intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tự chủ tài chính trong giáo dục đại học tại Việt Nam: Kinh nghiệm thực tiễn từ một số quốc gia trên thế giới

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

7
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tự chủ tài chính trong giáo dục đại học tại Việt Nam: Kinh nghiệm thực tiễn từ một số quốc gia trên thế giới" trên cơ sở đánh giá một số bất cập trong thực hiện tự chủ tài chính giáo dục đại học ở Việt Nam, từ đó gợi ý kinh nghiệm của một số nước về tự chủ và quản lý tài chính giáo dục đại học để tham khảo trong thực tiễn. cho Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tự chủ tài chính trong giáo dục đại học tại Việt Nam: Kinh nghiệm thực tiễn từ một số quốc gia trên thế giới

  1. TỰ CHỦ TÀI CHÍNH TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TẠI VIỆT NAM: KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TỪ MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI Nguyễn Quốc Huy1 Học viện An ninh nhân dân Abstract Education is a part that has great influence on the sustainable development of each country, in which the factor of financial resources has a direct impact on the development of higher education. On the basis of assessing some shortcomings in the implementation of financial autonomy for higher education in Vietnam, the article suggests experiences of some countries in financial autonomy and management in higher education for practical reference. for Vietnam today. Keywords: Financial autonomy, higher education, Experience 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tự chủ đại học đang trở thành xu hướng phổ biến trên toàn thế giới. Quyền tự chủ sẽ tạo động lực cho sự phát triển bền vững, hiệu quả của các cơ sở GDĐH, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Tự chủ trong giáo dục đại học (GDĐH) được thực hiện trên tất cả các cấp độ: tự chủ học thuật, tự chủ nhân sự, tự chủ tài chính. Mở rộng quyền tự chủ tài chính sẽ giúp các trường tìm kiếm, khai thác và sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực. Ngoài ra, còn hỗ trợ huy động và đa dạng hóa nguồn thu, giảm tỷ lệ thu học phí, tăng nguồn thu từ hoạt động đào tạo, dịch vụ, hoạt động nghiên cứu khoa học, thu từ các nhà tài trợ để chia sẻ gánh nặng ngân sách, tạo động lực cạnh tranh giữa các trường đại học. Trên thế giới, chính phủ hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp phần lớn nguồn kinh phí cho hoạt động của các trường đại để chi thường xuyên, nghiên cứu khoa học, xây dựng khuôn viên, mua sắm trang thiết bị. Bên cạnh ngân sách, các trường đại học còn có các nguồn thu đáng kể khác từ học phí, hợp đồng dịch vụ đào tạo, vốn vay và các khoản thu nhập khác. GDĐH Việt Nam cũng đang trên con đường tự chủ tài chính. Tuy nhiên, hiện nay, việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính vẫn còn nhiều vướng mắc. Vì vậy, bài viết nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước và đề xuất một số giải pháp để thực hiện cơ chế tự chủ GDĐH ở Việt Nam tốt hơn, góp phần thúc đẩy một nền giáo dục ngày càng phát triển, đáp ứng yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương pháp diễn giải, phương pháp phân tích và các số liệu thứ cấp. 3. NỘI DUNG 3.1. Kết quả triển khai cơ chế tự chủ tài chính đối với một số cơ sở GDĐH công lập Thời gian qua, cơ chế tự chủ tài chính áp dụng đối với các cơ sở GDĐH đã đạt được nhiều kết quả tích cực, mở ra nhiều hướng phát triển mới về quy mô và chất lượng đào 1 dongmauphaothu.027@gmail.com 27
  2. tạo. Các cơ sở GDĐH có cơ hội rõ ràng để mở rộng thêm nguồn thu: Cơ chế tự chủ tài chính cùng với tự chủ về chuyên môn của các cơ sở GDĐH tạo điều kiện cho các trường mở rộng quy mô đào tạo trên cơ sở gia tăng số lượng ngành/chuyên ngành đào tạo và chỉ tiêu đào tạo. Số thu học phí nhờ đó gia tăng. Các cơ sở GDĐH cũng có điều kiện gia tăng số thu từ việc tìm kiếm và triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Mô hình này tạo sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp, các sản phẩm khoa học trở nên thiết thực và ứng dụng vào đời sống xã hội. Bên cạnh đó, các cơ sở GDĐH có điều kiện cung cấp dịch vụ gắn với chuyên ngành đào tạo mà xã hội có nhu cầu cao như ngoại ngữ, tin học, kế toán... Số thu từ các hoạt động dịch vụ tăng nhanh và tại không ít cơ sở GDĐH hiện là nguồn thu lớn để cải thiện đời sống vật chất của giảng viên và người lao động. Khi có quy định cụ thể trong quản lý tự chủ tài chính, các cơ sở GDĐH đã chủ động hơn trong quản lý chi tiêu: Công tác quản lý tài chính tại các cơ sở GDĐH công lập từng bước được hoàn thiện và nâng cao thông qua việc tích cực kiện toàn quy chế chi tiêu nội bộ, hoàn thiện nhiều về cơ chế quản lý (Lê Đình Hạc, 2020). Việc giao quyền cũng tăng tính chủ động, tăng trách nhiệm cho các cơ sở GDĐH công lập và góp phần tăng thêm nguồn lực cho hoạt động phát triển các trường. Các cơ sở GDĐH công lập có điều kiện chủ động điều chỉnh cơ cấu chi theo mục tiêu nâng cao chất lượng giảng dạy, chất lượng giảng viên; tăng tỷ lệ chi trực tiếp cho hoạt động đào tạo, gia tăng thu nhập cho giảng viên, giữ người tài. Giảm áp lực chi ngân sách cho GDĐH: Xét trên khía cạnh tài chính, nguồn thu của các cơ sở GDĐH công lập về cơ bản gồm có: (i) Kinh phí do NSNN cấp; (ii) Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp; (iii) Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật; (iv) Nguồn khác. Biểu đồ 1: Học phí của Trường Đại học Y Dược TPHCM trong 3 năm (Nguồn: Đặng Chung, 2020) 28
  3. Trong xu hướng gia tăng mức độ tự chủ tài chính của các cơ sở GDĐH, nguồn thu từ học phí ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 70-80% tổng thu của các trường. Phần kinh phí ngân sách nhà nước cấp có xu hướng giảm dần, nhờ đó áp lực chi ngân sách cho GDĐH đã giảm hơn so với trước. Từ 2018 đến 2021, tổng thu của các cơ sở GDĐH tự chủ đa phần tăng lên, thu nhập bình quân của giảng viên và cán bộ quản lý tăng mạnh ở mức tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý, một số cơ sở GDĐH thu nhập tăng thêm đáng kể so với lương cơ bản, trong đó Trường đại học Hà Nội tăng thêm 100%, Trường đại học Kinh tế TP.HCM tăng thêm 75%, Trường đại học Công nghiệp dệt may Hà Nội tăng thêm 70%, Trường đại học Kinh tế quốc dân tăng thêm 60% (Diệu Ngân, 2022). 3.2. Một số bất cập, hạn chế trong thực hiện tự chủ tài chính đối với GDĐH Cơ chế quản lý tài chính đối với GDĐH tại Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển, tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: Khả năng tự chủ tài chính của trường đại học về kinh phí chi thường xuyên thấp: Theo đúng phương thức và định mức phân bổ hiện hành cộng với khung học phí bị bó hẹp và thấp như hiện nay, các trường khó có khả năng tự chủ các khoản chi thường xuyên, đặc biệt là chi lương và các khoản có tính chất lương. Các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ bản phụ thuộc chủ yếu vào nguồn ngân sách nhà nước, nhưng nguồn này được phân bổ rải rác hàng năm, có những dự án bị giải ngân quá lâu do đầu tư dàn trải, dẫn đến lãng phí và không hiệu quả (Đỗ Minh Thông, 2019). Quyền tự chủ của các trường về chuyên môn còn hạn chế. Mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách để các trường triển khai thực hiện tự chủ nhưng đến nay, những nội dung thực tế đảm bảo cho thực hiện các quyền tự chủ chưa được quán triệt như: xác định các ngành, chuyên ngành đào tạo; xác định các chương trình đào tạo; xác định hình thức tổ chức đào tạo; xác định phương pháp giảng dạy; xác định phương pháp đánh giá các học phần; xác định thời gian đào tạo... là những tiêu thức được coi là quyền tự chủ cao trong tất cả các hệ và hình thức đào tạo. Về phía các trường đại học, vẫn còn tình trạng lúng túng trong xây dựng và triển khai quy chế chi tiêu nội bộ; không có khả năng cân đối thu chi, các đơn vị thường lập dự toán thu sự nghiệp thấp hơn nhiều so với thực hiện. Một số trường xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ rất chi tiết nhưng có một số nội dung chi và mức chi không phù hợp. 3.3. Kinh nghiệm thực tiễn từ một số quốc gia trên thế giới 3.3.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Các trường đại học ở Trung Quốc hoạt động theo Luật Giáo dục, Luật GDĐH, Luật Nhà giáo, Luật Giáo dục Nghề nghiệp và Luật Khuyến học. Nhà nước căn cứ vào nhu cầu, mức độ ưu tiên và đặc điểm của các vùng để hỗ trợ phát triển GDĐH. Nhà nước bảo đảm quyền tự do hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và các hoạt động văn hóa khác trong trường đại học theo quy định của pháp luật. Ngân sách chính phủ cấp cho các trường đại học dựa trên số lượng sinh viên. Các trường đại học nhận được các khoản tài trợ bổ sung cho nghiên cứu khoa học thông qua cơ chế cạnh tranh. Đối với hoạt động khoa học, Chính phủ Trung Quốc đầu tư kinh phí cho các trường đại học nghiên cứu tạo ra sản phẩm. Sau khi sản phẩm hoàn thành, số tiền bán sản phẩm 29
  4. trường sẽ được giữ lại 30%, phần còn lại trả cho nhóm nghiên cứu. Nhà nước không thu hồi vốn đầu tư cho hoạt động nghiên cứu (Phạm Đỗ Nhật Tiến, 2018). Mức tài trợ của chính phủ cho các trường đại học là khác nhau. Các trường đại học được chính phủ lựa chọn nhận được nhiều tài trợ hơn các trường còn lại trong nhóm. Ở Trung Quốc, mức học phí GDĐH được xác định dựa trên một tỷ lệ phần trăm nhất định của chi phí đào tạo sinh viên hàng năm. Các khu vực khác nhau, các chuyên ngành khác nhau và xếp hạng các trường khác nhau dẫn đến mức học phí khác nhau. Tỷ lệ học phí trong chi phí đào tạo sinh viên hàng năm do Ủy ban Giáo dục Quốc gia, Ủy ban Kế hoạch Quốc gia và Bộ Tài chính Trung Quốc cùng quyết định. Hiện tại, học phí của các cơ sở GDĐH ở Trung Quốc chiếm không quá 25% chi phí đào tạo sinh viên hàng năm, tỷ lệ phần trăm cụ thể có thể được điều chỉnh dựa trên sự phát triển kinh tế và khả năng chấp nhận của người dân (Mai Ngọc Anh và cộng sự, 2018). Chính quyền nhân dân cấp tỉnh là đơn vị phê duyệt mức học phí GDĐH. Cơ quan quản lý giáo dục cấp tỉnh đề xuất, cơ quan quản lý giá cấp tỉnh, cơ quan quản lý tài chính căn cứ vào tình hình phát triển, điều kiện dạy học và khả năng tiếp nhận của người dân trên địa bàn để phê duyệt. Sau khi đề xuất học phí được trình và được chính quyền cấp tỉnh chấp thuận, cơ quan quản lý giáo dục sẽ áp dụng mức thu học phí chính thức. Trường hợp mức học phí phải điều chỉnh cũng do ba cơ quan này thực hiện. Phương án điều chỉnh học phí dựa trên mức tăng giá và thu nhập của người dân trên địa bàn. Đối với các trường tư thục hoạt động theo quy định, các trường đề xuất Luật Khuyến học Tư thục của Trung Quốc, các loại học phí và mức thu học phí dành cho học sinh ở các trình độ đào tạo khác nhau trình cơ quan quản lý có liên quan phê duyệt và công bố. Năm 2002, Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia, Bộ Tài chính và Bộ Giáo dục đã ban hành “Chế độ thu học phí giáo dục công lập”. Chế độ này được áp dụng cho tất cả các loại trường học ở các cấp học khác nhau trên khắp Trung Quốc. Cơ quan quản lý giáo dục, cơ quan quản lý giá, cơ quan quản lý tài chính tỉnh, thành phố, huyện phải phê duyệt nội dung công khai giá dịch vụ giáo dục. Chính phủ Trung Quốc thực hiện quyền tự chủ tài chính để khuyến khích các trường đại học đa dạng hóa các nguồn thu nhập (Phạm Đỗ Nhật Tiến, 2018). Ngoài các gói tài trợ của nhà nước, các trường đại học cũng tìm kiếm nguồn thu tư từ các cựu sinh viên, các khoản trợ cấp xã hội, nghiên cứu khoa học và học phí để tạo điều kiện cho các hoạt động của họ. Việc giảm hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho phép các trường đại học chủ động tìm kiếm nguồn thu và nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu. 3.3.2. Kinh nghiệm của Thái Lan Quản lý GDĐH ở Thái Lan vào đầu những năm 1970 rất tập trung và quan liêu. GDĐH hoạt động dưới sự kiểm soát của nhà nước. Bộ Giáo dục với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng, độc quyền xây dựng chính sách GDĐH, xây dựng chương trình đào tạo cho các cơ sở GDĐH, phân phối và quản lý các nguồn lực cho GDĐH. Sau năm 1970, công tác quản lý GDĐH đã có sự thay đổi đáng kể. Quản lý giáo dục từng bước phát huy vai trò tự chủ của các cơ sở GDĐH và các chủ thể thực sự tham gia vào hoạt động GDĐH. Sự thay đổi này là do sự thay đổi nhận thức về mối quan hệ phối hợp giữa Nhà nước, thị trường và các cơ sở giáo dục đào tạo. Năm 1972, cơ quan quản lý chuyên ngành về GDĐH được thành lập là Bộ các trường đại học. Bộ các trường đại học có chức năng thực hiện quyền kiểm soát tập trung về chính sách, tài chính và quản lý GDĐH. Bộ hỗ trợ và điều phối mối quan hệ giữa các cơ sở đào tạo, bổ nhiệm các hiệu trưởng và trưởng khoa của các trường đại học quốc doanh. Ngoài ra, 30
  5. Bộ chủ trì phê duyệt chương trình đào tạo của các trường và giám sát việc tuyển sinh chung vào các cơ sở GDĐH, đồng thời cũng chịu trách nhiệm cho hơn 80% doanh thu của trường đại học (Phạm Đỗ Nhật Tiến, 2018). Thái Lan bắt đầu thực hiện cơ chế tự chủ đại học từ đầu những năm 1990 với mong muốn các trường đại học có thể nâng cao chất lượng giáo dục và giảm học phí. Chính phủ tài trợ trực tiếp cho GDĐH dựa trên các khuôn khổ chính sách cụ thể. Ngân sách chính phủ cấp cho sinh viên thông qua học bổng và các chương trình cho vay dựa trên thu nhập hộ gia đình. Các trường đại học tự quy định mức học phí. Các trường công lập thường có mức học phí thấp hơn nhiều so với các trường tư thục. Các trường đại học tự chủ nhận ngân sách nhà nước thông qua hệ thống phân bổ trọn gói và độc lập trong việc xác định cơ chế quản lý và nhân sự. Các trường có thể tự quyết định mức lương và nguồn nhân lực. Họ nhận được tài trợ từ nhà nước nhưng hoạt động ngoài bộ máy hành chính của chính phủ và chịu sự giám sát của Bộ Giáo dục. Quyền tự chủ giúp các trường tăng nguồn thu, nhưng không giúp giảm chi phí học tập. Quyền tự chủ của trường thể hiện ở việc huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính hoặc tuyển dụng/sa thải giáo viên và hệ thống định giá quyền tự chủ và trách nhiệm của nhà trường và giáo viên đối với kết quả học tập. Thái Lan cho phép hiệu trưởng các trường quản lý ngân sách, nhưng họ cũng có một hệ thống đánh giá để đảm bảo các trường có trách nhiệm giải trình. 3.3.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản Hệ thống GDĐH của Nhật Bản đã thay đổi mạnh mẽ kể từ năm 2004. GDĐH ở Nhật Bản bao gồm 3 cấp: cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ với thời gian đào tạo là 4 năm, 2 năm và 5 năm. Các trường đại học được phân thành ba loại: đại học quốc gia, đại học quốc doanh và đại học tư thục. Các trường đại học quốc gia được thành lập ở hầu hết các địa phương với tư cách là các trung tâm nghiên cứu địa phương. Các cơ sở này hoạt động như một tập đoàn hoặc công ty với mức độ tự chủ cao, giúp nâng cao chất lượng giáo dục và hoạt động nghiên cứu. Chính phủ cho phép các trường đại học quốc gia hoạt động độc lập, có quyền tự chủ cao trong việc quyết định các vấn đề về nhân sự và ngân sách. Các trường đại học quốc doanh do chính quyền địa phương thành lập và quản lý. Các trường này hoạt động để cung cấp cơ hội học tập cho người dân địa phương. Các trường đại học tư thục ở Nhật Bản chiếm khoảng 80% tổng số trường đại học của cả nước (Phan Thị Lan Hương, 2019). Ngân sách nhà nước cấp cho GDĐH ở Nhật Bản bao gồm các khoản chi thiết yếu, ngân sách cạnh tranh cho các hoạt động nghiên cứu của giảng viên, hỗ trợ tài chính cho sinh viên. Nhật Bản áp dụng chính sách phân bổ ngân sách dựa trên sự cạnh tranh giữa các trường đại học thông qua các nguồn tài trợ. Do đó, các trường đại học được yêu cầu đẩy nhanh cải cách và phát triển các dự án để xin tài trợ từ chính phủ Nhật Bản. Việc phân bổ ngân sách cho các trường đại học được thực hiện như một khoản trợ cấp một lần, bao gồm cả tiền lương của nhân viên. Chính phủ phân bổ ngân sách dựa trên các kế hoạch trung hạn do các trường xây dựng. Với việc cấp phát, các trường được chủ động sử dụng kinh phí theo kế hoạch đã được phê duyệt. Trong quá trình tự chủ, nguồn kinh phí hỗ trợ thường xuyên bị cắt giảm buộc các trường đại học phải cắt giảm chi phí, giảm biên chế. Thay vào đó, các gói tài trợ hướng đến các mục tiêu cụ thể. Từ năm 2004 đến năm 2009, tỷ lệ tài trợ của chính phủ trên tổng doanh thu của các trường đại học đã giảm. Doanh thu từ học phí chiếm 60% doanh thu của các trường đại học tư thục, trong khi tài trợ của chính phủ chỉ chiếm 12% (Minh Anh, 2021). Đối với các trường đại học quốc gia, học phí được 31
  6. coi là nguồn thu nhập của chính họ. Từ năm 2004, các trường Đại học được phép quyết định mức thu để đảm bảo đủ ngân sách, nhưng mức tăng học phí không được vượt quá 10% so với quy định của Chính phủ. Chính phủ Nhật Bản đưa ra mức học phí tiêu chuẩn. Trên thực tế, mức học phí của các trường đại học hiếm khi biến động. Bởi một khi trường đại học tăng học phí đồng nghĩa với việc nguồn ngân sách thường xuyên hỗ trợ hoạt động sẽ giảm đi. Do đó, các trường đại học quốc doanh giữ học phí ở mức do chính phủ quy định. Các trường đại học không được tự chủ trong việc quyết định lương cho nhân viên, thay vào đó họ phải tuân theo các quy định của chính phủ. Khi thực hiện cơ chế tự chủ, kinh phí hoạt động thường xuyên thường bị cắt giảm buộc các trường đại học phải cắt giảm chi phí, giảm biên chế. Thực tế, việc tăng học phí một cách tự chủ hầu như không có tác động. 3.3.4. Kinh nghiệm của Mỹ Đặc điểm nổi bật của hệ thống giáo dục tại Mỹ là sự phân cấp quản lý, tính dân chủ trong thực hiện chính sách giáo dục, sự đa dạng của các loại hình trường học và phương pháp đào tạo, ứng dụng sâu rộng những tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại vào quản lý, giảng dạy và hoạt động học tập. Điểm nổi bật trong chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo của quốc gia này là họ rất chú trọng đến công tác kiểm định chất lượng GDĐH và sau đại học. Chính vì tính đa dạng và linh hoạt, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ nên hệ thống giáo dục được đánh giá là có chất lượng kiểm định rất cao. Ở Mỹ, có sự phân biệt rõ ràng giữa các trường đại học được công nhận và các nhà máy cấp bằng/cấp bằng tốt nghiệp. Người ta thường tin rằng được công nhận có nghĩa là chất lượng được đảm bảo, có thể tiếp cận được nguồn tài trợ của chính phủ (hỗ trợ tài chính và các dự án nghiên cứu), sinh viên trong các cơ sở được công nhận có thể chuyển giao cho nhau và xây dựng lòng tin giữa các nhà tuyển dụng. Mỹ là một trong những quốc gia phát triển hàng đầu trên thế giới cả về kinh tế và giáo dục. Giáo dục ở Mỹ gắn liền với cơ chế tài chính để tạo ra đầu ra chất lượng đào tạo cao. Ngân sách chi cho giáo dục ở Mỹ rất lớn, chiếm hơn 91%, tài trợ cho GDĐH được phân bổ theo ba cấp: chính phủ liên bang, chính quyền tiểu bang và chính quyền địa phương. Tài trợ của chính phủ liên bang được chi cho hỗ trợ sinh viên và nghiên cứu khoa học (Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Thị Huệ, 2018). Các trường đại học muốn tham gia vào các chương trình hỗ trợ tài chính sẽ phải tuân thủ các yêu cầu do chính phủ liên bang quy định. Việc phân bổ ngân quỹ nhà nước cho các trường dựa trên số lượng đầu vào (sinh viên theo học, số lượng giảng viên, nhân viên) và hiệu quả hoạt động của trường đại học. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, việc phân bổ ngân sách dựa trên số lượng đầu vào được cho là không còn phù hợp. Việc chuyển sang phân bổ ngân sách dựa trên hoạt động ít bị áp lực hơn và có nhiều sự hỗn hợp hơn. Ở Mỹ, học phí được xác định ở cấp tiểu bang hoặc địa phương. Có sự khác biệt đáng kể về học phí giữa các trường đại học công lập và tư thục và giữa các học viện trong khu vực. Các trường đại học cung cấp các khoản trợ cấp cho sinh viên dựa trên nhu cầu tài chính và kết quả học tập của họ. Với sự đa dạng của các cấp học gắn liền với chất lượng, có sự tương quan đa dạng giữa các nguồn tài trợ: phù hợp với hầu hết khả năng tài chính của học sinh thông qua nhiều phương thức tài trợ khác nhau. Điều này bao gồm các khoản vay cho sinh viên, trợ cấp, học bổng của trường, các chương trình vừa học vừa làm có trả tiền, trợ cấp của nhà nước và tất nhiên, hỗ trợ tài chính của gia đình. 32
  7. 4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA CHO VIỆT NAM Ngày nay, tự chủ tài chính đang trở thành xu thế tất yếu của các quốc gia. Tùy theo nền kinh tế và văn hóa của mỗi quốc gia mà có những cách thức tự chủ khác nhau. Vì vậy, không thể sao chép một mô hình quản lý tài chính của bất kỳ quốc gia nào, và chúng ta chỉ có thể chọn lọc và học hỏi những điểm ưu việt của họ để áp dụng cho các trường đại học ở Việt Nam. Trên cơ sở kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và khu vực về quản lý tài chính trong GDĐH, tác giả đề xuất một số giải pháp có thể tham khảo cho Việt Nam như sau: 4.1. Quản lý nhà nước đối với cơ sở GDĐH cần rõ ràng và cụ thể hơn Cần quy định rõ hơn về vai trò, chức năng quản lý nhà nước chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong quản lý, phát triển hệ thống giáo dục đại học. Thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học; đình chỉ hoạt động đào tạo là một trong những nội dung của quản lý nhà nước đối với phát triển GDĐH, theo đó cần làm rõ các điều kiện, tiêu chuẩn để thành lập cơ sở giáo dục đại học. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, việc thành lập mới một cơ sở giáo dục đại học phải đảm bảo tối thiểu 3 lĩnh vực đào tạo; diện tích tối thiểu của một cơ sở giáo dục đại học là trên 12 ha ở khu vực đô thị; số giảng viên cơ hữu tối thiểu; số đầu sách phục vụ giảng dạy và nghiên cứu… 4.2. Cần tiếp tục duy trì ngân sách hỗ trợ cho các trường đại học công lập Trên thực tế, sự ưu tiên của Nhà nước về kinh phí là đặc điểm nổi bật của hầu hết các hệ thống GDĐH công lập của các nước. Vai trò này của Nhà nước bắt nguồn từ hoàn cảnh kinh tế, chính trị và xã hội. Trước nhu cầu xã hội ngày càng gia tăng nhanh chóng, điều quan trọng là phải thay đổi và củng cố cơ sở tài chính của các trường đại học. Ngân sách nhà nước tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong việc duy trì nền tảng cho GDĐH, đảm bảo các mục tiêu phát triển chiến lược như xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo giáo viên, đầu tư cho các trường trọng điểm, bảo đảm bình đẳng xã hội. 4.3. Chính phủ cần có cơ chế pháp lý rõ ràng hơn để các trường đại học mở rộng nguồn thu Cùng với ngân sách nhà nước, các nước rất chú trọng khai thác các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của các trường. Nguồn vốn ngoài ngân sách được huy động theo nhiều hình thức và mức độ khác nhau tùy theo bối cảnh của mỗi nước; và tỷ trọng của nó trong tổng nguồn lực tài chính là khác nhau giữa các trường, ngành và nhóm ngành. Các nước đều có chính sách khuyến khích đa dạng hóa các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục và đào tạo nói chung và GDĐH nói riêng. Đa dạng hóa tài chính là một yếu tố quan trọng của chiến lược nâng cao năng lực tài chính của các trường đại học. Ngoài việc khuyến khích đa dạng hóa các nguồn tài chính, Nhà nước còn phát huy tính chủ động của các cơ sở đào tạo trong quá trình sử dụng và phân bổ các nguồn tài chính. Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý trung ương và vĩ mô trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành. Trong một số ngành, lĩnh vực đặc thù, Chính phủ cần ban hành danh mục được nhà nước đảm bảo ngân sách đào tạo nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 33
  8. 4.4. Chính phủ cần đổi mới phương thức cấp vốn từ nguồn ngân sách Chính phủ cho các trường đại học Trong bối cảnh yêu cầu ngày càng cao và nguồn lực tài chính hạn hẹp, để nâng cao chất lượng, việc đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách là rất quan trọng. Phương thức tài trợ của chính phủ từ ngân sách nhà nước cho các trường hầu hết dựa trên đầu vào của sinh viên, hoặc đầu ra của sinh viên. Để trở nên hiệu quả hơn, công thức tài trợ để hỗ trợ ngân sách cốt lõi cho các trường cần phải được thiết lập rõ ràng, xem xét chi phí tiêu chuẩn cho các ngành khác nhau, các chương trình giảng dạy khác nhau và thậm chí cả quy mô đào tạo khác nhau giữa các trường. Việc phân bổ ngân sách Nhà nước cho các cơ sở phải gắn với hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính trước đó. Chính phủ cần thay đổi việc hỗ trợ ngân sách cho tất cả các ngành học thành chỉ hỗ trợ cho các ngành ưu tiên, gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực của nhà nước. Kinh phí được cấp cho các cơ sở theo chương trình mục tiêu để có thể giám sát hiệu quả. 4.5. Thực hiện đấu thầu kinh phí đào tạo từ ngân sách nhà nước Nguồn ngân sách sẽ được nhà nước phân bổ cho các cơ sở đào tạo có chất lượng, hiệu quả và chi phí hợp lý. Điều này sẽ thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo trong việc tiếp cận ngân sách nhà nước. Triển khai, hướng dẫn thực hiện phương thức nhà nước đặt hàng đào tạo, từng bước tiến tới thực hiện phương thức đấu thầu đào tạo từ nguồn kinh phí ngân sách nhà nước nhằm tạo lập sân chơi cạnh tranh bình đẳng giữa các cơ sở GDĐH. 4.6. Cần có chính sách thuế phù hợp để khuyến khích đầu tư Xây dựng thông tư hướng dẫn cụ thể về việc sử dụng các nguồn tài chính huy động được và các nguồn thu khác, đồng thời xác định những khoản cần đóng thuế, những khoản không cần đóng thuế. Xây dựng và hoàn thiện chính sách ưu đãi về thuế đối với các cơ sở GDĐH. Hầu hết các quốc gia cũng sử dụng các công cụ tài chính khác nhau như thuế để khuyến khích các nhà đầu tư đóng góp xây dựng trường học và cấp học bổng cho sinh viên. Các cơ sở GDĐH của Nhà nước tìm kiếm và mở rộng các nguồn thu nhập thông qua dịch vụ đào tạo, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu khoa học, tham vấn chính sách với các công ty, doanh nghiệp do có lợi thế về nhân lực và cơ sở vật chất. Huy động các nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, cựu sinh viên, doanh nghiệp. Để phát triển nguồn lực này, một trong những nội dung quan trọng là ưu đãi thuế cho các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp khi đầu tư. Vì vậy cần có chế độ, chế độ thuế ưu đãi, phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân khi đầu tư vào hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường. 5. KẾT LUẬN Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các cơ sở GDĐH nhà nước muốn tồn tại và phát triển được đòi hỏi phải có tiềm lực tài chính vững chắc cũng như cơ chế quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đó. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước cho thấy, các trường đại học không chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của ngân sách nhà nước mà còn phải tận dụng nội lực để tìm kiếm, khai thác các nguồn lực bên ngoài cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính để phát triển và nâng cao hiệu quả các hoạt động của nhà trường. Dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản và Mỹ về quản lý tài chính GDĐH, bao gồm phân bổ ngân sách nhà nước, chính sách học phí, chính sách tìm kiếm nguồn lực bên ngoài, ngân sách nhà nước, cũng như sử dụng 34
  9. nguồn lực trong GDĐH, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết cho các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam trong cách thức quản lý tài chính hiệu quả nhất. ________________ Tài liệu tham khảo [1] Mai Ngọc Anh và cộng sự (2018), Quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học: Một số kinh nghiệm của Trung Quốc và khuyến nghị cho Việt Nam. Nguồn: http://chuongtrinhkhgd.moet.gov.vn, truy cập ngày 07/9/2022. [2] Minh Anh (2021), Tự chủ đại học và các bài toàn cần lời giải. Nguồn: https://nhandan.vn, truy cập ngày 28/8/2022. [3] Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Thị Huệ (2018), Năm điều bàn luận về thực hiện quyền tự chủ và giải quyết trách nhiệm của các nhà trường, Hội thảo “Tự chủ trong giáo dục đại học - những vấn đề đặt ra”, Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội, tháng 9. [4] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Báo cáo kết quả đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014-2017, Hà Nội, tháng 10. [5] Đặng Văn Định (2022), Nhìn lại việc thực hiện chủ trương tự chủ đại học. Nguồn: http://ihevn.edu.vn, ngày 31/8/2022. [6] Lê Đình Hạc (2020), Tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập. Nguồn: https://tapchitaichinh.vn, ngày 27/8/2022. [7] Phan Thị Lan Hương (2019), Trao quyền tự chủ đại học của Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam. Nguồn: https://tcnn.vn, ngày 6/9/2022. [8] Đỗ Minh Thông (2019), Thực trạng tự chủ tài chính đại học công lập và một số đề xuất, kiến nghị. Nguồn: https://tapchitaichinh.vn, ngày 08/9/2022. [9] Phạm Đỗ Nhật Tiến (2018), Kinh nghiệm quốc tế và một số vấn đề đặt ra trong chế độ đại học tự chủ ở nước ta, Hội thảo “Tự chủ trong giáo dục đại học - những vấn đề đặt ra”, Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội, tháng 9. 35
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0