhiều trường hợp đã được thể hiện qua quan trạng đào tạo đại học Việt Nam đang đứng niệm cổ hủ: Trò không được phép hơn thầy! trước những khó khăn, thử thách to lớn. Bản Điều đó đã chi phối, ảnh hưởng đến sự phát tin ngày 19/1/2016 của Đại học Khoa học Xã triển của xã hội. Kết quả là, sự phát triển nhận hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã thức của xã hội cầm chừng, thậm chí có lúc còn chỉ ra một số hạn chế đó như sau: có xu hướng thụt lùi, người dạy không phát huy được sự năng động sáng tạo của người - Chưa gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với học. Trong khung cảnh ấy, muốn kết quả đào nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh tạo được tốt, người thầy luôn áp dụng phương và nhu cầu của thị trường, dẫn đến tình trạng cách: “Thứ nhất hay chữ, thứ nhì dữ đòn”; “Tiên thừa thầy, thiếu thợ... học lễ, hậu học văn” v.v. Nền giáo dục như vậy - Chưa chú trọng đúng mức đến giáo sẽ liên quan tới việc có thầy giỏi thì mới có trò dục đạo đức, nhân cách, lối sống và kỹ năng, giỏi; thầy thế nào thì trò thế ấy; người học luôn phương pháp làm việc. bị áp chế bởi “cái trần” bằng xương bằng thịt - Phương pháp đào tạo còn lạc hậu, chủ của người thầy, khó có thể “vượt trần”, khó có yếu truyền thụ kiến thức một chiều; tổ chức thể sáng tạo. Mặc dù gặp phải tình trạng như thi, kiểm tra, đánh giá kết quả còn thiếu thực vậy, nhưng lịch sử Việt Nam vẫn là lịch sử của chất, mắc bệnh thành tích. 76 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  6. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN - Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo nhiệm vụ hàng đầu, khoa học công nghệ là dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu. then chốt. Phương châm, mục tiêu của giáo - Cơ chế, chính sách, đầu tư cho giáo dục, dục - đào tạo Việt Nam trong thời gian qua đào tạo chưa phù hợp; cơ sở vật chất - kỹ thuật là: “Nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi thiếu đồng bộ, còn lạc hậu… (3). dưỡng nhân tài”. Tóm lại, chất lượng, hiệu quả đào tạo đại học Năm 2016, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, ở nước ta còn thấp so với yêu cầu của công cuộc trong vai trò phụ trách khối văn hóa xã hội, đổi mới. Những nhận xét thẳng thắn trên đây khoa học, giáo dục và đào tạo, đã phát biểu nhằm hướng tới một sự thôi thúc rằng: Đào trước Quốc hội để chia sẻ ý kiến của ông về vấn đề giáo dục: “Triết lý giáo dục của Việt Nam trước tạo đại học Việt Nam nhất thiết phải có những hết là triết lý xây dựng đất nước dân giàu nước chuyển biến, thay đổi căn bản, nhanh chóng mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là xây để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, trước hết dựng con người Việt Nam toàn diện, đức trí, thể là cần thay đổi triết lý đào tạo đại học. Trong mỹ, có tinh thần dân tộc, có lòng yêu nước và có thời gian qua, nền giáo dục - đào tạo Việt Nam trách nhiệm quốc tế”. Phó Thủ tướng cũng cho cũng tồn tại những xu hướng, phương châm biết Việt Nam thực hiện đầy đủ 5 trụ cột giáo đào tạo mang tính triết lý đào tạo sau đây: dục của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa 4.1. Những triết lý đào tạo mang tính định của Liên hợp quốc (UNESCO) bao gồm: học để hướng, phương châm biết, học để làm việc, học để chung sống, học để Trong nền giáo dục cách mạng Việt Nam, khẳng định mình, học để thay đổi bản thân và chúng ta luôn nhắc rất nhiều đến câu nói bất thay đổi thế giới tốt đẹp hơn (6). Bao trùm lên hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì hạnh phúc trên hết là mục tiêu cần đạt được của nền giáo mười năm thì phải trồng cây; Vì hạnh phúc trăm dục Việt Nam là “phấn đấu cho một nền giáo năm thì phải trồng người”. Nội dung câu nói của dục trí tuệ và nhân văn của đất nước”. Từ mục Bác như một chiến lược giáo dục và đào tạo. tiêu, định hướng lớn này, các cơ sở giáo dục - Có thể coi đây chính là triết lý đào tạo xuyên đào tạo khác nhau trên cả nước có những định suốt của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. hướng cụ thể cho quá trình đào tạo của mình. Tuy nhiên, triết lý đào tạo này cần phải được cụ Những triết lý mang tính phương châm, định thể hóa để biến thành hành động/hoạt động hướng đó đã chi phối, điều khiển sự vận hành trên các lĩnh vực đào tạo. Triết lý đào tạo luôn của bộ máy quản lý đào tạo, nền giáo dục của phải là sợi dây gắn kết đường lối chính sách đất nước trong đó có đào tạo đại học trong phát triển giáo dục, các cơ chế, biện pháp của suốt thời gian qua. các cơ sở đào tạo với thị trường, nơi mà các 4.2. Những triết lý đào tạo theo hướng doanh nghiệp sử dụng nguồn nhân lực được “triết lý tư tưởng” đào tạo ra. Thời gian vừa qua, trong nền giáo dục của Quá trình hội nhập, tiến hành CNH-HĐH đất nước đã xuất hiện nhiều phương châm, đất nước đã và đang đặt ra cho sự nghiệp giáo triết lý đào tạo đại học. Những phương châm, dục - đào tạo nhiệm vụ hết sức nặng nề. Đảng triết lý đó đã từng bước đi vào thực tế đào và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chủ trương, tạo và đạt được những thành tích nhất định. đường lối, chính sách để phát triển sự nghiệp Những triết lý đào tạo của nhiều cơ sở giáo giáo dục - đào tạo nhằm cung cấp nguồn nhân dục - đào tạo theo hướng “triết lý tư tưởng” lực chất lượng cao, phục vụ công cuộc xây như: xây dựng “Một nền giáo dục khai phóng dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những Nghị quyết (liberal education)” hay triết lý đào tạo nhấn của Đảng luôn xác định giáo dục - đào tạo là mạnh yếu tố “nhân bản, sáng tạo, hội nhập” Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 77
  7. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU của Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành mà còn đào tạo ra cả những người “thầy” có phố Hồ Chí Minh chứa đựng những tư tưởng khả năng sáng tạo, lãnh đạo, điều phối những mới về một nền giáo dục mở, tạo điều kiện tự nhóm, cộng đồng nhất định trong những do sáng tạo cho người dạy và người học. Bên không gian và thời gian nhất định. Muốn vậy cạnh đó, những triết lý giáo dục theo hướng phải có thái độ đúng đắn; kiến thức cơ bản, tư tưởng đem đến những giá trị nhân văn đầy đủ, sâu rộng; kỹ năng thành thục, thành trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực, đáp thạo… đáp ứng các yêu cầu đặt ra từ cuộc ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập. Linh sống. Bên cạnh những phương châm, triết lý hồn của các triết lý tư tưởng này luôn lấy con đào tạo theo xu hướng “triết lý tư tưởng” như người làm trung tâm; việc đào tạo hướng tới đã trình bày ở trên là những phương châm, tạo ra những con người mới đáp ứng các yêu triết lý đào tạo của nhiều cơ sở giáo dục - đào cầu của quá trình hội nhập sâu rộng của thế tạo theo xu hướng “triết lý hành động”. Đó là giới, những “chiến binh” của cuộc CMCN 4.0 các triết lý đào tạo để người học đạt được “thái hiện nay. GS.TSKH. Nguyễn Đình Đức - Trưởng độ - kiến thức - kỹ năng: attitude - knowledge - ban Đào tạo của Đại học Quốc gia Hà Nội cho skill” đúng mức trong các cơ sở đào tạo kinh biết: Triết lý đào tạo của Đại học Quốc gia Hà doanh hiện nay. Nội là “đào tạo nhân tài, đào tạo tinh hoa”. Việc Là một trong những cơ sở giáo dục - đào đào tạo chất lượng cao như vậy đã và đang tạo trình độ cao, đa ngành, đa lĩnh vực, Trường góp phần đáp ứng yêu cầu cao trước những Đại học Bách khoa Hà Nội đã đưa ra những thay đổi của thế giới trong cuộc CMCN 4.0, giá trị cốt lõi mang tư cách là triết lý đào tạo gắn với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt của nhà trường, bao gồm 5 khía cạnh: 1. Chất Nam. Nghị quyết số 04-NQ/ĐU của Đảng ủy lượng - hiệu quả. 2. Tận tụy - cống hiến. 3. Chính Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - trực - tôn trọng. 4. Tài năng cá nhân - trí tuệ tập Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh ngày thể. 5. Kế thừa - sáng tạo. Năm giá trị cốt lõi 04/12/2015 đã xác định triết lý giáo dục của này chính là những triết lý đào tạo nhằm định trường là: “Giáo dục toàn diện - Khai phóng - Đa hướng cho những hành động cụ thể mà nhà văn hóa” (Whole Person - Liberal - Multi Cultural trường hướng tới trong quá trình đào tạo của Education). Các hoạt động đào tạo của nhà mình. Trong khi đó, Đại học Ngoại thương Hà trường đều hướng tới mục tiêu như vậy. Trong Nội cũng đưa ra 5 giá trị cốt lõi của mình là: khi đó, Trường Đại học FPT lại đưa ra triết lý “Chất lượng - Hiệu quả - Uy tín - Chuyên nghiệp giáo dục: “Giáo dục đào tạo là tổ chức và quản trị - Hiện đại”. Cả năm giá trị cốt lõi của hai trường việc tự học của người học”. Từ triết lý này, trường đại học nổi tiếng của nước ta đều đã trở thành đã tổ chức để sinh viên phát huy vai trò tự chủ, những triết lý đào tạo; góp phần tạo nên sáng tạo trong việc tự học đồng thời gắn chặt chất lượng và hiệu quả đào tạo. Thực hiện tốt việc đào tạo với các doanh nghiệp, liên kết với những triết lý hành động như vậy tức là đã tạo các doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, triển ra những giá trị cốt lõi và góp phần tích cực, khai các tiến bộ của khoa học và công nghệ chủ động trong tiến trình hội nhập, trong cuộc hiện đại vào quá trình đào tạo nhân lực… CMCN 4.0 của đất nước. 4.3. Những triết lý đào tạo theo hướng Nhìn từ góc độ đổi mới, đáp ứng yêu cầu “triết lý hành động” của quá trình đào tạo đại học trong sự nghiệp Đào tạo đại học là cấp đào tạo tiệm cận CNH-HĐH đất nước, theo chúng tôi, hiện nay với đời sống kinh tế - xã hội; đào tạo ra những cần phải triển khai các triết lý đào tạo mang người trực tiếp làm ra các của cải vật chất cho xã tính hành động. Triết lý đó là “Thay đổi tư duy - hội. Đào tạo đại học không chỉ đào tạo ra “thợ” khơi nguồn sáng tạo” cho cả người dạy, người 78 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  8. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN học và người đảm bảo, phục vụ giáo dục đào mới của nền giáo dục nước nhà “dạy người, tạo trong những không gian và thời gian tương dạy chữ, dạy nghề” (4). Xuất phát từ triết lý đào ứng. Để thực hiện được triết lý này, cần đổi mới tạo cũng đồng thời là mục tiêu, định hướng căn bản phương cách đào tạo đại học, thay đổi đào tạo đại học trong cuộc CMCN 4.0 là: “Thay nội dung và phương pháp đào tạo từ quá trình đổi tư duy - khơi nguồn sáng tạo” sẽ tạo ra sự chuyển giao tri thức sang quá trình phát triển thay đổi căn bản trong tư duy và hành động năng lực sáng tạo của người học. Triết lý đào tạo của cả người dạy, người học và người đảm bảo đại học ở đây là triết lý hành động, biến những phục vụ. Trong quan niệm của những người mong muốn, yêu cầu đối với sự nghiệp đào thầy, cần có sự đồng thuận để hành động tạo đại học thành nhiệm vụ, giải pháp cụ thể. hướng tới mục tiêu như cố Giáo sư Trần Quốc Cái đích của sự nghiệp đào tạo đại học ở Việt Vượng đã nói: “Trò hơn thầy, phúc nước càng Nam là đào tạo ra đội ngũ nhân lực trình độ dầy!”. Để triển khai triết lý đào tạo đại học vào đại học có tư duy mới, có óc sáng tạo và năng lực cuộc sống, cần phải có những giải pháp cụ thể hành động tương ứng với những ngành nghề để chuyển hướng mô hình đào tạo, từ mô hình cụ thể. Người được đào tạo sẽ trở thành một truyền thống: “Chuyển giao tri thức” cho người mẫu hình hành động đạt chuẩn nghề nghiệp học, sang mô hình mới: “Phát triển năng lực thay vì một “cái kho” chứa kiến thức thuần túy. sáng tạo” của người học. Người được đào tạo phải là người được tích Sở dĩ chúng ta phải quyết liệt chuyển đổi hợp hệ thống tri thức của nhân loại, phát triển mô hình đào tạo vì trong CMCN 4.0 hiện nay thành những kỹ năng nghề nghiệp mới, nâng khoa học công nghệ hiện đại phát triển như cao năng lực sáng tạo, nâng tầm cho tri thức vũ bão, tri thức xã hội và tri thức của mỗi cá và kỹ năng lên một tầm cao mới bằng chính nhân cũng thay đổi không ngừng. Muốn tiếp sự tích hợp thành quả của quá khứ và năng lực thu cái mới cần thay đổi tư duy cũ, đi cùng với sáng tạo đương đại để đáp ứng các yêu cầu đó là phát triển năng lực sáng tạo; không tiếp của tương lai! thu bị động, dập khuôn máy móc; biến thành 5. Những giải pháp căn bản để thực hiện quả của loài người thành trí tuệ của mỗi người triết lý đào tạo đại học hiện nay để tiếp tục phát triển sáng tạo trở thành tài Từ yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và quá sản của đất nước. Tư duy sáng tạo là tài sản trình CNH-HĐH đất nước, Đảng ta không vô giá của mỗi chúng ta, không thể đo đếm ngừng quan tâm đến giáo dục - đào tạo. Nghị được, cần được phát triển sáng tạo không quyết số 29/NQ-TW ngày 4/11/2013 của Hội ngừng. Do vậy đào tạo đại học phải kết hợp nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, cả hai quá trình “chuyển giao tri thức” và “phát toàn diện giáo dục và đào tạo đã khẳng định: triển năng lực sáng tạo”, trong đó “phát triển Đây không chỉ là quốc sách hàng đầu, là “chìa năng lực sáng tạo” giữ vai trò quyết định. Năng khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên lực là phẩm chất, trình độ, khả năng của mỗi phía trước mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc người để có thể giải quyết được những yêu sống (2). Kế thừa Nghị quyết của Đại hội XI, cầu đặt ra từ cuộc sống. Đất nước luôn phát trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng cũng đã đưa triển không ngừng, cho nên năng lực của mỗi ra đường lối đổi mới căn bản, toàn diện giáo cá nhân cũng cần được phát triển đi trước một dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; xác bước nhằm làm tăng khả năng giải quyết của định đây là quốc sách hàng đầu, tiêu điểm của toàn xã hội trước những vấn đề đặt ra của cuộc sự phát triển, mang tính đột phá, khai mở con sống trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hóa. đường phát triển nguồn nhân lực Việt Nam Muốn phát triển năng lực cá nhân, cần phải trong thế kỷ XXI, khẳng định triết lý nhân sinh tiến hành đồng bộ các giải pháp. Trước hết cần Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 79
  9. VĂN HÓA NGHIÊN CỨU kiểm tra, phân loại năng lực, đánh giá khả năng kỹ thuật để đẩy nhanh thực nghiệm; đưa các phát triển năng lực, thiên hướng năng lực, xác ý tưởng sáng tạo vào kiểm chứng bằng thực định lộ trình với những phương pháp phù nghiệm chứ không chỉ dừng lại ở lý thuyết. hợp đối với việc phát triển năng lực của mỗi Mọi ý tưởng sẽ càng được nâng cao khi nó trở cá nhân cụ thể để từ đó từng bước thực hiện. thành hiện thực. Khi được kiểm chứng bằng Kiểm tra, đánh giá đúng năng lực là công việc hiện thực, trở thành hiện thực, ý tưởng sẽ là đầu tiên giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với công cụ hữu hiệu nhất để thúc đẩy sự phát triển việc bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo. năng lực tư duy và năng lực hành động tiếp Nếu không đánh giá đúng năng lực, chúng ta theo. Tóm lại, muốn phát triển năng lực, người sẽ không có giải pháp thích hợp cho sự phát học cần có “ý tưởng” và “ý chí”: Ý tưởng phải triển năng lực của người học. Muốn đánh giá sáng tạo và ý chí phải quyết tâm. Chỉ khi mọi năng lực người học, cơ sở đào tạo cần phải tổ yếu tố, điều kiện cho phép người ta đạt được chức các cuộc kiểm tra mà nội dung kiểm tra sáng tạo và xác định rõ quyết tâm thì năng lực phải bao gồm cả hiểu biết - tư duy - kỹ năng của của mỗi người mới thực sự được phát huy. Mọi người học. Để làm được điều này, cơ sở đào tạo nỗ lực, cố gắng trong nâng cao chất lượng đào có thể áp dụng các hình thức thi trắc nghiệm, tạo đại học ở Việt Nam cần được bắt đầu bằng thi tự luận và thi thực hành, thi ý tưởng sáng giải pháp nêu trên để tạo ra sự chuyển biến từ tạo… mà nội dung của các môn thi luôn gắn “chuyển giao tri thức” sang “phát triển năng lực với các vấn đề của thực tế xã hội. sáng tạo” mà nội dung chính là xây dựng và Sau khi đánh giá, phân loại, các đối tượng củng cố ý chí, quyết tâm để thực hiện thành cần được phân chia theo các lớp chuyên công các ý tưởng sáng tạo. Chỉ khi đó, giáo dục ngành sao cho các học viên có năng lực tương - đào tạo ở Việt Nam mới đáp ứng được yêu thích sẽ được ghép học chung với nhau trong cầu của quá trình đổi mới, hội nhập, CNH-HĐH môi trường đồng nhất. Trong quá trình đào tạo đất nước. Đó cũng là một trong những bước đại học, các nội dung truyền tải của giáo viên đi quyết định trong quá trình xây dựng triết lý phải được phát triển từ thấp đến cao qua ba đào tạo ở Việt Nam hiện nay. giai đoạn: Chuyển tải kiến thức - Phát triển kỹ Kết luận năng - Định hướng và phát triển năng lực sáng Trong cuộc cách CMCN 4.0 hiện nay, giáo tạo người học. Để làm tốt điều này, người thầy dục - đào tạo nói chung, đào tạo đại học nói cần phải tạo ra môi trường tự do sáng tạo cho riêng, có ý nghĩa quyết định sự phát triển kinh người học. Thay vì ấn định những “khuôn vàng tế, chính trị - xã hội của đất nước. Sự phát triển thước ngọc”, giáo viên sẽ cung cấp công cụ của đất nước phụ thuộc rất nhiều vào chất tìm kiếm thông tin, trao cho người học những lượng nguồn nhân lực. Thực tế đào tạo đại học dữ liệu, khuyến khích, gợi mở sự sáng tạo của ở Việt Nam cho thấy những khó khăn như đã người học; đánh giá nhận xét một cách khách nêu trên mang tính phổ quát và rất cần được quan, chỉ ra cái được và chưa được của người thay đổi. Việc nhìn nhận theo xu hướng đánh học; khen ngợi/khen thưởng và tiếp tục yêu giá khó khăn và đề xuất giải pháp khắc phục cầu phát triển sáng tạo tiếp đối với người học cụ thể như trên là một cách tiếp cận thực tế lên những đỉnh cao/tầm cao mới. để nhận diện đúng bản chất của đối tượng, từ Muốn phát triển năng lực, cần rèn luyện đó có những bước đi và biện pháp phù hợp năng lực tư duy cũng như năng lực hành động với khả năng và điều kiện cho phép. Trong các của người học thông qua các tình huống giả giải pháp đó, việc xây dựng nền giáo dục khai thuyết; đồng thời nhất thiết phải bổ sung phóng bắt đầu bằng những thay đổi trong tư công cụ, phương tiện, trang thiết bị vật chất duy để xây dựng các phương châm, triết lý 80 Số 27 - Tháng 3 - 2019
  10. Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm thành lập Trường ĐHVHHN đào tạo giữ vai trò quyết định. Trong các triết 5. Bùi Thị Ngọc Lan (2017), Cách mạng công lý đào tạo đại học hiện nay, việc “Thay đổi tư nghiệp lần thứ tư và một số vấn đề đặt ra với Việt duy - Khơi nguồn sáng tạo” để chuyển đổi từ Nam, Tạp chí Tài chính, http://tapchitaichinh.vn/ quá trình “chuyển giao tri thức” sang quá trình nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/cach- “phát triển năng lực sáng tạo” thực sự là giải mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-va-mot-so-van- pháp mang tính quyết định để đổi mới căn de-dat-ra-voi-viet-nam-129515.html bản, toàn diện giáo dục - đào tạo nhằm phát 6. Thùy Linh (2016), Triết lý giáo dục Việt Nam triển nguồn nhân lực Việt Nam có chất lượng qua phân tích của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, cao trong thời kỳ hiện nay. Chúng ta có quyền http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Triet-ly- tin tưởng và kỳ vọng rằng giáo dục - đào tạo giao-duc-Viet-Nam-qua-phan-tich-cua-Pho- nói chung và đào tạo đại học ở Việt Nam nói Thu-tuong-Vu-Duc-Dam-post172529.gd riêng sẽ có những chuyển biến nhanh chóng 7. Dương Văn Sáu (2018), Xây dựng triết lý và mạnh mẽ trong một nền giáo dục khai đào tạo đại học, góp phần thay đổi căn bản giáo phóng, đáp ứng các yêu cầu hội nhập của dục đại học ở Việt Nam hiện nay, in trong kỷ yếu quá trình CNH-HĐH đất nước trong CMCN 4.0, Hội thảo quốc gia “Đổi mới căn bản và toàn diện tương xứng với tiềm năng, vị thế và kỳ vọng hoạt động đào tạo trong các trường đại học và của dân tộc. cao đẳng”, Nxb. Đà Nẵng. D.V.S 8. Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/ (PGS.TS, Trưởng khoa Du lịch, CT-TTg ngày 04 tháng 05 năm 2017 về việc tăng Trường ĐHVHHN) cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Tài liệu tham khảo 9. Trung tâm UNESCO Thông tin tư liệu lịch 1. Chu Ngọc Anh (2018), Cách mạng công sử - văn hóa Việt Nam, Bảo tàng tỉnh Bắc Giang nghiệp lần thứ tư - Cần tầm nhìn chiến lược và (1999), Hiền tài là nguyên khí quốc gia, kỷ niệm hành động quyết liệt, https://dantri.com.vn/ lần thứ 500 năm mất của Thân Nhân Trung (1449 dien-dan/cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu- - 1999). can-tam-nhin-chien-luoc-va-hanh-dong-quyet- liet-20180809223409629.htm Ngày nhận bài: 26 - 11 - 2018 2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013), Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 3 - 2019 Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm Ngày chấp nhận đăng: 20 - 3 - 2019 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 3. Đại hội Đảng XII và định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, bản tin của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, http://www.ussh.vnu.edu.vn/d6/vi-VN/news/ Dai-hoi-Dang-XII-va-dinh-huong-doi-moi-can- ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-va-phat-trien- nguon-nhan-luc-1-796-13338. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội. Số 27 - Tháng 3 - 2019 VĂN HÓA NGHIÊN CỨU 81
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2