intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng không gian đô thị hóa ở Trung Quốc: Chuyển dạng trên cơ sở đô thị mới và lấy đất làm trung tâm

Chia sẻ: Thảo Lê91 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

100
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Xây dựng không gian đô thị hóa ở Trung Quốc: Chuyển dạng trên cơ sở đô thị mới và lấy đất làm trung tâm. Nghiên cứu này phân tích những thay đổi đối với đất vi nông nghiệp của Trung Quốc trong mối quan hệ với sự tăng trưởng và những thay đổi về cơ cấu tại các thành phố Trung Quốc. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng không gian đô thị hóa ở Trung Quốc: Chuyển dạng trên cơ sở đô thị mới và lấy đất làm trung tâm

RETRODUCING SPACES OF CHINESE URBANISATION: NEW CITY-BASED AND LAND<br /> CENTERED URBAN TRANSFORMATION<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Xây dựng không gian đô thị hóa ở Trung Quốc: chuyển dạng trên cơ sở đô<br /> thị mới và lấy đất làm trung tâm<br /> <br /> <br /> George C. S. Lin<br /> <br /> Tóm tắt<br /> <br /> Hầu hết không gian dành cho đô thị hóa ở Trung Quốc vào những năm 1980 và 1990 đã bị chiếm dụng<br /> cho mục tiêu công nghiệp hóa và phát triển khu phố. Kể từ giữa những năm 1990, không gian đô thị của<br /> Trung Quốc đã bị tái tạo thông qua quá trình đô thị hóa trên cơ sở khu đô thị mới và lấy đất làm trung<br /> tâm trong đó các thành phố lớn đã thành công trong việc tái khẳng định vị thế dẫn đầu của họ trong một<br /> nền kinh tế ngày càng có tính cạnh tranh, quốc tế hóa và đô thị hóa. Nghiên cứu này phân tích những<br /> thay đổi đối với đất vi nông nghiệp của Trung Quốc trong mối quan hệ với sự tăng trưởng và những thay<br /> đổi về cơ cấu tại các thành phố Trung Quốc. Môt phân tích hệ thống về 3 nhóm thông tin chỉ ra mức độ<br /> day đặc và sự không đồng đều lớn của sử dụng đất phi nông nghiệp tại đất nwóc này. Trung quốc có 29,5<br /> triệu hecta đất phi nông nghiệp vào năm 1996, chỉ chiếm 3% diện tích đất toàn quốc. Hơn 80% lượng<br /> tăng lên của diện tích đất phi nông nghiệp là kết quả của sự mở rộng định cư ở thành thị và nông thôn,<br /> công nghiệp hóa và rất nhiều “khu phát triển”, đã đóng góp vào việc chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất<br /> nông nghiệp sang phi nông nghiệp. Cùng lúc, công nghiệp hóa nông thôn và sự bùng nổ nhà ở đã làm<br /> tăng các dạng phát triển đất phi nông nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Với tác động lan tỏa của động lực<br /> tiếp tục đô thị hóa và toàn cầu hóa, nỗ lực của nhà nước nhằm bảo vệ diện tích đất nông nghiệp đang<br /> ngày càng bị thu hẹp sẽ không đảo ngược xu hướng sử dụng đất phi nông nghiệp ngày càng tăng, nhưng<br /> có thể làm chậm tốc độ chuyển đổi đất. Những bằng chứng giai thoại kiểu “nhà ma” và đất không sử<br /> dụng tại rất nhiều “khu vực phát triển” bị khoanh vùng đã chỉ ra rằng có rất nhiều cách để Trung Quốc<br /> có thế sử dụng đất phi nông nghiệp của mình hiệu quả và kinh tế hơn từ trước tới nay.<br /> <br /> <br /> <br /> Giới thiệu<br /> <br /> Một trong những quá trình thay đổi thường thấy tại những quốc gia đang phát triển trải qua công nghiệp hóa và<br /> đô thị hóa là việc chuyển đổi kỳ lạ từ sản xuất nông nghiệp thành phát triển công nghiệp và đô thị (Healey và<br /> Barrett, 1990; Healey, 1991; Guy và Henneberry, 2000). Hầu hết mọi người đều tin rằng đô thị hóa có cả tác<br /> động trực tiếp và gián tiếp lên chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Mở rộng đô thị là một trong những tác động dễ<br /> nhận biết nhất của đô thị hóa lên sử dụng đất. Ít rõ ràng hơn, nhưng cũng quan trọng không kém là sự khác biệt<br /> trong lối sống của một xã hội được đô thị hóa, nơi tạo ra rất nhiều nhu cầu thị trường đối với việc lấy đất nông<br /> nghiệp sử dụng cho việc phát triển cơ sở vật chất công nghiệp, cơ sở hạ tầng giao thông, nhà ở và khu giải trí<br /> (Heilig, 1994 và 1997; Smil, 1999). Các địa điểm trung tâm, nơi có mật độ dân số cao và tập trung kinh tế điển<br /> hình của việc định cư tại đô thị, làm tăng giá trị sử dụng đất và cho thuê đất hơn rất nhiều so với đất ở khu vực<br /> nông thôn và tạo ra sự khác biệt thành thị- nông thôn, đủ để chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông thôn thành<br /> thành thị vì lý do lợi nhuận. (Ingram, 1998; Harvey và Jowsey, 2004; Zhou và Ma, 2000; Ding, 2004; Ho và<br /> Lin, 2004). Trong khi mối quan hệ giữa đô thị hóa và mục đích sử dụng đất phi nông nghiệp dường như rõ ràng,<br /> mắc độ đo thị hóa tác động tới sử dụng đất phi nông nghiệp và cách thức chúng tương tác nhằm tạo ra rất nhiều<br /> dạng không gian (spatial) trong các bối cảnh chính trị và địa lý vẫn chưa được biết đến một cách đầy đủ.<br /> <br /> Trung Quốc, một trong những nước đang phát triển lớn nhất đang trải qua những dịch chuyển kinh tế và không<br /> gian, đã chứng kiến sự đô thị hóa ngày càng nhanh sau kinh tế có cải tổ và tăng trưởng ổn định từ những năm<br /> 1980. Tài liệu về đô thị hóa của Trung quốc do đó tập trung nhiều hơn vào tăng trưởng và phân phối dân cư của<br /> Trung Quốc. Những nỗ lực quan trọng đã được thực hiện nhằm làm rõ cách Trung Quốc định nghĩa “dân cư đô<br /> thị”, phán đoán mức độ thực sự của đô thị hóa và làm rõ các dạng di cư phức tạp từ nông thôn ra đô thị (Ma và<br /> Cui, 1987; Goldstein, 1990; Zang và Zhao, 1998; Zhou và Ma, 2003, Chan và Hu, 2003; Pannell, 1990 và 2002;<br /> Ma, 2002; Solinger, 1999; Fan, 2003). Mặc dù có sự phát triển đất đai mạnh mẽ xuất phát từ mở rộng đô thị và<br /> đô thị hóa nông thôn, tài liệu về quy mô và các nguyên nhân chuyển đổi mục đích sử dụng từ nông nghiệp sang<br /> phi nông nghiệp tại quôc gia đang công nghiệp hóa một cách nhanh chóng này lại rất ít ỏi. Mặt khác, những<br /> nghiên cứu hiện nay về sử dụng đất tại Trung Quốc vào những năm gần đây chủ yếu chỉ quan tâm hoặc sự mất<br /> đi của đất trồng trọt để có đất làm thị trường (tái cơ cấu nông nghiệp), xây dựng, những đe dọa tự nhiên tại nông<br /> thôn hay cải cách nhà ở và thương mại hóa quyền sử dụng đất tại rất nhiều thành phố tại Trung Quốc (Ngân<br /> hàng Thế giới, 1993; Wu, 1996; Yeh và Wu 1996; Wang và Murie, 1999; Xie và các cộng sự, 2002; Zhu, 2002<br /> và 2005; Ding, 2004). Người ta tương đối ít hiểu biết về tác động của phát triển đô thị và đô thị hóa lên sử dụng<br /> đất một phần do thiết số liệu cần thiết và một phần do bản chất phức tạp của đối tượng.<br /> <br /> Tuy nhiên, vấn đề chuyển đổi đất từ nông nghiệp sang ngành phi công nghiệp nhằm phục vụ phát triển đô thị và<br /> công nghiệp thường đóng vài trò quan trọng đối với quốc gia và quốc tế. Trong khi những vấn đề liên quan tới<br /> số liệu sử dụng đất của Trung Quốc (như thiếu báo cáo về các khu vực canh tác và ít hoặc không có thông tin về<br /> sử dụng đất ph nông nghiệp) đã khiến việc tính toán chính xác thay đổi về sử dụng đất trở nên khó khăn, bằng<br /> chứng có sẵn thực sự chỉ ra sự phát triển to lớn về đất đô thị và công nghiệp thay vào vị trí đất nông nghiệp. Các<br /> thống kê chính thức của Trung Quốc chỉ ra rằng, từ năm 1978 đến 1995, tổng đất trồng trọt đã giảm nhanh<br /> chóng từ 99,39 xuống còn 94,97 triệu hectá trong khi tổng dân số tiếp tục tăng từ 962,59 triệu lên 1,21 tỷ người<br /> (CSSB, 1996, trang 69 và 335; Lin và Ho, 2003, trang 88). Sự sụt giảm diện tích đất trồng trọt đã đạt đỉnh điểm<br /> vào những năm 1980 khi trong 3 năm (1984- 86), Trung Quốc thông báo mất ròng 2,1 triệu hecta đất trồng trọt.<br /> Trong khi hầu hết số đất mất đi cần phải được hỗ trợ cho những thay đổi cơ cấu trong nông nghiệp (như chuyển<br /> từ đất trồng trọt thành rừng, đồng cỏ, vườn quả và hồ cá), hầu hết sự chuyển đổi là chuyển từ đất nông nghiệp<br /> sang phi nông nghiệp (Heilig, 1997; Ash và Edmonds, 1998, trang 847- 848; Smil, 1999, trang 425- 426; Ho và<br /> Lin, 2004a, trang 102). Những bức ảnh từ trên không và các hình ảnh vệ tinh chụp từ những năm 1980 và 1990<br /> cho thấy sự mở rộng nhanh chóng trong các khu vực xây dựng, định cư, đường phố và các khu phát triển công<br /> nghiệp (Y.Li, 2000; Yeh và Li, 1997; Lo, 2002; Weng và Wei, 2003; Xie và Fan, 2003). Sự mất đi hàng loạt<br /> của đất nông nghiệp vì mục đích sử dụng phi nông nghiệp đã khiến quốc tế lo ngại về khả năng Trung Quốc<br /> cung cấp thực phẩm cho nhân dân của họ và dẫn tới một “cuộc điện thoại báo thức” về an ninh lương thực đối<br /> với “hành tinh nhỏ” của chúng ta (Brown, 1995). Điều này nguy hiểm tới mức Hội đồng Nhà nước và Ủy ban<br /> Trung ương của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã tuyên bố vào tháng 5 năm 1997 tạm ngừng chuyển đổi sử dụng<br /> đất nông nghiệp trong vòng 1 năm, sau đó được kéo dài tới năm 1999.<br /> <br /> Nghiên cứu này đánh giá mức độ và loại hình thay đổi trong sử dụng đất phi nông nghiệp ở Trung Quốc trong<br /> thập niên vừa qua với việc tham chiếu đặc biệt tới tăng trưởng của các thành phố trong khu vực duyên hải, nơi<br /> đô thị hóa và thay đổi sử dụng đất là mạnh mẽ nhất. Mục tiêu của nghiên cứu là xác định dạng cấu trúc và<br /> không gian của thay đổi gần đây đối với sử dụng đất phi nông nghiệp tại Trung Quốc và nhằm đánh giá một<br /> cách chặt chẽ hơn tác động của đô thị hóa lên chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang phi nông nghiệp. Đặc biệt,<br /> nghiên cứu này nỗ lực tìm hiểu một số câu hỏi nghiên cứu dường như đơn giản, không lắt léo và cơ bản nhưng<br /> lại tương đối quan trọng. Trung Quốc có bao nhiêu đất cho các mục đích phi nông nghiệp khác nhau? Các mảnh<br /> đất này ở những địa điểm nào và có sự khác biệt giữa các địa điểm hay không? Số đất này đã thay đổi thế nào<br /> qua thời gian và tại sao? Đâu là xu hướng thay đổi sử dụng đất phi nông nghiệp trong thập kỷ qua dưới tác động<br /> của công nghiệp hóa, đô thị hóa và toàn cầu hóa nhanh chóng? Các nhân tố nào đã đóng góp vào sự chuyển đổi<br /> đất từ mục đích nông nghiệp sang phi nông nghiệp? Sự mở rộng của các thành phố lớn nhỏ đã tác động thế nào<br /> tới chuyển đổi đất? Mối quan hệ giữa đô thị hóa ở Trung Quốc và sự tăng trưởng đất phi nông nghiệp là gì?<br /> Cuối cùng, những chúng ta có được những bài học nào từ đánh giá tiên nghiệm nhằm quản lý và quy hoạch sử<br /> dụng đất tốt hơn tại quốc gia đông dân này, nơi mà cạnh tranh đất đai đã trở nên ngày càng căng thẳng? Những<br /> câu hỏi này có vai trò quan trọng không chỉ nhằm hiểu hơn về mặt lý thuyết về sự linh hoạt của thay đổi mục<br /> đích sử dụng đất trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển và đô thị hóa mà còn quan trọng đối với việc xây<br /> dựng các chính sách hiệu quả nhằm hỗ trợ sử dụng đất một cách hiệu quả và bền vững.<br /> <br /> Các định nghĩa, Số liệu, và Phương pháp luận<br /> Trước khi nghiên cứu tiếp tục được tiến hành, có rất nhiều khái niệm cần được làm rõ. Đối với mục đích phân<br /> tích số liệu, nghiên cứu này tuân theo kết hoạch phân loại đất chính thức của Trung Quốc trong đó toàn bộ đất<br /> được phân thành 3 loại theo mục đích sử dụng- được gọi là “đất nông nghiệp” (có nghĩa là đất sử dụng cho việc<br /> canh tác, vườn quả, vườn nho, đất trồng cây, trồng rau, rừng, đồng cỏ…), “đất xây dựng” (đất được sử dụng cho<br /> mục đích phi nông nghiệp) và “đất không sử dụng” (đất không phải là đất nông nghiệp hoặc phi nông nghiệp)<br /> (Trung Quốc, 1998, điều 4: Lin và Ho, 2005). Đất phi nông nghiệp do đó tương đương với “đất xây dựng” có<br /> nghĩa là đất được sử dụng cho việc định cư tại đô thị (các thành phố được công nhận chính thức và các khu phố<br /> được chỉ định), định cư ở nông thôn (các khu phố và làng không được chỉ định), giao thong (đường sắt, đường<br /> cao tốc, sân bay, cảng và đường nông thôn), các khu công nghiệp tách biệt (các khu công nghiệp và khu phát<br /> triển kinh tế bên ngoài khu vực dân cư) và các mục tiêu khác (đồng muối, nghĩa trang, khu quân sự…) (Y.Li,<br /> 2000; Ho và Lin, 2004a và 2004b). Đô thị hóa được định nghĩa là sự tăng tỷ lệ dân cư đô thị đối với tổng dân<br /> số. Tuy nhiên, định nghĩa liên tục thay đổi của Trung Quốc về dân cư đo thị đã dẫn tới việc mất phương hướng<br /> trầm trọng và các cuộc tranh cãi liên tục trong giới học thuật về việc cái gì chính xác là dân cư đô thị của Trung<br /> quốc và cách thức tính toán mức độ thự sự của đô thị hóa ở Trung Quốc. (Zhang và Zhao, 1998; Zhou và ma,<br /> 2003). Nhằm giảm thiểu sự bóp méo do những thay đổi hành chính tùy tiện, nghiên cứu này sử dụng thuật ngữ<br /> dân cư phi nông nghiệp (shiqu fei-nongye renkou) và khu xây dựng đô thị tại các khu phố ở đô thị (shiqu<br /> Jiangchengqu) như hai chỉ số cơ bản nhằm phân tích sự mở rộng của định cư tại thành thị và nhằm đánh giá tác<br /> động của việc định cư lên sử dụng đất phi nông nghiệp2.<br /> <br /> Định cư tại thành thị ở Trung Quốc bao gồm các thành phố và các khu phố được chỉ định chính thức3. Do thiếu<br /> số liệu có hệ thống về các khu phố được chỉ định, nghiên cứu này sẻ tập trung vào sự mở rộng của ác thành phố<br /> được công nhận một cách chính thức. Việc đánh giá thay đổi cấu trúc tại các thành phố Trung Quốc sẽ dựa trên<br /> một phương pháp đánh giá theo đó các nhóm ở tất cả các tahnhf phố trong 4 nhóm theo quy mô của dân số phi<br /> nông nghiệp tại khu phố thành thị, gọi là “rất lớn” (từ 1 triệu người trở lên), “lớn” 0,5- 1 triệu người), trung bình<br /> (từ 0,2 đến -,5) và nhỏ (dưới 0.2 triệu người). Thay đổi dạng không gian sẽ được phân tích trên khung địa lý<br /> thường được sử dụng, trong đó chia Trung Quốc thành 3 khu vực, được gọi là miền Đông, miền Trung và miền<br /> Tây.4<br /> <br /> Ba hệ thống số liệu được phân tích trong nghiên cứu này. Hệ thống đầu tiên được lấy ra từ khảo sát đất toàn<br /> quốc được thực hiện ở cấp độ hạt trong giai đoạn 81- 96, là khảo sát đầu tiên của dạng khảo sát này được thực<br /> hiện kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Trung Hoa (Y. Li, 2000; K. Ma 2000; Lin và ho, 2003). Số liệu có được<br /> từ khảo sát đất đai năm 1996 là số liệu có hệ thống nhất được tạo ra bởi các nhà chức trách về thống kê ở Trung<br /> Quốc cho tới nay. Họ xây dựng cơ sở thong tin quan trọng cho việc phân tích thành tố cấu trúc và sự phân bổ<br /> không gian của đất phi nông nghiệp Trung Quốc cũng như những thay đổi trong thập niên trước. Hệ thống số<br /> liệu thứ hai được thu thập từ niên giám thống kê về thanh thị của Trung Quốc. Bắt đầu từ năm 1985, Cục Thống<br /> kê Quốc gia Trung Quốc đã xuất bản số liệu thống kê về thành thị hang năm đối với tất cả các thành phố được<br /> chính thức công nhận là đô thị (CSSB, 1985). Những số liệu về đô thị được xuất bản chính thức này không phải<br /> hoàn toàn nhất quán và không có lỗi. Trên thực tế, chúng cần được sử dụng với sự thận trọng tối đa và cần kiểm<br /> tra chéo với các nguồn thong tin khác, Tuy nhiên, những thống kê đô thị này cung cấp một nguồn hữu dụng<br /> nhằm giúp hiểu đwọc không chỉ sự mở rộng về đất đai và dân cư của các thành phố hiện có mà con là sự bổ<br /> sung hoặc loại bỏ những thành phố theo thời gian và qua không gian (Fan, 1999; Lin 2002).<br /> <br /> Hệ thống số liệu cuối cùng bắt nguồn từ quá trình xử lý của chúng tôi đối với các hình ảnh vệ tinh được chụp<br /> đối với một số địa điểm vào hai thời điểm khác nhau. Chúng tôi đã chọn Quảng Châu để là nghiên cứu điển<br /> hình đối với thay đổi trong sử dụng đất tại một thành phố rất lớn (chaoda chengshi) đang diễn ra quá trình đô thị<br /> hóa và toàn cầu hóa. Chúng tôi cũng lựa chọn Hefei làm ví dụ cho thành phố rất lớn (teda) tại một tỉnh tương<br /> đối nghèo ở Anhui và khu vực thành phố Wuxi làm ví dụ cho khu vực đang đô thị hóa nhanh chóng của những<br /> khu định cư đô thị nhỏ hơn. Các hình ảnh vệ tinh được xử lý và phân tích được chụp vào mùa đông những năm<br /> 1980 và năm 2000 (xem Phụ lục). Cần lưu ý ngay từ đầu răng những phân tích đối với những ví dụ được lựa<br /> chọn này không phải nhằm mục đích rút ra bất kỳ ứng dụng chung chung nào cho tất cả các thành phố của<br /> Trung Quốc. Mục đích chỉ đơn giản là hiểu cụ thể hơn cách thức trong đó đo thị hóa đã tác động tới những thay<br /> đổi trong sử dụng đất nông nghiệp tại các khu vực địa lý khác nhau. Bằng việc tập trung vào các ví dụ ở duyên<br /> hải miền Đông, nơi tác động của toàn cầu hóa có thể được cảm nhận rõ ràng hơn ở bất kỳ đâu khác, chúng tôi<br /> hy vọng rằng nghiên cứu này có thể tạo ra những cái nhìn sâu sắc quan trọng đói với sự tác động lẫn nhau giữa<br /> các lực lượng đô thị hóa, toàn cầu hóa và chuyển đổi mục đích sử dụng đất.<br /> Phần còn lại của tài liệu này được chia làm 3 phần. Bắt đầu với phân tích phê bình đối với các tài liệu hiện thời<br /> về đô thị hóa ở Trung Quốc, với việc tham chiếu đặc biệt tới những nghiên cứu trước đó về “đô thị hóa nhìn từ<br /> dưới” và tác phẩm gần đây hơn về chính trị tại đô thị mới trên cơ sở thành phố và lấy đất làm trung tâm. Phần<br /> tiếp theo của tài liệu là nghiên cứu tiên nghiệm đối với 3 bộ số liệu được xác định trước đó, bao gồm viẹc đánh<br /> giá các đặc điểm về cấu trúc và không gian của sử dụng đất phi nông nghiệp ở Trung Quốc cũng như xu hướng<br /> thay đổi của nó, một nghiên cứu thận trọng về sự tăng trưởng của dân số phi nông nghiệp và khu vực xây dựng<br /> đô thị trong hệ thống thành phố của Trung Quốc trong suốt giai đoạn từ 1984 tới 1996 khi có sẵn số liệu có thể<br /> so sánh5, và phân tích số liệu của chúng tôi có được từ việc xử lý các hình ảnh vệ tinh được lấy từ 3 thành phố<br /> được lựa chọn từ những năm 1980 đến năm 2000. Tài liệu được kết thúc bởi tổng kết những phát hiện của<br /> nghiên cứu và thảo luận ý nghĩa của nó đối với việc hoạch định chính sách.<br /> <br /> Hiểu về đô thị hóa ở Trung Quốc: Hướng tới cấu trúc trên cơ sở thành phố và lấy đất làm trung tâm đối<br /> với chính sách đô thị mới<br /> <br /> Ngày nay, người ta đều hiểu rằng kể từ giữa những năm 1980, Trung Quốc đã lao vào con đường kiên định và<br /> tăng cường đô thị hóa sau những cải cách thị trường và sự gắn kết ngày càng cao với các nguồn lực toàn cầu<br /> hóa. Cuộc điều tra dân số quốc gia gần đây nhất được thực hiện vào năm 2000 đã cho thấy một dạng tăng tốc độ<br /> đô thị hóa ở một quy mô và tốc độ chưa từng có tại quốc gia này và không giống với bất kỳ nơi nào trên trái đất<br /> (Pannell, 2002; Lin, 2002; Zhou và Ma, 2003). Cùng với rất nhiều yếu tố khác, cuộc điều tra đã xác định tổng<br /> dân số đô thị là 456 triệu và một mức độ đô thị hóa 36%. Mặc dù những thay đổi liên tục về định nghĩa chính<br /> thức của việc định cư ở đô thị đã khiên việc đưa ra tính toán chính xác về quy mô đô thị hóa, những tính toán<br /> khoa học nghiêm túc đã đưa ra tính toán chính thức là “một con số hợp lý” không quá xa rời so với thực tiễn<br /> (Zhou và Ma, 2003, trang 176; Chan và Hu, 2003, trang 64). Nếu điều này là đúng, tốc độ tăng dân số thành thị<br /> của Trung Quốc gần như là bấp ba và mức độ đô thị hóa gần gấp đôi6. Điều này tương phản mạnh mẽ với dạng<br /> liên quan tới đô thị (urban involution) hay công nghiệp hóa mạnh mẽ song song với đô thị hóa có kiểm soát đặc<br /> trưng cho giai đoạn tiền cải cách ở Trung Quốc khi mức độ đô thị hóa tăng nhẹ từ 11% lên 18% trong vòng 30<br /> năm.<br /> <br /> Trong khi dạng đô thị hóa nhanh chóng này được chứng minh bởi Trung Quốc hậu cải cách dường như là hiển<br /> hiên và được thừa nhận rộng rãi, những quá trình đằng sau nó vẫn còn mơ hồ và khó nắm bắt, một phần bởi<br /> “mục tiêu di động” liên tục thay đổi một cách thường xuyên ở tóc độ cao khiến việc nắm bắt trở nên khó khăn<br /> và một phần vì Trung Quốc có tính “lai” và phụ thuộc vào đường lối trong đó không có mô hình lý thuyết được<br /> chấp nhận rộng rãi nào có mối quan hệ trực tiếp. Tăng trưởng và những thay đổi cơ cấu cảu “thành phố Trung<br /> Quốc mới” đã được nghiên cứu một cách rộng rãi (Logan, 2002; Ma và Wu, 2005). Thông qua việc so sánh,<br /> tương đối ít điều được viết ra nhằm làm ssáng tỏ những quá trình bên trong của đô thị hóa. Tuy nhiên, những nỗ<br /> lực quan trọng gần đây đã được thực hiện nhằm đánh giá những thay đổi về dân cư đô thị và đô thị hóa, sự tăng<br /> di cư từ nông thôn ra thành thị và những tác động của công nghiệp hóa nông thôn, phát triển khu phố, tái cơ cấu<br /> nhà nước (state reconfiguration) và toàn cầu hóa ở Trung Quốc lên quá trình đô thị hóa (Pannell, 2002; L. Ma,<br /> 2002; Zhou và Ma, 2003; Chan, 1994; Fan, 1999 và 2003; Lin, 1998 và 2001; Ma và Cui, 2002; Shen và các<br /> cộng sự, 2002). Những nỗ lực đáng khen ngợi này phải được hiểu và đánh giá trong bối cảnh thực tiến đô thị<br /> thay đổi nhanh chóng tại Trung Quốc.<br /> <br /> Những cải cách kinh tế của Trung Quốc bắt đầu tại nông thôn vào năm 1978. Những quá trình mới bao gồm<br /> việc tái cơ cấu không gian và ngành của dân cư nông thôn theo sau những cải cách kinh tế nông thôn ngay lập<br /> tức đã hấp dẫn sự chú ý của các học giả quan tâm tới đô thị hóa ở Trung Quốc. Việc áp dụng hệ thống trách<br /> nhiệm sản xuất hộ gia định nông thôn gắn liền với đầu ra đã thúc đẩy nhiệt tình sản xuát của nông dân một cách<br /> đáng kể và làm tăng sản lượng. Một trong những kết quả của tăng sản lượng là sự nổi lên của một lực lượng lao<br /> động nông thôn giàu có không cần phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp nữa và cần phải được chuyển đổi thành<br /> các ngành phi nông nghiệp và có thể là dân cư đô thị. Chính quyền hậu cải cách đã đáp ứng tình hình mới này<br /> với việc thả lỏng một phần sự điều chỉnh đối với di cư từ nông thôn ra thành thị. Trong khi việc di cư ra các<br /> thành phố, đặc biệt là các thành phố lớn, vẫn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ, di cư ra một số khu phố<br /> nhỏ lân cận đã khả thi kể từ năm 1984 khi nhà nước cho phép các nông dân vào các khu phố để định cư ới điều<br /> kiện họ sẽ tự thỏa mãn những nhu cầu của mình đối với gạo và các phúc lợi khác và không tạo ra gánh nặng cho<br /> nhà nước. Kết quả là đã có hiện tượng đô thị hóa nhanh chóng không dựa quá nhiều vào các thành phố hoặc các<br /> thành phố lớn mà dựa vào rất nhiều khu phố nhỏ nằm rải rác tại các khu vực nông thôn rộng lớn. Trong lúc đó,<br /> các doanh nghiệp làng và phố tại nền kinh tế nông thôn đã phát triển nhanh chóng để trở thành đại lý chính cung<br /> cấp nơi ở cho lực lượng lao động nông thôn. Kết quả kết hợp của đô thị hóa dựa trên cơ sở phố này và đo thị<br /> hóa tại nông thôn đã trở thành đô thị hóa ở cấp độ cơ bản nhất, giúp tăng ý niệm về đô thị hóa từ dưới lên (Ma<br /> và Lin, 1993; Ma và Fan, 1994; Ma và Cui, 2002). Do những khu phố này tiếp tục phát triển, rất nhiều trong số<br /> đó đã đạt hoặc vượt qua ngưỡng chính thức để được coi là một thành phố và thự sữ đã được nâng cấp thành<br /> thành phố nhỏ. Điều này dẫn tới việc tái cơ cấu hệ thống đô thị Trung Quốc nhằm tạo thuận lợi cho sự tăng<br /> trưởng của các thành phố nhỏ và khu phố. Dựa trên cuộc điều tra thực hiện vào năm 1987, rất nhiều nghiên cứu<br /> đã tìm ra những con phố đã twngf là điểu đến quan trọng nhất cho việc di cư nông thôn- thành thị, chấp nhận<br /> 41% lượng di cư từ nông thôn ra than thị trong giai đoạn 1982- 1987, cao hơn con số được chấp nhận bởi các<br /> thành phố (33%) và vùng quê (26%) (Ma và Lin, 1993, trang 595). Điều tra này tập trung quá nhiều vào việc<br /> nghiên cứu về kinh tế và dân số và ít quan tâm tới vấn đề đất đai với vai trò là một phần không thể thiếu trong<br /> sự nổi lên của đô thị hóa từ dưới lên.<br /> <br /> Tuy nhiên, kể từ giữa những năm 1990, một làn sóng đô thị hóa mới, hay chính xác hơn, một cuộc cách mạng<br /> thành thị trên cơ sở thành phố và lấy đất làm trung tâm, đã dần diễn ra qua đó các thnh phố, đặc biệt là các<br /> thành phố lớn, đã thành công nhanh chóng trong việc nâng cấp và mở rộng môi trường xây dựng đô thị như một<br /> công cụ tái khẳng định vị thế trung tâm của họ trong nền kinh tế Trung Quốc đô thị hóa và quocó tế hóa nhanh<br /> chóng. Một hướng nghiên cứu và các ấn phẩm đã được tung ra nhằm dẫn chứng bằng tài liệu khía cạnh mới này<br /> của đô thị hóa và giải thích tầm quan trọng của nó. Trong xu hướng ấn phẩm này, sự nổi lên của Thượng Hải<br /> như “đầu con rồng” của Trung Quốc đã nhận được sự chú ý rộng khắp, mặc dù sự tăng trưởng và chuyển đổi<br /> ngoạn mục của các thành phố lớn khác như Bắc Kinh và Quảng Châu cũng được nhắc đến một cách rộng rãi<br /> (Gaubatz, 1999; Wu và Yeh, 1999; F. Wu, 2000 và 2003; Yusuf và Wu, 2002; W. Wu, 2004; Lin, 2004). Mặc<br /> dù có những biến đổi lớn trong quá trình phát triển của địa phương, một đặc điểm chung được xác định đối với<br /> quá trình đô thị hóa ở các thành phố là sự áp dung chiến lược “tạo ra không gian” và “xúc tiến không gian”<br /> trong đó phát triển đô thị hóa thông qua việc nâng cấp và mở rộng môi trường xây dựng đô thị được nhìn nhận<br /> và sử dụng như một phương pháp nhằm đáp ứng cạnh tranh gay gắt trên khu vực và thế giới (F. Wu, 2000 và<br /> 2003; Yusuf và Wu, 2002; Han và Wang, 2003; Zhu, 2002 và 2005). Trung tâm của theo đuổi đô thị hóa ở<br /> thành phố dưới dạng “tạo ra không gian” và “xúc tiễn không gian” là sự tận dụng đất đô thị như một nguồn tạo<br /> vốn (Xu và Yeh, 2005; Hsing, 2006; Lin, 2007). Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, như một kết quả của cả việc<br /> phi tập trung hóa tài khóa và những thay đổi về thể chế đối với thị trường đất, các chính quyền thành phố không<br /> còn phụ thuộc vào phân bổ ngân sách nhằm phục vụ cho các dự án phát triển đô thị và phải cấp vốn trên đất đai<br /> mà họ có quyền trưng thu, phân bổ và/hoặc chuyển đổi mục đích (Wong và Zhao, 1999; Zhu 2002; Ho và Lin,<br /> 2003; Yeh, 2005). Đây không phải là điều ngạc nhiên vì đất, không giống tài chính và lao động, là tài sản cố<br /> định duy nhất nằm dưới sự điều chỉnh của chính quyền thành phố. Hơn thế, chiến lược hiện nay về thương mại<br /> hóa một phần đối với đất đai trong đó các tài sản còn lại từ thời phân bổ đất miến phí dưới dạng hành chính<br /> cùng tồn tại với cơ chế thị trường mới được đưa ra về mua bán chuyển nhwọng quyền sử dụng đất đã tạo ra bất<br /> đối xứng lợi ích (profitable asymmetry) và các cơ hội lợi nhận cho các chính quyền thành phố khai thác (Yeh<br /> và Wu, 1996; Lin và Ho, 2005; Smart và tang, 2005). Người ta đã thấy rằng ở rất nhiều thành phố, việc bán đất,<br /> hay chính xác hơn là việc cho thuê quyền sử dụng đất, đã đóng góp từ 30 đến 70% doanh số của thành phố và<br /> do đó đã trở thành nguồn cung cấp tài chính chủ yếu cho phát triển đô thị (Ho và Lin, 2003; zhu, 2005). Chính<br /> sách “đô thị dựa trên cơ sở đất đai” này đã được xác định một cách chính xác bởi rất nhiều nhà nghiên cứu đô<br /> thị như một trong những động lực quan trọng vận hành đằng sau sự mở rộng ngoạn mục của các thành phố, đặc<br /> biệt là các thành phố lớn, và sự nổi lên của các đô thị làm hình thành các thành phố mới kể từ giữ những năm<br /> 1990.<br /> <br /> Trong khi bản chất phức tạp và luôn thay đổi của các quá trình đô thị hóa ở Trung Quốc đã được hiểu rõ hơn<br /> nhờ có những nghiên cứu liên tục, rất nhiều vấn đề về lý thuyết và thực tiễn vẫn chưa được nghiên cứu một<br /> cách hệ thống. Tài liệu trước đây về đô thị hóa nông thôn tập trung vào việc hấp thụ và di chuyển của lực lượng<br /> lao động nông thôn dư thừa và không đề cập đến vấn đề đất đai- mặc dù thực tế là đất đai, cùng với vốn và lao<br /> động, luôn là một trong những nhân tố quan trọng của sản xuất. Mặt khác. Ngheien cứu gần đây về chính sách<br /> đô thị dựa tren cơ sở đất đai và đô thị hóa ở thành phố đã được đưa ra chủ yếu trên cơ sở những nghiên cứu điển<br /> hình và phỏng vấn có lựa chọn mà không đưa ra bức tranh toàn cảnh trên quy mô quốc gia một cách có hệ<br /> thống. Hơn thế phương pháp tiếp cận được áp dụng là phân tích thực trạng tại một thời điểm mà không so sánh<br /> cần thiết giữa các giai đoạn do những khó khăn trong việc thu thập số liệu thống nhất và có thể so sánh. Về mặt<br /> địa lý, hầu hết những quá trình nghiên cứu gần đây về đô thị hóa lấy đất làm trung tâm và trên cơ sở thành phố<br /> tập trung vào thị trường đất đô thị và chưa quan tâm đủ đến quy mô và cáchc thức trong đó đất được chuyển từ<br /> quỹ nông thôn thành các tài sản phát triển đô thị giá trị. Do đất thành thị và đất nông thôn có mối quan hệ với<br /> nhau, sẽ không thể hiểu được các quá trình đo thị hóa mà không xem xét tính năng động của chuyển đổi đất một<br /> cách có hệ thống. Thông qua việc phân tích kết hợp 3 bộ thông tin có được tại các quy mô thành phố và quốc<br /> giatại 2 thời điểm, nghiên cứu này nỗ lực lấp đầy thực thể đang phát triển của các nghiên cứu hiện nay về các<br /> quá trình đô thị hóa ở Trung Quốc. Mục đích ở đây không phải là phân tích các quá trình thu hút vốn hay huy<br /> động vốn bằng đất phức tạp của địa phương, cũng không nhằm nghiên cứu về các quá trình cạnh tranh quyền<br /> lực liên quan tới các mức độ và các bộ phận khác nhau của nhà nước xã hội chủ nghĩa này, do những điều này<br /> đã được nghiên cứu trong rất nhiều tài liệu khác. Thay vì đó, mục tiêu của nghiên cứu này đơn giản là xác định<br /> và giới thiệu một bức tranh toàn cảnh về thay đổi sử dụng đất tại các mức độ thành phố và quốc gia với vai trò<br /> vừa là một kết quả, vừa là một phần không thể thiếu của các quá trình liền kề nhau của đô thị hóa ở Trung<br /> Quốc.<br /> <br /> Thay đổi sử dụng đất trong đô thị hóa ở Trung Quốc- Đánh giá tiên nghiệm<br /> <br /> Cho tới gần đây, các nhà chức trách trung ương Trung Quốc và giới học thuật đã có những quan tâm lớn tới<br /> việc tính toán đất canh tác và những ý nghĩa của nó đối với an ninh lương thực quốc gia và quốc tế (Brown,<br /> 1995; Heilig, 1997; Ash và Edmonds, 1998; Smil, 1999; Lin và Ho, 2003). Mặc dù đất phi nông nghiệp đã trải<br /> qua những thay đổi lớn trong những thập niên gần đây sau công nghiệp hóa nhanh chóng và đô thị hóa ngày<br /> càng tăng, vẫn chưa có thông tin thống kê chỉ ra chính xác Trung Quốc có bao nhiêu đất phi nông nghiệp, chúng<br /> nằm ở đâu và đẫ thay đổi như thế nào teho thời gian. Cho tới năm 2000, Trung Quốc mới xuất bản những kết<br /> quả của nghiên cứu đất đai quốc gia đầu tiên, từ đó người ta có được các thông tin quan trọng. Bảng 1 chỉ ra<br /> phân bổ không gian và cấu trúc của đất phi nông nghiệp tại Trung Quốc dựa trên những kết quả của cuộc điều<br /> tra đất đai năm 1996.<br /> <br /> Trung Quốc có tổng diện tích đất phi nông nghiệp là gần 30 triệu hecta, nhỏ hơn rất nhiều so với đất nông<br /> nghiệp (634 triệu hecta) hay đất không sử dụng (245 triệu hecta). Trên thực tế, đất phi nông nghiệp chỉ chiếm<br /> 3% lãnh thổ quốc gia mặc dù thực tế rằng dân số phi nông nghiệp chiếm tới 24% tổng dân số trong cùng năm.<br /> Với thực tế rằng đất phi nông nghiệp được sử dụng cho rất nhiều mục đích (thành phố và khu phố, định cư nông<br /> thôn, và đường nông thôn, giao thông…), lượng và phần trăm tương đối nhỏ đất được sử dụng cho mục đích phi<br /> nông nghiệp chỉ ra mật độ và cường độ tương đối cao của các hoạt động phi nông nghiệp trong quốc gia đông<br /> dân nay. Do quá trình đô thị hóa đô thị hóa nhanh vẫn tiếp tục, có áp lực ngày càng cao đối với Trung Quốc<br /> trong việc hoặc sử dụng đất phi nông nghiệp hiện tại một cách hiệu quả hơn, hoạc chuyển đất nông nghiệp<br /> thành đất phục vụ mục tiêu phi nông nghiệp.<br /> Bảng 1. Các dạng sự dụng đất ở Trung Quốc năm 1996 theo khu vực<br /> <br /> Trung Quốc Đông Trung Quốca Trung Trung Quốcb Tây Trung Quốcc<br /> <br /> Phần trăm Phần trăm Phần trăm Phần trăm<br /> <br /> Diện tích Tổng Tổng Diện tích Tổng Tổng Diện tích Tổng Tổng Diện tích Tổng Tổng<br /> (dặm phụ (dặm phụ (dặm phụ (dặm phụ<br /> vuông) vuông) vuông) vuông)<br /> <br /> Tổng diện tích 9506762 100.00 1 318 091 100.00 2 815 902 100.00 5 371 960 100.00<br /> <br /> Đất nông nghiệp 6337365 66.66 100.00 934 192 70.83 100.00 2 224 323 78.99 100.00 3 178 850 59.17 100.00<br /> <br /> Đất canh tác 1300392 13.68 20.52 369 559 28.02 39.56 561 189 19.93 25.23 369 645 6.88 11.63<br /> <br /> Đất nông nghiệp khác 5036973 52.98 79.48 564 633 42.81 60.44 1 662 134 59.06 74.77 2 809 205 52.29 88.37<br /> <br /> Yuan did 100238 1.05 1.58 55 145 4.18 5.90 22 215 0.79 1.00 22 878 0.43 0.72<br /> <br /> Rừng 2276087 23.94 35.92 488 685 37.05 52.31 915 574 32.51 41.16 871 828 16.23 27.43<br /> <br /> Đồng cỏ 2660648 27.99 41.98 20 803 1.58 2.23 725 345 25.76 32.61 1 914 499 35.64 60.23<br /> <br /> Đất phi nông nghiệp 295430 3.11 100.00 110 019 8.34 100.00 117 540 4.17 100.00 67 871 1.26 100.00<br /> <br /> Thành phố và phố 26502 0.28 8.97 12 521 0.95 11.38 9 736 0.35 8.28 4 245 0.08 6.25<br /> <br /> Định cư nông thôn 164558 1.73 55.70 58 001 4.40 52.72 69 182 2.46 58.86 37 375 0.70 55.07<br /> <br /> Các khu công nghiệp 27688 0.29 9.37 13 789 1.05 12.53 9 557 0.34 8.13 4 342 0.08 6.04<br /> và phát triển<br /> <br /> Giao thông 54677 0.58 18.51 18 371 1.39 16.70 23 059 0.82 19.62 13 247 0.25 19.52<br /> <br /> Đường sắt 3230 0.03 5.91 931 0.07 5.07 1 721 0.06 7.46 579 0.01 4.37<br /> <br /> Đường cao tốc 13263 0.14 24.26 4 860 0.37 26.45 4 696 0.17 20.36 3 707 0.07 27.99<br /> <br /> Đường nông thôn 37730 0.40 69.01 12 339 0.94 67.17 16 548 0.59 71.77 8 843 0.16 66.75<br /> <br /> Khác 454 0.00 0.83 241 0.02 1.31 94 0.00 0.41 118 0.00 0.89<br /> <br /> Khác 22005 0.23 7.45 7 336 0.56 6.67 6 007 0.21 5.11 8 661 0.16 12.76<br /> <br /> Diện tích nước 423088 4.45 117 755 8.93 139 083 4.94 166 251 3.09<br /> <br /> Đất không sử dụng 2450879 25.78 156 935 11.90 334 995 11.90 1 958 989 36.47<br /> Khi số liệu được đưa ra trong bảng 1 được nghiên cứu kỹ hơn, hai điểm bổ sung có thể được xác định. Thứ nhất<br /> người sử dụng đất phi nông nghiệp ở Trung Quốc chủ yếu ở nông thôn. Định cư ở nông thôn và những con<br /> đường nông thôn chiếm hơn 2/3 diện tích đất cho những mục đích phi nông nghiệp. Định cư ở thành thị chỉe chỉ<br /> chiếm 9% và các khu công nghiệp tách biệt chiếm 9% còn lại (xem bảng 1). Dạng này thống nhất với phân phối<br /> dân cư, với hơn 70% dân số sống ở nông thôn vào năm 1996. Nó cũng có nghĩa là tăng trwỏng và địa điểm của<br /> đất phi nông nghiệp ở Trung Quốc không chỉ hạn chế ở các khu định cư đô thị được xác lập. Công nghiệp hóa<br /> và đô thị hóa, bao gồm cả cuộc bùng nổ nhà ở gần đây, là các nhân tố hình thành nên sự tăng sử dụng đất phi<br /> nông nghiệp, và có tầm quan trọng như, nếu không muốn nói là hơn. Sự mở rộng của các khu định cư ở đô thị<br /> (Yeh và Li, 1997; Ho và Lin, 2003; Lin và Ho, 2005).<br /> <br /> Thứ haicó những khác biệt vùng tương đối xét trên cách thức sử dụng đất phi nông nghiệp. Đất phi nông nghiêp<br /> với vai trò là một phần của tổng đất chiếm tỉ lệ cao nhất ở duyên hải miền Đông (8,34%) và giảm ở miền Trung<br /> (4,17%) và miền Tây (1,26%), Trong số đất phi nông nghiệp, Đông Trung Quốc chiếm tỷ lệ cso hơn đối với đất<br /> được sử dụng cho phát triển đô thị và đô công nghiệp hơn so với các khu vực miền Trung và miền Đông (Bảng<br /> 1). Điều này không quá ngạc nhiên do cách thức đất được sử dụng phụ thuộc vào mật độ dân số và mức độ phát<br /> triển kinh tế . Đông Trung Quốc có mật độ dân số cao gấp hơn 2,5 lần so vớiTrung Trung Quốc và gần 8 lần so<br /> với Đông Trung Quốc vào năm 1996. GDP trên đầu người ở Đông Trugn Quốc cao hơn miền Đông Trung Quốc<br /> khoảng 80%. Nếu coi những nhân tố khác bằng nhau, mật độ dân số cao hơn và kinh tế khu vực phát triển hơn<br /> sẽ tạo ra nhu cầu sử dụng đất lơn hơn cho phát triển đô thị và công nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, Đô<br /> Trung Quốc cũng đóng góp một tỷ lệ cao hơn (40%) đất nông nghiệp của họ dành cho canh tác so với miền<br /> Trung (25%) và miền Tây (12%). Tác động kết hợp của các dạng thức này có nghĩa là có độ căng thẳng và cạnh<br /> tranh giữa nhu cầu đất canh tác và đất phi nông nghiệp ở Đông Trung Quốc, nơi dân số, đất định cư thàh thị và<br /> các hoạt động công nghiệp có tính tập trung cao.<br /> <br /> Đất phi nông nghiệp của Trung Quốc đã thay đổi như thế nào theo thời gian? Việc đưa ra tính toán chính xác về<br /> quy mô và nguồn gốc những thay đổi trong đất phi nông nghiệp là khó khăn do số liệu cụ thể từ nghiên cứu đất<br /> đai năm 1996 là sẵn có chỉ với 1 năm. Tuy nhiên, khảo sát đất đai quốc gia thực ra đã đwọc thực hiện trên các<br /> hạt và khu vực trong suốt giai đoạn 1984- 1996, dẫn tới 2 hệ thống số liệu tại những thời điểm khác khau- một<br /> số bộ số liệu thô tại các thời điểm khác nhau từ năm 1984 tới 1995 và bộ thông tin điều tra dân số chuẩn hóa đã<br /> sử dụng thông tin thô nhằm điều chỉnh thay đổi sử dụng đất từ cuộc khảo sát ngày 31 tháng 10 năm 1996.<br /> Chúng tôi tin rằng bộ số liệu thô tương ứng với dạng sử dụng đất vào năm 1990 và bộ số liệu điều tra chuẩn hóa<br /> được điều chỉnh cho năm 1996. Thông qua việc so sánh 2 bộ thông tin này, những thay đổi đối với đất phi nông<br /> nghiệp có thể được xác định. Bảng 2 đưa ra những kết quả của 2 bộ thông tin và so sánh thống kế đất trong<br /> những nhóm 1 chữ số. Từ năm 1990 tới 1996, đất phi nông nghiệp của Trung Quốc đã tăng 2,3 triệu hecta hay<br /> 8,5%, đây là mức tăng đáng kể chỉ trong vòng 5 năm. Trong cùng giai đoạn đó, đất canh tác giảm 4,8 triệu hécta<br /> hay gần 3%. Ngoài tái cơ cấu nông nghiệp, một lượng lớn đất canh tác bị mất nhằm phục vụ mục tiêu phi nông<br /> nghiệm, chiếm 2/3 lượng đất canh tác bị mất ở Đông Trung Quốc, đặc biệt là Bắc Kinh, Thiên Tân, Thương<br /> Hải, Hà Bắc, Sơn Đông, Jiangsu, Zhejiang và Fujian (Y. Li, 2000, trang 159). Nghiên cứu gần đây về khu<br /> vực thủ phủ của Jinan ở Sơn Đông đã kết luận rằng, trong số 12.682 hecta đát xây dựng được phát triển từ<br /> 1987 đến 1997, 54% được chuyển đổi từ đất canh tác (Dou và các cộng sự, 2000, Trang 42). Số liệu được đưa<br /> ra trong bảng 2 cũng chỉ ra sự sụt giảm với đất không sử dụng tới gần 3 triệu hecta. Tuy nhiên, sẽ là sai nếu cho<br /> rằng sự tăng đất phi nông nghiệp là hậu quả của sự sụt giảm đất không sử dụng. Điều này là rõ ràng khi chia<br /> tổng đất quốc gia thành các vùng. Hầu hết lượng tăng đất phi nông nghiệp diễn ra tại các khu vực phát triển<br /> kinh tế tại miền Đông và miền Trung, trong khi hơn 80% đất không sử dụng bị tịch thu lại nằm ở miền Tây<br /> Trung Quốc. Nói cách khác, sự mở rộng khu vực đất phi nông nghiệp chủ yếu phải đánh đổi bằng đất canh tác<br /> tại miền Đông và miền Trung Trung Quốc chứ không phải đất không sử dụng ở miền Tây7.<br /> Bảng 2: Những thay đổi sử dụng đất từ năm 1990 đến 1996 (Hecta)<br /> <br /> Đất phi nông nghiệp<br /> <br /> Đất nông nghiệp Tổng phụ Các khu Giao Diện tích Đất không<br /> định cư, thông mặt nước sử dụng<br /> công<br /> Năm Tổng diện Tổng phụ Đất canh tác Yuan di Rừng Đồng cỏ<br /> nghiệp và<br /> tích<br /> mỏ<br /> <br /> Trung<br /> Quốc<br /> <br /> 1990 950650010 663906887 134890239 8041792 225358379 265616748 27218854 22198289 5020565 41442398 248081872<br /> <br /> 1996 950676195 633736518 130039229 10023796 227608719 226064775 29542982 24075286 5467695 42308827 245087868<br /> <br /> Thay 0 0 -4 25 1 0 9 8 9 2 -1<br /> đổi,<br /> 1990-<br /> 1996<br /> <br /> Phần<br /> trăm<br /> thay<br /> đổi<br /> 1990-<br /> 96<br /> <br /> Đông<br /> <br /> <br /> 1990 131863934 93810316 38821234 6648602 48237376 2103376 10005983 8344075 1661097 11573152 16474484<br /> <br /> 1996 131890053 93419224 36955888 5514545 48 868495 1080297 11001852 9164773 1837079 11775492 15693485<br /> <br /> Thay 26119 -391092 - 1865346 865943 631118 - 22 807 995 869 820 698 175 171 202 340 - 780 999<br /> đổi<br /> 1990-<br /> 96<br /> <br /> Thay 0 0 -5 19 1 -1 10 10 11 2 -5<br /> đổi %<br /> 1990-<br /> 96<br /> <br /> <br /> Trung<br /> <br /> <br /> 1990 281589991 223591138 57998342 1780367 90132930 73679499 10968186 8848914 1119272 13424106 33606561<br /> <br /> 1996 281590107 222432293 56118890 2221453 91557403 72534548 11754037 9448165 2305872 13908260 33495517<br /> <br /> Thay 116 - 1158845 - 1879453 441085 1424474 - 1144951 785851 599252 186600 484153 - 111044<br /> đổi<br /> 1990<br /> – 96<br /> <br /> Phần 0 -1 -3 25 2 -2 7 7 9 4 0<br /> trăm<br /> thay<br /> đổi,<br /> 1990-<br /> 96<br /> <br /> Tây<br /> 1990 537196015 316505433 38070662 1612822 86988073 189833876 6244615 5005230 1239385 16445140 198000827<br /> <br /> 1996 537196036 317885001 36964452 2287798 87182821 191449930 6787093 5462348 1324745 16625075 195898867<br /> <br /> Thay 1 1379569 - 1106210 674976 194748 1616055 542477 457118 85360 179935 - 2101961<br /> đổi<br /> 1990<br /> – 96<br /> <br /> Phần 0 0 -3 42 0 1 9 9 7 1 -1<br /> trăm<br /> thay<br /> đổi,<br /> 1990-<br /> 96<br /> <br /> <br /> Nguồn: Liu (2000, Trang 99)<br /> Trong số đất phi nông nghiệp tăng thêm, đất định cư tại thành thị và nông thôn cũng như đất phát triển công<br /> nghiệp chiếm 80% và giao thông chiếm 20% còn lại (bảng 2). Không thể tìm hiểu cụ thể hơn cách thức mà<br /> những nhân tố khác nhau của phát triển kinh tế và tăng trưởng đô thị cũng như định cư tại nông thôn đóng góp<br /> vào sự tăng đất phi nông nghiệp do số liệu đó không có sẵn ở cấp độ quốc gia. Tuy nhiên, số liệu mà chúng tôi<br /> đã thu thập từ Tỉnh Sơn Đông chỉ ra rẳng, từ năm 1992 đén năm 1996, diện tích đất phi nông nghiệp tăng lên<br /> chủ yếu là do sự mở rộng các khu định cư ở đô thị (32,9%), phát triển công nghiệp (31,5%) và giao thông<br /> (22,7%). Diện tích đất định cư nông thôn tăng lên chỉ chiếm gần 11% trong tổng tăng đất phi nông nghiệp (Ho<br /> và Lin, 2004a, trang 86; 2004b, trang 762). Mặc dù định cư ở thành thị chiếm phần lớn đất phi nông nghiệp ở<br /> Trung Quốc, lượng tăng đất phi nông nghiệp những năm gần đây chủ yếu là kết quả của sự mở rộng các khu<br /> định cư đô thị cũng như phát triển công nghiệp và giao thông. Phần tiếp sau đây sẽ đánh giá kỹ hơn cách thức<br /> sự mở rộng của các thành phố tác động lên sự gia tăng của đất phi nông nghiệp.<br /> <br /> Tăng trưởng của các Thành phố và Thay đổi Sử dụng Đất<br /> <br /> Cải cách thị trường và toàn cầu hóa sâu rộng hơn đã dãn tới đô thị hóa chóng mặt, mở rộng nhanh chóng cũng<br /> như môi trường xây dựng đô thị được nâng cấp. Cho tới gần đây, những nghiên cứu về đô thị hóa Trung Quốc<br /> đã ngày càng quan tâm tới sự tăng dân số đô thị mà không tham chiếu nhiều tới sự mở rộng về đất đai. Ấn phẩm<br /> thương niên về thống kê đô thị của các cơ quan thống kê quốc gia Trung Quốc kể từ năm 1985 đa cung cấp<br /> thông tin quan trọng nhằm kiểm tra những tác động của tăng trưởng đô thị đối với sử dụng đất. Bảng 3 và 4 chỉ<br /> ra sự tăng trưởng của các thành phố Trung Quốc cả dưới dạng dân cư đô thị (ví dụ, dân cư phi nông nghiệp ở<br /> các khu phố đô thị) và các khu xây dựng từ năm 1984 (năm đầu tiên có các số liệu thống kê về đô thị) và năm<br /> 1996 (năm tương ứng với khảo sát đất quốc gia).<br /> <br /> Trung Quốc có 295 thành phố được chỉ định chính thức năm 1984, chiếm tổng diện tích xây dựng là 8816 km2.<br /> Trong giai đoạn 12 năm kể từ 1984 tới 1996, các thành phố được chỉ định chính thức tăng từ 295 lên 666 và khu<br /> vực xây dựng tăng lên 20.153 km2, tăng 130%. Sự mở rộng đáng chú ý nhất của các khu vực xây dựng xuất<br /> hiện tại các thành phố được phân loại là cỡ vừa và nhỏ, nhưng sự tăng ở các thành phố lớn với dân số hơn 1<br /> triệu người cũng rất ấn tượng (Bảng 3). Sự tăng trưởng này của các thành phố và tăng trưởng trong khu vực đất<br /> đô thị, tất nhiên, không thể tách rời khỏi những thay đổi về quản lý- đặc biệt là sự chỉ định các thành phố chính<br /> thức. Khi chính quyền Trung Quốc thả lỏng kiểm soát đối với cả việc chỉ định thành phố và di cư nông thôn-<br /> thành thị, rất nhiều khu phố và hạt đã đạt được vị thế thành phố và một số thành phố quy mô trung bình được<br /> nâng cấp thành thành phố lớn hoặc siêu lớn8. Mặc dù sự so sánh đó có thể không phản ánh toàn bộ tăng trưởng<br /> “tự nhiên” của các thành phố và những tác động của nó lên đất đai, nó thường chứng minh tầm quan trọng của<br /> sự can thiệp của nhà nước lên việc tái cơ cấu hệ thống thành phố của Trung Quốc. Ví dụ, kể từ năm 1984 chính<br /> phủ đã cho phép nông dân di chuyển tới gần các khu phố để định cư, với điều kiện họ tự chăm sóc những nhu<br /> cầu của mình đối với thực phẩm, nhà ở, công việc và những dịch vụ đô thị khác. Di cư tới các thành phố lớn và<br /> siêu lớn đã được duy trì kiểm soát chặt bởi chính phủ. Sự buông lỏng một phần của nhà nước đối với di cư nông<br /> thôn- đô thị đã là môtrj trong những nhân tố giải thích cho sự tăng trưởng phi thường của các thành phố nhỏ,<br /> hầu hết được nâng cấp từ những khu phố.<br /> <br /> Bảng 3. Phân phối các thành phố, dân cư đô thị và các khu vực xây dựng đô thị, 1984 và 1996<br /> <br /> 1984 1996<br /> <br /> Phân loại quy mô Phần trăm phân Phần trăm phân Thay đổi phần trăm<br /> Số lượng Số lượng<br /> thành phốa phối phối 1984- 96<br /> <br /> Các thành phốb<br /> <br /> Tổng 293 100.0 657 100.0 124.2<br /> <br /> Hơn 1 triệu 19 6.5 34 5.2 78.9<br /> <br /> 0,5- 1 triệu 31 10.6 44 6.7 41.9<br /> <br /> 0,2- 0,5 triệu 81 27.6 194 29.5 139.5<br /> Ít hơn 0,2 triệu 162 55.3 385 58.6 137.7<br /> <br /> Dân cư đô thị<br /> (triệu)c<br /> <br /> Tổng 109.8 100.0 206.8 100.0 88.3<br /> <br /> Hơn 1 triệu 43.4 39.5 73.2 35.4 68.7<br /> <br /> 0,5- 1 triệu 23.1 21.0 30.0 14.5 29.9<br /> <br /> 0,2- 0,5 triệu 25.4 23.1 59.3 28.7 133.5<br /> <br /> Ít hơn 0,2 triệu 17.9 16.3 44.3 21.4 147.5<br /> <br /> Diện tích đất xây<br /> dựng đô thị (km2)d<br /> <br /> Tổng 8 816 100.0 20 532 100.0 132.9<br /> <br /> Hơn 1 triệu 2 640 29.9 5 462 26.6 106.9<br /> <br /> 0,5- 1 triệu 1 930 21.9 2 966 14.4 53.7<br /> <br /> 0,2- 0,5 triệu 2 235 25.4 6 280 30.6 181.0<br /> <br /> Ít hơn 0,2 triệu 2 011 22.8 5 824 28.4 189.6<br /> a<br /> Phân loại quy mô dựa trên số liệu dân số phi nông nghiệp (fei nongye renkou) trong nôi đô (shiqu)<br /> b<br /> Trung Quốc có 295 thành phố được chỉ định vào năm 1984 và 666 năm 1996. Hai trong số các thành phố vào năm 1984 và 9 trong số các thành phố năm 1996 không được đưa vào trong<br /> Nhằm loại trừ “tiếng động” của những thay đổi hành chính và tái phân loại đô thị chính thức,bảng 4 phân tích<br /> bản này do thiếu số liệu về diện tích xây dựng.<br /> c<br /> dân số phi nông nghiệp trong nôi đô thành phố (shiqu)<br /> 286 thành phố giống nhau mà số liệu sử dụng đất là có thể so sánh đối với 2 năm 1984 và 1996. Sau 12 năm<br /> d<br /> “diện tích xây dựng đô thị” trong nôi đô thành phố (shiqu jiangchengqu)<br /> 2<br /> 1984- 96, những thành phố tương đồng này đã phát triển các khu xây dựng từ 8713 lên 14135 km hay tăng<br /> Nguồn: CSSB (1985, trang 35- 50; 1997, trang 16- 25 và 71- 90)<br /> <br /> 62%. Trong số đất đô thị tăng lên, các thành phố nhỏ đóng góp 1674 km2 (31%), các thành phố trung bình đóng<br /> góp 1512 (28%) các thành phố lớn 938 (17%) và các thành phố siêu lớn 1298 (24%). Nói cách khác, các thành<br /> phố vừa và nhỏ đóng góp gần 60% tổng lownjg tăng trong khu vực xây dựng đô thị. Dưới dạng tốc độ tăng<br /> trwỏng, các thành phố lớn và siêu lớn đã tăng đất của họ lên 49%, các thành phố trung bình tăng 70% và các<br /> thành phố nhỏ tăng 84% (Bảng 4). Do đó, có thể thấy rõ các thành phố cỡ vừa và nhỏ không phải là nhân tố chủ<br /> yếu duy nhất đóng góp vào sự tăng trưởng diện tưichs đất đo thị, nhưng là nhân số có tốc độ tăng trưởng cao<br /> nhất. Xét về mặt địa lý, tăng trưởng lớn nhất đối với đất đô thị có thể được thấy ở Đông Trung Quốc (67%) nơi<br /> tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa là nhanh hơn ở các khu vực khác. Cùng với nhau, số liệu được đưa ra ở<br /> Bảng 3 và Bảng 4 chỉ ra những dạng khác biệt của mở rộng đô thị trong đó phát triển đất đã diễn ra trên diện<br /> rộng và rải rác. Dạng này có vẻ là kết quả của một quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa từ dưới lên mà đã<br /> được nghiên cứu bằng tài liệu một cách kỹ lưỡng (Ma và Lin; Ma và Fan, 1994; Ho, 1994, Ma và Cui, 2002).<br /> Bảng 4. Dân số và khu vực xây dựng của 286 thành phố của Trung Quốc, theo quy mô và vùng, 1984 và 1996<br /> <br /> Dân số đô thị Diện tích xây dựng đô thị<br /> <br /> Phần trăm Phần trăm<br /> Phân loại quy mô thành Số lượng<br /> 1984 (triệu) 1996 (triệu) thay đổi 1994- 1984 (km2) 1996 (km2) thay đổi 1994-<br /> phố và địa điểm a thành phố<br /> 86 86<br /> <br /> Tất cả thành phố 286 108.76 154.36 41.9 8 713 14 135 62.2<br /> <br /> Đông Trung Quốc 103 54.51 76.81 40.9 3 966 6 648 67.6<br /> <br /> Trung Trung Quốc 120 36.99 53.37 44.3 3 384 5 239 54.9<br /> <br /> Tây Trung Quốc 19 43.39 5.16 27.1 2 640 3 938 49.2<br /> <br /> Các thành phố có dân<br /> số lớn hơn 1 triệu năm<br /> 1984 (rất lớn)<br /> <br /> Đông Trung Quốc 11 29.11 36.63 25.9 1 667 2 570 54.2<br /> <br /> Trung Trung Quốc 4 7.90 10.08 27.7 575 735 27.8<br /> <br /> Tây Trung Quốc 4 6.39 8.44 32.2 398 633 59.0<br /> <br /> Các thành phố có dân<br /> số từ 0,5 đến 1 triệu 31 23.11 31.06 34.4 1 930 2 868 48.6<br /> năm 1984 (lớn)<br /> <br /> Đông Trung Quốc 14 9,94 13.58 36.6 836 1 155 382<br /> <br /> Trung Trung Quốc 14 10.40 13.82 32.8 917 1 434 56,4<br /> <br /> Tây Trung Quốc 3 2.77 3.66 32.3 177 279 57.6<br /> <br /> Các thành phố có dân<br /> số từ 0,2 đến 0,5 triệu<br /> 79 24.66 36.14 46.5 2156 3 668 70.1<br /> vào năm 1984 (trung<br /> bình)<br /> <br /> Đông Trung Quốc 30 9.62 14.63 52.2 804 1 596 98.5<br /> <br /> Trung Trung Quốc 36 11.37 16.51 45.2 1 073 1 610 50.5<br /> <br /> Tây Trung Quốc 13 3.67 4.99 35.9 279 462 65.6<br /> <br /> Các thành phố có dân<br /> số nhỏ hơn 0,2 triệu<br /> 157 17.60 32.00 81.8 1 987 3 661 84.2<br /> vào năm 1984 (trung<br /> bình<br /> <br /> Đông Trung Quốc 48 5.84 11.97 104.8
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2