Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II<br />
<br />
TRUYỆN KIỀU - MỘT HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI TỪ THI<br />
PHÁP HỌC<br />
Ths. Nguyễn Thị Hoa<br />
Trường Đại học Thăng Long<br />
Tóm tắt: Trong việc nghiên cứu phê bình Truyện Kiều (Nguyễn Du) - đỉnh cao của<br />
nền văn học dân tộc, một trong những kiệt tác của văn học nhân loại, chúng ta thấy xuất hiện<br />
những tên tuổi Việt Nam lớn như Đào Duy Anh, Trương Tửu, Phan Ngọc… với những<br />
phương pháp tiếp cận khác nhau. Với lối tiếp cận thi pháp học, khác với những người khác,<br />
Trần Đình Sử trong khi xem xét các tác phẩm văn học như một cấu trúc nghệ thuật và hệ<br />
thống các hệ thống thủ pháp nghệ thuật đã đưa ra một cách nhìn mới, chỉ rõ bản chất sáng<br />
tạo của Truyện Kiều, từ đấy cá tính sáng tạo của Nguyễn Du được phát lộ. Trong những<br />
nghiên cứu trước đây Truyện Kiều chỉ được so sánh với Kim Vân Kiều Truyện của Thanh<br />
Tâm Tài nhân. Đến Trần Đình Sử, biên độ so sánh này được mở rộng ra trên những thang độ<br />
khác nhau: Một mặt, Truyện Kiều được so sánh với Kim Vân Kiều Truyện trong không gian<br />
văn hóa và văn học Việt Nam cũng như trong không gian văn hóa và văn học Trung Quốc;<br />
mặt khác nó cũng được tương phản với các tác phẩm ngâm khúc và truyện Nôm trước nó và<br />
sau nó. Qua cách tiếp cận này, Truyện Kiều hiện ra như một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn,<br />
một sản phẩm sáng tạo của chủ thể. Từ đấy trình độ nhận thức các giá trị Truyện Kiều được<br />
nâng lên ở một tầm mới. Và đây chính là đóng góp mới của Trần Đình Sử đối với công cuộc<br />
nghiên cứu Truyện Kiều ở Việt Nam.<br />
1. Truyện Kiều trong một số cách tiếp nhận<br />
Đào Duy Anh với cuốn Khảo luận về “Truyện Thúy Kiều ” có thể được xem là người<br />
đầu tiên nghiên cứu Truyện Kiều một cách khá toàn diện. Ông nghiên cứu bắt đầu từ tiểu sử<br />
Nguyễn Du đến lai lịch Đoạn trường tân thanh, so sánh Kim Vân Kiều truyện với Đoạn<br />
trường tân thanh từ đó nêu lên giá trị văn chương của Truyện Kiều. Trong cuốn sách này, ông<br />
đã đưa ra được một số vấn đề mới quan trọng về Truyện Kiều. Trước hết là ông đặt lại vấn đề<br />
thời điểm sáng tác Truyện Kiều. Đặc biệt ông đã so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều<br />
truyện bắt đầu từ nội dung: “Sau khi xét qua nội dung sách Đoạn trường tân thanh và so<br />
sánh với sách Kim Vân Kiều truyện , ta nhận thấy đại khái Nguyễn Du giữ đúng sự tích và<br />
tầng thứ của nguyên văn, có nhiều chỗ Nguyễn Du lại dịch sát nguyên văn, không lìa một<br />
chữ.” Nhưng đồng thời ông cũng nêu thêm những nhận định mới như: “ Phải nhận rằng<br />
Nguyễn Du đã hoán cốt đoạt thai Kim Vân Kiều truyện mà tạo thành một tác phẩm hoàn toàn<br />
mới. Nguyên văn thì tự thuật rất tỷ mỷ mà khô khan, chú ý đến những chi tiết không quan hệ<br />
và hay tả thực những cảnh tượng dễ kích động tai mắt người ta. Nguyễn Du thì tự sự rất vắn<br />
tắt, gọn gàng, chỉ kể những việc quan trọng, mà vừa tự thuật vừa nghị luận, khiến văn có<br />
hứng thú luôn. Nguyễn Du tuy không tả thực, nhưng lại là một tay tâm lý học sành sỏi…”<br />
[Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới thiệu), Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo<br />
dục, 2008]. Đây là nhận định khá mới mẻ và đã gợi hướng mới cho nhiều người sau. Tuy<br />
nhiên khi bàn về nghệ thuật và giá trị văn chương thì nhiều điểm cũng lặp lại người xưa và đi<br />
theo cái mạch: “tả người, tả cảnh, tả tình, tự thuật, đối thoại, chuyển mạch, cách dùng lời,<br />
dùng tiếng.” Chẳng hạn ông viết “ Vô luận là tả người, tả cảnh, tả tình, Nguyễn Du khéo chọn<br />
những chữ có nhịp điệu thích đáng nhất, có thể gây trong tâm hồn người đọc những rung<br />
<br />
Trường Đại học Thăng Long<br />
<br />
279<br />
<br />
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II<br />
<br />
động đặc biệt, khiến người đọc có thể thấy người, thấy cảnh, hay cảm động thiết tha, như<br />
chính người trong cuộc vậy. Khi tả ý thì những chữ thích đáng khiến ta đã nhận đúng đắn mà<br />
còn tưởng tượng được thêm bao nhiêu ý tứ ở ngoài lời” [Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới<br />
thiệu), Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2008]. Hay như có đoạn viết: “ Ta<br />
thấy trong cách dùng tỷ dụ, điển cố, thành ngữ, tục ngữ, Nguyễn Du có cái tài biến hóa những<br />
chữ cũ rích thành mới mẻ tươi tắn. Nguyễn Du lại còn có cái tài biến hóa những chữ tầm<br />
thường và thô tục thành ra thú vị, hay thanh tao nữa...”[ Trịnh Bá Đĩnh (tuyển chọn và giới<br />
thiệu), Nguyễn Du, về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2008].<br />
Mặc dù vẫn đi theo lối phê bình truyền thống của người xưa nhưng Đào Duy Anh<br />
cũng đã có nhiều phát hiện có giá trị về Truyện Kiều. Đặc biệt, ông đề ra khái niệm “tâm sự”<br />
Nguyễn Du như một chìa khóa để hiểu động cơ sáng tác cũng như nội dung Truyện Kiều. Có<br />
thể nói, đi tìm tâm sự Nguyễn Du, tâm sự hoài Lê ở Truyện Kiều là một xu hướng nghiên cứu<br />
thu hút được nhiều người đi theo, tạo thành một khuynh hướng lớn.<br />
Một cách tiếp cận Truyện Kiều khác cũng gây được sự chú ý của dư luận là của<br />
Trương Tửu với cuốn Nguyễn Du và Truyện Kiều. Đây có thể nói là một bước chuyển đáng<br />
chú ý trong nghiên cứu phê bình Truyện Kiều từ cách phê bình điểm, trực giác sang phương<br />
pháp phân tích khoa học. Theo Trương Tửu: “Bổn phận nhà phê bình không phải chỉ tìm ra<br />
tâm sự nhà văn trong tác phẩm văn chương. Nhà phê bình cần phải tìm hiểu đến cá tính nhà<br />
văn - vì cái này mới là tất cả nhà văn. Cái này mới thành thực, không bị che đậy hoặc xuyên<br />
tạc được. Nó là cái phần sâu thẳm nhất, tiềm tàng nhất, mạnh mẽ nhất của cơ thể, của khối óc,<br />
của tâm hồn. Cá tính đó mới là cái phần cống hiến riêng của nhà văn đem dâng trong linh từ<br />
văn học”[Trương Tửu, Nguyễn Du và Truyện Kiều, Hàn Thuyên, 1942]. Để tìm hiểu cá tính<br />
của Nguyễn Du, Trương Tửu tìm hiểu thông qua huyết thống, quê hương và thời đại mà<br />
Nguyễn Du sống. Mang trong mình dòng máu của một dòng họ nho sĩ thư lại có tài văn<br />
chương, được sự bồi đắp của vùng đất Nghệ anh hùng và đất mẹ - vùng quê văn hóa Kinh<br />
Bắc, lại sống trong một thời đại rối ren nhiều biến động... tất cả những điều ấy đã tác động rất<br />
lớn đến Nguyễn Du. Tuy nhiên, sự tác động ấy lại không phải là tác động đến nhà thơ ở các<br />
phần nổi của nó, mà là phần chìm, hay đúng hơn là cái phần chìm đó “kết tinh, ngưng kết<br />
thành cá tính Nguyễn Du”. Cũng theo Trương Tửu, con người đích thực của Nguyễn Du, con<br />
người Nguyễn Du trong Nguyễn Du không phải chỉ là con người xã hội đã nặng mang tâm sự<br />
hoài Lê mà đúng hơn là “ kẻ mang tâm bệnh”. Đặc biệt là cái bệnh đa sầu đa cảm ở Nguyễn<br />
Du. Từ đó, Trương Tửu kết luận Truyện Kiều của Nguyễn Du là kết quả của những “ảo giác”:<br />
“ Ta có thể nói rằng vai chính trong truyện không phải là Thúy Kiều, không phải là Kim<br />
Trọng, không phải là Thúc Sinh, Từ Hải... không, vai chính không phải là những người còn<br />
đang sống ấy. Vai chính chỉ là một oan hồn vất vưởng dưới âm ty, của một con ma hiện lên<br />
trong các giấc mơ, bên giường bệnh... vai chính của Truyện là Đạm Tiên”[ Trương Tửu,<br />
Nguyễn Du và Truyện Kiều, Hàn Thuyên, 1942].<br />
Từ tất cả những yếu tố ấy, Trương Tửu đi đến kết luận: “ Ngần ấy yếu tố sinh lý và<br />
tâm lý đã tạo nên cá tính Nguyễn Du. Trong đời sống thì cá tính ấy là một tính lãng mạn,<br />
trầm muộn, thích cô liêu, thèm an nhàn, mộng mị, ghét những hoàn cảnh mới lạ. Trong văn<br />
chương thì nó là sự rung động thành thực và mãnh liệt, sự tưởng tượng dồi dào, sự cảm xúc<br />
ủy mị và bi thương, sự cảm thông với đồng loại đau khổ và thần linh”. Và do đó ‘Truyện<br />
Kiều đã kết tinh được cá tính ấy một cách hoàn thiện cũng như nó đã kết tinh được đẳng cấp<br />
<br />
Trường Đại học Thăng Long<br />
<br />
280<br />
<br />
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II<br />
<br />
tính Nguyên Du và phản chiếu đầy đủ xã hội đương thời với Nguyễn Du - một xã hội ốm,<br />
một đẳng cấp ốm, một cá tính ốm - tất cả Truyện Kiều là ở đó” [Trương Tửu, Nguyễn Du và<br />
Truyện Kiều, Hàn Thuyên, 1942].<br />
Ngoài ra trong phần “ Truyện Kiều”, Trương Tửu còn lần lượt xem xét, nghiên cứu<br />
tâm lý và hành vi từng vai trò quan hệ trong truyện để xem mỗi nhân vật ấy đã phản chiếu cá<br />
tính Nguyễn Du ở khía cạnh nào, với những màu sắc đặc biệt nào...<br />
Có thể nói với Nguyễn Du và Truyện Kiều của Trương Tửu, nghiên cứu phê bình<br />
Truyện Kiều nói riêng và nghiên cứu phê bình văn học nói chung đã đạt được một cột mốc<br />
mới. Bởi lẽ “ Từ tâm sự đến cá tính là hành trình từ con người xã hội, bề mặt đến con người<br />
tâm lí, bề sâu, từ con người hữu thức đến con người tiềm thức. Với khái niệm - chìa khóa cá<br />
tính Nguyễn Du, một mặt, nhà phê bình Trương Tửu đã lý giải được những động lực sáng tác,<br />
một thứ tâm lí học sáng tạo ở nhà thơ, mặt khác, phát hiện soi sáng một cách khoa học, khách<br />
quan những đặc sắc nghệ thuật ở Truyện Kiều” (Đỗ Lai Thúy).<br />
Mặc dù đóng góp của Trương Tửu ở phương diện phương pháp nghiên cứu là rất lớn<br />
nhưng trong công trình của mình, Trương Tửu nghiêng hẳn về nghiên cứu bệnh lý nên không<br />
tránh khỏi suy diễn, máy móc, áp đặt. Do đó, mặc dù, ông đã nêu được phần nào phẩm chất<br />
thẩm mĩ của Truyện Kiều và giá trị nghệ thuật của nó nhưng vẫn còn lệch lạc, phiến diện.<br />
Một bước tiến mới trong nghiên cứu phê bình Truyện Kiều theo một quan niệm mới<br />
được đánh dấu bằng công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”(1985,)<br />
của Phan Ngọc. Thành công của Phan Ngọc là đã xem xét Truyện Kiều của Nguyễn Du như<br />
một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn trên cở sở lối tiếp cận “thao tác luận”. Ông đã thực hiện<br />
một loạt những đối lập Truyện Kiều với tất cả những gì liên quan đến Truyện Kiều trước đó<br />
để tìm ra bước đổi mới của Nguyễn Du. Trước hết là đối lập với Kim Vân Kiều truyện của<br />
Thanh Tâm Tài Nhân để chứng minh rằng tư tưởng tài mệnh tương đố là của riêng Nguyễn<br />
Du. Bởi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xóa bỏ cái chủ đề tình và khổ của Thanh Tâm Tài<br />
Nhân để thay vào đó triết lý tài mệnh tương đố. Cũng đối lập với Kim Vân Kiều truyện , Phan<br />
Ngọc đã làm nổi bật phương pháp tự sự của Truyện Kiều bằng các biện pháp như gạt bỏ âm<br />
mưu, lập hồ sơ, rút gọn sự việc... đây là những nhận xét rất đúng, rất tinh tế của Phan Ngọc.<br />
Đối lập với các truyện Nôm trước đó, Phan Ngọc đã đi sâu vào những cống hiến mới của<br />
Nguyễn Du như bố cục Truyện Kiều theo yêu cầu của kịch, xuất hiện ngôn ngữ tác giả, ngôn<br />
ngữ nhân vật, xuất hiện nhân vật “ngồi một mình”, phương pháp phân tích tâm lý tàn nhẫn...<br />
để từ đó đi đến kết luận Truyện Kiều là một cuốn tiểu thuyết tâm lý. Đây quả thực là những<br />
vấn đề hết sức mới mẻ trong Truyện Kiều mà Phan Ngọc là người đầu tiên đề cập đến. Cũng<br />
bằng những đối lập mà Phan Ngọc đã tìm thấy những đặc sắc độc đáo của Nguyễn Du trong<br />
kiến trúc câu thơ, trong ngôn ngữ, trong ngữ pháp. Từ đó Phan Ngọc đi đến khẳng định<br />
Truyện Kiều là một sáng tạo nghệ thuật mới mẻ với những nguyên tắc sáng tạo riêng, chưa<br />
từng có trong truyền thống nghệ thuật của Trung Quốc và cả của Việt Nam. Có thể nói phê<br />
bình phong cách học đã giúp Phan Ngọc phát hiện ra những điều chưa từng được nói đến ở<br />
các nhà nghiên cứu trước đó về Truyện Kiều. Nhưng theo Trần Đình sử, “quan niệm xem<br />
phong cách chỉ như một lựa chọn chưa cho phép thấy hết sự sáng tạo của Nguyễn Du và mặt<br />
khác, sự khái quát của tác giả nhiều chỗ vượt quá yêu cầu chừng mực của những kết luận<br />
khoa học”.<br />
<br />
Trường Đại học Thăng Long<br />
<br />
281<br />
<br />
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II<br />
<br />
2. Thi pháp Truyện Kiều<br />
Một mặt đã tiếp thu tất cả những thành tựu của người đi trước, mặt khác, bằng công<br />
cụ mới là thi pháp học, Trần Đình Sử đã nghiên cứu Truyện Kiều trước hết và chủ yếu ở<br />
phương diện hình thức có tính quan niệm, tức nghệ thuật.<br />
Với Truyện Kiều, theo Trần Đình Sử: “chỉ có khám phá về mặt thi pháp thì mới có thể<br />
vạch ra thực chất sáng tạo của Nguyễn Du trong một tác phẩm mà bề ngoài có vẻ như là<br />
phiên dịch, phỏng tác, chuyển thể... Và cũng chỉ có qua nghiên cứu thi pháp mới có thể xác<br />
định cụ thể vai trò, địa vị của tác phẩm Truyện Kiều trên tiến trình văn học cổ điển Việt Nam.<br />
Vai trò tổng kết tập đại thành của nó và ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sau”[Nguyễn<br />
Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi<br />
pháp học, 2000]. Đồng thời, bằng cách tiếp cận của thi pháp học hiện đại, Trần Đình sử đã<br />
thổi một luồng gió mới trong cách tiếp nhận Truyện Kiều.<br />
Nghiên cứu tìm hiểu Truyện Kiều, Trần Đình sử đã xem Truyện Kiều như một đối<br />
tượng của văn học so sánh. Thực ra trước đây, các tác giả Đào Duy Anh, Phan Ngọc cũng đã<br />
có ý thức đặt Truyện Kiều trong mối quan hệ so sánh với Kim Vân Kiều truyện nhưng đó là<br />
cái nhìn chưa thực sự toàn vẹn và hoàn chỉnh. Với Thi pháp Truyện Kiều, một mặt Trần Đình<br />
sử đã so sánh Truyện Kiều với văn hóa, văn học Trung Quốc. Đây là một việc làm có ý nghĩa<br />
quan trọng đặc biệt do mối quan hệ văn hóa lâu đời của hai dân tộc. Tuy nhiên so sánh nghiên<br />
cứu Truyện Kiều hôm nay không thể đóng khung trong phạm vi so sánh tay đôi giữa hai tác<br />
phẩm Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện . Vì thế Trần Đình sử đã xem xét Truyện Kiều<br />
trong mối quan hệ với đạo Phật, Truyện Kiều trong mối quan hộ với Nho giáo, Truyện Kiều<br />
với tiểu thuyết tài tử giai nhân, Truyện Kiều trong mối quan hệ với thơ ca cổ điển Trung<br />
Quốc, ở đây, Trần Đình Sử cũng đã đặc biệt chú ý so sánh Truyện Kiều với Kim Vân Kiều<br />
truyện . Đây là sự so sánh có ý nghĩa trực tiếp bởi Nguyễn Du đã vay mượn cốt truyện, nhân<br />
vật, tình tiết của nó. Từ chỗ so sánh về chủ đề, về cốt truyện, nhân vật, phong cách học Trần<br />
Đình sử đã chỉ ra rằng Truyện Kiều không hề đơn giản là tác phẩm vay mượn mà “là sản<br />
phẩm của đời sống tinh thần Việt Nam, là kết quả lôgich của quá trình văn học Việt Nam, sự<br />
phát triển nội tại của nhận thức đời sống, của tiếng Việt nghệ thuật, sự chín muồi về thể thơ<br />
lục bát và truyện thơ Nôm”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB<br />
Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000].<br />
Mặt khác, Trần Đình sử cũng xem xét Truyện Kiều với văn hóa, văn học Việt Nam,<br />
đặt Truyện Kiều trong mối quan hệ với ngâm khúc và thơ Nôm, những thể loại văn học<br />
truyền thống của dân tộc. Về điểm này, Phan Ngọc là người đầu tiên nêu lên ảnh hưởng của<br />
thể thơ song thất lục bát đối với Truyện Kiều, tuy vậy ông thiên về nhận định nhiều hơn là<br />
chứng minh. Đồng thời chỉ nêu mỗi ảnh hưởng của thể thơ song thất lục bát thì e rằng là còn<br />
chưa thấy hết sự tổng hợp và kết tinh các sáng tác trước Truyện Kiều để đạt đến đỉnh cao. Với<br />
Trần Đình Sử, có lẽ ông hơn hẳn những người đi trước, bởi ông đã biết đặt Truyện Kiều trong<br />
dòng chảy của văn học Việt Nam: “ở đây có vấn đề thể loại truyện Nôm trước Truyện Kiều,<br />
những tiền đề nghệ thuật để có bước nhảy vọt về chất ở Truyện Kiều. Ở đây có vai trò của thể<br />
ngâm, không phải chỉ là thể song thất lục bát, mà chính là lời văn vừa tự sự vừa trữ tình của<br />
nó (tự tình), ở đây có đặc điểm của Hoa Tiên trong việc tiếp nhận một ca bản, vừa có yếu tố<br />
tự sự, vừa có yếu tố trữ tình. Và hơn nữa, các sáng tác trước Truyện Kiều đã tạo ra những<br />
dòng cảm hứng văn học , mà theo văn mạch ấy Truyện Kiều đã đạt được đỉnh cao. Truyện<br />
Trường Đại học Thăng Long<br />
<br />
282<br />
<br />
Kỷ yếu công trình khoa học 2014 – Phần II<br />
<br />
Kiều đã được chuẩn bị trước về cấu trúc tự sự và giọng điệu, đến lượt mình Nguyễn Du đã<br />
tạo ra một chất lượng mới về mọi mặt”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình<br />
Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000]. Xét về nội dung, Truyện<br />
Kiều đã tiếp tục những vấn đề của ngâm khúc và truyện Nôm trước đó để thực sự đạt được<br />
đỉnh cao của thể loại truyện Nôm. Xét về hình thức, Truyện Kiều đã phát triển những nét mới<br />
trong thi pháp truyện Nôm và ngâm khúc lên một trình độ cao chưa từng có. (Truyện Kiều là<br />
sự kết tinh kỳ diệu các thành tựu nghệ thuật văn học tiếng Việt của thời đại Nguyễn<br />
Du”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những<br />
công trình thi pháp học, 2000].<br />
Tiếp đến, Trần Đình sử đi sâu tìm hiểu, khám phá thế giới nghệ thuật của Truyện<br />
Kiều. Với ông, sáng tạo của Nguyễn Du bắt đầu là từ chủ đề tư tưởng mới. Trước đây, Phan<br />
Ngọc đã từng chỉ ra rằng về mặt tư tưởng, “tài mệnh tương đố” là sáng tạo của Nguyễn Du,<br />
không phải vay mượn. Đó là một khám phá mới, hết sức thú vị. Nhưng theo Trần Đình Sử “<br />
bảo rằng tài mệnh tương đố là chủ đề của Truyện Kiều thì chủ đề này không thể có tính phổ<br />
quát được, bởi vì không phải ai ai cũng có tài[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần<br />
Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000]. Vì thế “chủ đề cơ bản<br />
của Truyện Kiều là thân mệnh tương đố và đó là sự phản ánh tình trạng khổ nạn sâu nặng,<br />
phổ biến của kiếp người mà Nguyễn Du đã trông thấy và thể nghiệm”[Nguyễn Đăng Điệp<br />
(biên soạn) Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học,<br />
2000]. Đây là một phát hiện độc đáo và khá chính xác của Trần Đình Sử. Bởi, đặt chữ thân<br />
này vào thời đại Nguyễn Du ta sẽ thấy có một dòng chảy của chủ nghĩa nhân đạo Ìấy chữ<br />
thân làm nền tảng mà Truyện Kiều là đỉnh cao.<br />
Một điểm sáng tạo nữa của Nguyễn Du là ở chỗ, vay mượn hệ thống nhân vật và sự<br />
kiện của Kim Vân Kiều truyện nhưng ông đã có những sáng tạo mới. Đó là ông đã biến nhân<br />
vật chính từ con người đạo lý thành con người tâm lý. Chính điều này làm cho Nguyễn Du<br />
“đổi thay điểm nhìn trần thuật: không phải kể chuyện từ bên ngoài, mà kể theo cái nhìn của<br />
nhân vật, từ tâm trạng nhân vật mà nhìn ra” [Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn) Tuyển tập Trần<br />
Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000]. Từ đó, Trần Đình Sử<br />
đi đến kết luận: “Bằng cách đổi mới tư tưởng, đổi thay trọng tâm miêu tả nhân vật, đổi mới<br />
điểm nhìn trần thuật, Nguyễn Du đã sáng tạo lại Truyện Kiều, biến một tiểu thuyết tài tử giai<br />
nhân thành một tiểu thuyết tâm lý, đưa vào một người kể chuyện mới, tổng hợp các truyền<br />
thống văn học Việt Nam và Trung Quốc, truyền thống tự sự và nhất là trữ tình, để tạo ra một<br />
kiệt tác vô song trong văn học Việt Nam và văn học thế giới”[Nguyễn Đăng Điệp (biên soạn)<br />
Tuyển tập Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, tập 1: Những công trình thi pháp học, 2000].<br />
Điều đặc biệt trong cách tiếp cận thi pháp học của Trần Đình Sử là đã chỉ ra một hộ<br />
thống các quan niệm nghệ thuật mới trong Truyện Kiểu. Đó là quan niệm nghệ thuật về con<br />
người, không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, mô hình tự sự và ngôn ngữ nghệ<br />
thuật, những quan niệm mà chỉ đến Trần Đình Sử mới được xác lập.<br />
Truyện Kiều trước hết đã đổi mới cái nhìn nghệ thuật về con người, chứ không đơn<br />
giản thay đổi vài nét tính cách nhân vật, tức là có một quan niệm mới về con người làm nền<br />
tảng cho sự miêu tả. Đó là quan niệm con người “đấng bậc”. Ngoài ra, trong Truyện Kiều,<br />
Nguyễn Du còn cảm nhận con người theo một “cảm quan cây lá hoa trái” của dân tộc nông<br />
nghiệp lâu đời, là sự tiếp thu quan niệm “con người tỏ lòng” nhưng đã chuyển cảm hứng từ<br />
Trường Đại học Thăng Long<br />
<br />
283<br />
<br />