HNUE JOURNAL OF SCIENCE<br />
Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 10, pp. 30-36<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0066<br />
<br />
TƯ TƯỞNG “NHÂN NGHĨA” CỦA NGUYỄN TRÃI<br />
VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY<br />
<br />
Dương Trọng Hạnh<br />
Trung tâm Thư viện - Thiết bị, Trường Đại học Hoa Lư<br />
Tóm tắt. Bài viết trình bày và phân tích một số biểu hiện tư tưởng nhân nghĩa cốt lõi của<br />
Nguyễn Trãi và bài học rút ra đối với nước ta hiện nay. Từ đó, tác giả khẳng định rằng, tư<br />
tưởng nhân nghĩa là một trong những nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của<br />
Nguyễn Trãi. Tư tưởng nhân nghĩa của Ông đã góp vào việc nâng tầm tư duy truyền thống<br />
của người Việt Nam hướng đến chủ nghĩa nhân đạo cao cả và tư tưởng này cần được kế thừa,<br />
phát huy trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.<br />
Từ khóa: Tư tưởng, tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi, sự nghiệp đổi mới.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là một triết lí sâu sắc, cốt lõi, bao trùm<br />
nhiều khía cạnh: Là thương dân, vì dân, an dân; là sự khoan dung, độ lượng; là lí tưởng xây dựng<br />
đất nước thái bình; là hệ thống các quan điểm của triết lí nhân sinh, xã hội, chính trị và triết lí<br />
quân sự, ngoại giao Tư tưởng đó kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở rộng,<br />
phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng dân tộc, trở thành tư tưởng tiêu biểu<br />
của truyền thống tư tưởng Việt Nam. Đã có một số công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân nghĩa<br />
của Nguyễn Trãi, như: “Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi” của Trần Ngọc Ánh, Võ Thị Kim<br />
Ánh [1]; “Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Nguyễn Trãi” của Doãn Chính và Bùi Trọng Bắc<br />
[3]; “Người dân và người cầm quyền trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm” của<br />
Tiến sĩ, Phó trưởng khoa Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội [4]; “Về tư tưởng<br />
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi” của Lương Minh Cừ và Nguyễn Thị Hương [5]; .... Tuy nhiên, các<br />
công trình nghiên cứu đó chưa đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu ý nghĩa, giá trị của tư tưởng nhân nghĩa<br />
Nguyễn Trãi với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Vì vậy, qua bài viết này, tác giả bước đầu<br />
tìm hiểu về ý nghĩa giá trị tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đối với quá trình đổi mới ở nước<br />
ta hiện nay.<br />
<br />
2.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
<br />
2.1. Khái quát về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi<br />
Thứ nhất, nhân nghĩa là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước.<br />
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không phải là một thứ đạo lí chung chung, mà là một tư<br />
tưởng hành động, là đường lối phục vụ đất nước. Quan niệm về nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi có phạm<br />
vi rộng lớn hơn so với Nho giáo. Nếu Nho giáo, quan niệm nhân nghĩa gắn với mục đích phục vụ<br />
giai cấp thống trị “bình thiên hạ” không phải bằng vũ lực, mà bằng đạo đức (đức trị), theo một trật tự<br />
Ngày nhận bài: 9/8/2018. Ngày sửa bài: 19/8/2018. Ngày nhận đăng: 2/10/2018.<br />
Tác giả liên hệ: Dương Trọng Hạnh. Địa chỉ e-mail: dthanh.dnb@gmail.com<br />
<br />
30<br />
<br />
Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi với sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay<br />
<br />
đẳng cấp khắc nghiệt (trên - dưới, vua - tôi, cha - con, chồng - vợ).<br />
Nhân nghĩa chỉ là đạo của đấng trượng phu, bậc quân tử, chứ không phải của những kẻ tiểu<br />
nhân, tức là đông đảo quần chúng thuộc các tầng lớp dưới, thì đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là cơ<br />
sở của đường lối chính trị, của chính sách cứu nước và dựng nước; là nguyên tắc trong việc giải<br />
quyết các tình huống do thực tiễn đất nước đặt ra. Ở đây, nhân nghĩa có vai trò là phương pháp luận<br />
của mọi suy nghĩ và hành động, là chiều sâu của nhận thức, tư duy, tư tưởng.<br />
Thứ hai, nhân nghĩa gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân, cứu dân.<br />
Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa trước hết là phải “an dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân<br />
khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt<br />
để an dân”. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng,<br />
là phương tiện của nhân nghĩa. Trước hành động bạo ngược của kẻ thù đối với dân, Nguyễn<br />
Trãi đã lên án tố cáo tội ác của chúng bằng những lời lẽ đanh thép “bọn có phận sự chăn dắt dân,<br />
thì không thấy chữ (phủ dân) làm cốt yếu, mà chỉ vụ lợi, tham nhũng. Bọn tướng súy thì không<br />
lấy chữ (vệ dân) làm cốt yếu, lại đi lộng hành, lăng ngược. Cho đến cả bọn hoạn quan cũng tha<br />
hồ đi vơ vét áp bức lương dân, thu nhặt vàng ngọc” [14, tr. 575]. Vì vậy, người nhân nghĩa phải<br />
lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước và bán nước, phải nhận thức được và hoạt động, đấu<br />
tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy<br />
“đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để<br />
cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn<br />
khôn đã bĩ mà lại thái”, “trời trăng đã mờ mà lại trong” [3, tr. 35].<br />
Trong tư tưởng của Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, vì vậy phải cứu nước để cứu dân,<br />
đem lại thái bình, hạnh phúc cho dân, cho nước.<br />
“Làm việc nhân nghĩa cốt ở yên dân<br />
Nổi binh cứu dân trước lo trừ bạo” [6, tr. 515].<br />
Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân<br />
nghĩa của Khổng - Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Với<br />
Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu<br />
cầu cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới.<br />
Thứ ba, tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng,<br />
thậm chí đối với cả kẻ thù.<br />
Có thể nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Tư tưởng<br />
nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, trước hết thể hiện ở lòng yêu thương con người sâu sắc. Ông kêu gọi<br />
đấu tranh để bảo vệ con người, cuộc sống, hạnh phúc cho con người. Song, đối với kẻ thù, đã chủ<br />
trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một<br />
cách an toàn và không mất thể diện. Điều đó, một mặt thể hiện tinh thần nhân nghĩa, khoan dung,<br />
tha thứ; mặt khác, tạo ra sức mạnh thần kỳ để cảm hóa kẻ thù, cảm hóa cả những người lầm<br />
đường, lạc lối trót làm tay sai cho giặc để cải tà quy chính.<br />
“Thần vũ không giết, ta thể lòng trời để tỏ hiếu sinh.<br />
Tham chính Phương Chính, nội quan Mã Kỳ được cấp năm trăm chiếc thuyền đã vượt biển<br />
về mà còn hồn kinh phách lạc.<br />
Tổng binh Vương Thông được cấp mấy ngàn ngựa, đã về nước mà còn ngực đập chân run.<br />
Chúng đã sợ chết tham sống mà thực muốn cầu hòa,<br />
Ta lấy toàn quân làm cốt mà cho dân được nghỉ” [12, tr. 81].<br />
Khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi là dân yên vui, nước hoà bình. Do đó, để bảo toàn<br />
tính mạng cho nhân dân, cần “dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Đức lớn hiếu sinh,<br />
nghĩ vì kế lâu dài của Nhà nước, tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh. Sửa hòa hiếu cho hai nước. Tắt<br />
31<br />
<br />
Dương Trọng Hạnh<br />
<br />
muôn đời chiến tranh. Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh” [14, tr. 87]. Đó là tinh thần nhân đạo cao<br />
cả và triết lí nhân sinh sâu sắc của Ông. Trong thư gửi Vương Thông, Ông viết: “Cầu đường sửa<br />
xong, thuyền ghe sắm đủ, thuỷ lục hai đường, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn<br />
phần” [11, tr.135].<br />
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng tấm lòng nhân<br />
nghĩa của Nguyễn Trãi có ý nghĩa to lớn cả về mặt lí luận và thực tiễn. Điều đó, một mặt thể hiện<br />
việc kết thúc một cuộc chiến tranh tàn khốc do kẻ thù gây ra; mặt khác, nó đã dập tắt được ngọn<br />
lửa hận thù dân tộc - nguồn gốc gây nên những cuộc chiến tranh báo thù không bao giờ chấm dứt.<br />
Thứ tư, ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua sáng tôi hiền, bên dưới<br />
không còn tiếng giận oán sầu.<br />
Hoài bão của Nguyễn Trãi là xây dựng Đại Việt thành một quốc gia giàu mạnh, có “văn trị”,<br />
“quốc phú binh cường”, một xã hội có “vua sáng”, “tôi hiền” và mọi phép của nhà nước phải<br />
thuận lòng dân, “không lấy điều muốn của một người mà cưỡng ép nghìn muôn người khác phải<br />
theo” [13, tr. 42]. Do đó, Ông luôn quan tâm đến đời sống của dân chúng và mong muốn mọi<br />
người đều được an cư, lạc nghiệp, đều được ấm no, hạnh phúc, “nơi thôn cùng xóm vắng không<br />
có tiếng oán hận, sầu than”. Một xã hội an bình, “Vua tôi cùng cày, không đắp bờ chia ranh giới,<br />
không phân ra uy quyền, đẳng cấp, không biết giặc cướp, không ai xâm lấn ai, mọi người gần gũi,<br />
yêu thương nhau, nền nếp ấy kéo dài mấy nghìn năm vẫn y nguyên như một” [13, tr. 42].<br />
Thứ năm, nhân nghĩa thể hiện ở tư tưởng hòa bình.<br />
Tư tưởng hòa bình của Nguyễn Trãi được thể hiện, trước hết, ở việc Ông đã lên án mạnh mẽ<br />
chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh phi nghĩa (chiến tranh xâm lược) và khát vọng được sống trong<br />
hòa bình.<br />
Tư tưởng hòa bình không chỉ thể hiện trong suy nghĩ của Ông mà còn thể hiện trong hành<br />
động thực tiễn. Song, muốn có hòa bình, thì trước hết, phải đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ<br />
cõi, đem lại nền hòa bình thực sự và lâu dài cho cả dân tộc.<br />
Tư tưởng hòa bình không chỉ là sự mưu cầu thái bình, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam, mà<br />
còn là mong muốn mang lại “nền thái bình muôn thuở cho nhân dân hai nước Đại Việt và Trung<br />
Hoa. Chính vì vậy, khi giặc xin hàng, Nguyễn Trãi chủ trương không giết mà hơn nữa còn cấp cho<br />
phương tiện, lương thực để chúng rút quân về nước. Việc làm này của Ông đã góp phần to lớn<br />
trong việc đặt cơ sở nền móng để xây dựng tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc.<br />
Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự kết<br />
tinh những tư tưởng tiến bộ, những giá trị tinh thần và văn hóa của dân tộc ta từ buổi đầu dựng<br />
nước cho đến thế kỷ XV. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi vận dụng thành công và phát<br />
triển rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng đất nước, tạo nên một bước tiến mới trong lịch sử tư tưởng<br />
của dân tộc ta. Nội dung cơ bản tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là lòng yêu nước thương<br />
dân, ý thức độc lập tự chủ, lòng nhân ái và ước vọng thái bình, quan hệ hòa hiếu giữa các dân tộc”<br />
[13, tr. 36 - 37].<br />
<br />
2.2. Ý nghĩa tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi đối với sự nghiệp đổi mới ở<br />
nước ta hiện nay<br />
Qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch<br />
sử, tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để đất nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong<br />
những năm tiếp theo. Tuy nhiên, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, tác<br />
động trực tiếp, tạo ra nhiều thời cơ và thách thức đối với nước ta. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân<br />
chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Việt Nam ở khu vực Đông Nam Á và rộng hơn là khu<br />
vực Châu Á - Thái Bình Dương, là một khu vực năng động nhất thế giới, đồng thời, đây cũng là<br />
khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn. Cuộc cách mạng<br />
32<br />
<br />
Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi với sự nghiệp đổi mới nước ta hiện nay<br />
<br />
khoa học - kỹ thuật hiện đại diễn ra mạnh mẽ trên thế giới đã tạo ra xu thế khách quan của thời đại,<br />
xu thế toàn cầu hóa. Điều đó, thúc đẩy các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. Ở trong<br />
nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế ngày càng được nâng<br />
cao. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.<br />
Đặc biệt, bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại, trong đó đáng quan tâm là nguy cơ tụt hậu<br />
xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các<br />
thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta…Sự nghiệp đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng đặt ra<br />
cho chúng ta nhiều vấn đề mới cả về lí luận và thực tiễn. Vì vậy, việc vận dụng tư tưởng nhân<br />
nghĩa của Nguyễn Trãi có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta hiện nay.<br />
2.2.1. Phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.<br />
Tư tưởng quần chúng nhân dân là chủ thể của lịch sử luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam coi<br />
trọng và vận dụng sang tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm qua, đặc biệt là<br />
trong công cuộc xây dựng xã hội mới hiện nay. Ngay từ Đại hội lần thứ VI, Đảng đã rút ra bốn bài<br />
học quan trọng, trong đó có bài học “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của<br />
nhân dân lao động” [7, tr. 29]. Vì vậy, Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, trong đó<br />
lấy trọng tâm là đổi mới kinh tế, giải phóng mọi nguồn lực sản xuất hiện có trong quần chúng nhân<br />
dân, phát huy hơn nữa quyền làm chủ của quần chúng nhân dân trong đời sống xã hội. Việc phát<br />
huy quyền làm chủ của nhân dân trong tình hình mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội được<br />
Đảng xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, của nền<br />
dân chủ xã hội chủ nghĩa.<br />
Trong các kỳ Đại hội lần thứ VII, VIII, IX, X, XI, XII Đảng luôn coi trọng phát huy nguồn<br />
sức mạnh của quần chúng nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đổi mới, nhất<br />
là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội lần thứ X, đã phát triển hoàn chỉnh<br />
hệ thống các chủ trương, chính sách nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, sức mạnh<br />
đại đoàn kết toàn dân tộc và nhấn mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là<br />
nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền<br />
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung,<br />
xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định và đồng thuận xã hội.<br />
Những thành tựu đạt được là minh chứng rõ ràng của sức mạnh quần chúng nhân dân. Quá<br />
trình đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, có nhân dân tham gia, nhân dân đồng<br />
tình hưởng ứng để tạo thành một sức mạnh tổng hợp của sự đoàn kết toàn Đảng, toàn dân vượt qua<br />
mọi khó khăn, trở ngại để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh,<br />
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng<br />
là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch<br />
sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.<br />
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân<br />
sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa<br />
và của Đảng” [9, tr. 65].<br />
Qua những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học kinh nghiệm quan<br />
trọng: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng<br />
tạo của nhân dân”. Rút ra bài học kinh nghiệm đó không chỉ là sự tổng kết của lịch sử dân tộc, của<br />
quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam và của quá trình đổi mới đất nước,<br />
mà còn là kim chỉ nam cho định hướng phát triển trong tương lai của dân tộc.<br />
2.2.2. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng phải xuất phát từ quyền lợi và lợi ích của nhân dân.<br />
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm tất cả quyền<br />
lực Nhà nước thuộc về nhân dân là vấn đề mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm thực hiện.<br />
Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của<br />
33<br />
<br />
Dương Trọng Hạnh<br />
<br />
nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân<br />
là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi<br />
mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được<br />
những thành tựu ngày hôm nay” [8, tr. 73]. Vì vậy, thực hiện đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân.<br />
Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại. Cần phải phát huy cao quyền làm chủ, sức<br />
sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần có<br />
những hình thức, cơ chế để phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực<br />
Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là chủ thể của quyền lực chính trị, quyền lực Nhà<br />
nước. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng,<br />
quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia góp ý kiến trong mọi khâu của<br />
quá trình, từ việc đưa ra quyết định đến tổ chức thực hiện. Xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện<br />
phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối với các chủ trương, chính sách lớn của<br />
Đảng và Nhà nước. Đại hội XII, Đảng đã quan tâm sâu sắc đến quyền lợi, lợi ích của nhân dân, đặc<br />
biệt là các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng<br />
sâu, vùng xa. Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với<br />
chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm để<br />
nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển<br />
đất nước” [10, tr.135 - 136].<br />
2.2.3. Coi việc chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung<br />
tâm, là thước đo và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối<br />
với nhân dân.<br />
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi nào người dân còn đói nghèo, cuộc sống chưa được no ấm,<br />
nơi nào dân còn chưa được hạnh phúc, nơi nào còn để nhân dân phải lo cái ăn, cái mặc và nơi nào<br />
chưa bảo đảm được y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục và nhà ở thì nơi đó tổ chức Đảng và chính<br />
quyền chưa hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ của mình trước nhân dân.<br />
Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống ấm no, hạnh phúc cho<br />
nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chăm lo đời sống nhân dân là một trong những mục<br />
tiêu then chốt của cách mạng.<br />
Trong hơn 30 năm đổi mới, các chủ trương chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng<br />
và Nhà nước luôn hướng tới đem lại hạnh phúc cho con người, bảo đảm sự ổn định và phát triển<br />
bền vững. Điển hình là công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta đã đạt được những thành tựu to<br />
lớn. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh từ 59% năm 1993 (theo chuẩn nghèo cũ) xuống còn 3,0% năm<br />
2016 (theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011 - 2015). GDP trên đầu người đã vượt qua mức thu<br />
nhập trung bình thấp (2.215 USD/ người/ năm) vào năm 2016.<br />
Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện cả kinh tế, xã hội và môi trường<br />
đang từng bước đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai. Những<br />
thành quả phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao dân trí,<br />
nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc đã góp phần xây dựng xã hội bình an, hạnh phúc, tươi đẹp.<br />
2.2.4. Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước thực hiện thắng lợi hai<br />
nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc<br />
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn khẳng định phương châm và định hướng lớn của<br />
hoạt động đối ngoại là: Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích<br />
cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.<br />
Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập<br />
quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình và tạo điều thuận lợi để phát triển đất nước. Phương hướng<br />
chung được Đảng ta xác định là: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ<br />
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã<br />
34<br />
<br />