intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ý nghĩa nghiên cứu học thuyết giá trị M trong triết học và đề xuất áp dụng - 2

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

111
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công ty cổ phần ngoài phát hành cổ phiếu còn phát hành trái khoán. Người mua trái khoán được nhận lợi tức cố định nhưng không được dự đại hội lợi tức cổ đông. Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán có giá trị. Giao dịch theo hình thức tín dụng người mua chứng khoán chi trả một phần, phần còn lại do người môi giới của số dịch vụ ứng trước và hưởng lợi tức về số tiền ứng trước cho người mua. Địa tô: Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ý nghĩa nghiên cứu học thuyết giá trị M trong triết học và đề xuất áp dụng - 2

  1. Công ty cổ phần ngoài phát hành cổ phiếu còn phát hành trái khoán. Người mua trái khoán được nhận lợi tức cố định nhưng không được dự đại hội lợi tức cổ đông. Thị trường chứng khoán là nơi mua bán các chứng khoán có giá trị. Giao dịch theo hình thức tín dụng người mua chứng khoán chi trả một phần, phần còn lại do người môi giới của số dịch vụ ứng trước và hưởng lợi tức về số tiền ứng trước cho người mua. Địa tô: Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thu ê ruộng đất và công nhân để tiến hành sản xuất, do đó tư bản phải trích ra một phần do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hình thức địa tô. Địa tô TBCN là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Địa tô=m-P. Cơ chế kinh tế của tư bản độc quền từ đó suy ra lợi nhuận độc quyền. Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị của tự do cạnh tranh nhưng không thủ tiêu được cạnh tranh mà cạnh tranh càng trở nên gay gắt . Cạnh tranh dẫn đến độc quyền cũng để cạnh tranh tốt hơn bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Độc quền chiếm giữ vị trí thống trị trong nền kinh tế thể hiện ở sự độc chiếm các nguồn nguyên liệu, phương tiện vận tải ,thị trường vốn ,nhân công, quy luật kinh tế c ơ bản vẫn là quy luật giá trị thặng dư, song biểu hiện bên ngoài là quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Chương II: Vai trò của lợi nhuận
  2. Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế nó ảnh hưởng cả đến chính trị- xã hội và len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội trong mọi nền kinh tế thị trường. Như ta đã biết mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt : mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vấn đề đặt ra là ta phải phát triển mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực như thế nào để phát huy được vai trò của nó. I. Lợi nhuận trong nền kinh tế : a. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển: Với mục đích P các nhà tư bản để tạo ra P ngày càng nhiều. Trước đây họ có thể tạo ra P bằng cách kéo dài ngày lao động của người công nhân nhưng phương pháp đó gặp sự chống cự của giai cấp công nhân vì vậy họ chuyển sang ph ương pháp bóc lột một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất và bắt buộc người công nhân phải tăng năng suất lao động của mình lên. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học. Những phát minh khoa học lần lượt ra đời đặc biệt là trong thế kỷ 19-20. Nó đã được lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng . Yếu tố n ày đã giúp cho nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Người công nhân chính là người trực tiếp sử dụng vận hành các công nghệ mới vì vậy để quá trình sử dụng được tiếp diễn với hiệu quả kinh tế cao thì người công nhân bắt buộc phải nâng cao trình độ,nâng cao tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi quy luật phát triển. Còn về mặt nhà tư bản thì họ cũng hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao, tận dụng hết được chức năng của công nghệ tiên tiến thì họ phải có một đội ngũ công nhân lành nghề với trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ trở
  3. thành yêu cầu cấp tất yếu của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Do nhận biết được vai trò quan trọng của những lao động có tay nghề cao nên hiện nay đang diễn ra tình trạng mua chuộc, lôi kéo những nhà khoa học, những công nhân giỏi về phía mình bằng các biện pháp kinh tế, tinh thần. Điều này dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển và trở thành một tình trạng báo động cần ngăn chặn. b. P thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau tức là khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phải phát triển và ngược lại. Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển . Quan hệ sở hữu ngày càng được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung. Bên cạnh đó mục đích P luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu “hiệu quả”. Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp xếp lại các tổ chức quản lý. Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý. Hạn chế bớt một số bộ phận quản lý cồng kềnh còn giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí (tiền lương) đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận.
  4. Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bố lực l ượng lao động hợp lý, cân đối trong nền kinh tế tốt để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, giáo dục quan điểm thái độ và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra trên đều từ lợi nhuận và chính nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm ít hưởng ít, làm nhiều hưởng nhiều. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội... Trong thời quá độ hiện nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn... P làm chuyển đổi kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị trường . - Theo quá trình phát triển của lịch sử, nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ hình thức lạc hậu đến hình thức tiên tiến hiện đại. Đi từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế hàng hoá rồi đến kinh tế thị trường quá trình này phát triển song song với mục đích thu được lợi nhuận ngày càng cao. Nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn về cuộc sống. Bắt đầu từ nền kinh tế tự nhiên đó là nền kinh tế tự cung tự cấp, sản phẩm lao động sản xuất ra dều thoã mãn nhu cầu con người thì luôn phát triển và quá trình phát triển luôn hướng tới những gì phù hợp hơn. Họ không chỉ muốn có những cái mà họ làm ra mà còn muốn những cái mà người khác có, họ không chỉ muốn các sản phẩm vừa đủ mà còn muốn có dư để dự trữ điều đó dẫn đến quá trình trao đổi sản phẩm đơn thuần diễn ra. Cùng với những nhược điểm của nó con người ta đã qua quá trình quy đổi và cuối cùng quá trình mua bán với đồng tiền chung được quy định. Kinh tế hàng hoá xuất hiện. Với nền sản xuất hàng hoá sản phẩm sản xuất ra để bán trên thị trường mọi người được tự do buôn bán
  5. trên thị trường, thị trường được mở rộng ngày càng nhiều. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Khi kinh tế hàng hoá phát triển sẽ làm cho quá trình sản xuất mua bán diễn ra mạnh mẽ và các nhà kinh tế luôn tìm kiếm và năng động hơn trong hoạt động sản xuất cũng như phân phối lưu thông, lợi nhuận đã làm cho họ cố gắng đạt được bằng nhiều hình thức khác nhau. Cùng một lúc mà có nhiều nhà tư bản cùng tham gia thì vấn đề thời cơ lại trở nên rất cần thiết. Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để đi đến mức lợi nhuận cao. Sự cản trở ở một khâu nào đó trong quá trình hoạt động sẽ làm gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ sẽ không còn nữa. Chính điều này đã làm nảy sinh ra một yêu cầu là cần phải tách ra khỏi sự quản lý vi mô của Nhà nước. Với sự phát triển phong phú của thị trường thì Nhà nước không thể có những chính sách đúng đắn trong tầm vĩ mô. Nhưng nhà nước phải quản lý ở tầm vĩ mô vì cũng do P mà các nhà kinh tế có thể bất chấp các thủ đoạn dẫn đến sự mất an toàn cho những nhà kinh doanh với nhau, sự bất ổn định về mặt chính trị và xã hội. Nhà nước cần đưa ra các chính sách pháp luật đúng đắn trong kinh doanh để xử lý những tranh chấp trong kinh doanh và những vi phạm luật kinh tế. Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà kinh tế, tạo điều kiện cho họ thu được lợi nhuận ngày càng nhiều. Với nền kinh tế thị tr ường như trên sẽ thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẽ. c. Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất xã hội.
  6. Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình sản xuất xã hội ta cần xem xét đến điều kiện để tái sản xuất xã hội diễn ra là gì ? Như ta đã biết, muốn tái sản xuất mở rộng và ngày càng hiện đại hoá thì phải có nhiều vốn. Muốn có nhiều vốn phải tích luỹ vốn. Do vậy tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần của sản phẩm thặng dư, do lao động thặng dư tạo ra làm thành vốn phụ thêm để mở rộng sản xuất. Do vậy, nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất ( nhờ tăng cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất yếu) và thực hiện được trong quá trình lưu thông. Sự tích luỹ này do các chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất hoặc tư nhân hoặc Nhà nước tiến hành. Như vậy dù ở dạng nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận (thực hiện giá trị thặng d ư) tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trò quyết định cho quá trình tái sản xuất xã hội. d. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế. P là lý do làm phát sinh và phát triển nền kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng trao đổi hàng hoá và khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ trong nước, cấu thành ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh liên kết hợp tác là cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. e. Vai trò của P đối với mọi mặt đời sống x• hội.
  7. Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong quá quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự cân bằng xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người có sức đang làm việc và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để được nhận lợi tức và lợi nhuận, thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khách không thể tham gia lao động được trả công của xã hội. Đời sống số đông người này là do gia đình này họ hoặc xã hội bảo đảm. Mặt khác ngay mức sống của cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế cũng không phải chỉ dựa vào tiền công cá nhân mà còn dựa vào các quỹ phúc lợi công cộng của nhà nước, của xí nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội khác. áp dụng hình thức phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Đây không phải là phân phối theo lao động nhưng cũng chưa phải là phân phối theo nhu cầu như trong giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản mà Mac đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá độ phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chẳng những bảo đảm cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội. ở một số nước phát triển, Nhà nước có chú ý đến tiền lương, trợ cấp thất nghiệp phúc lợi xã hội, nhất là các nước Châu âu đặc biệt là ở Thuỵ Sĩ và Pháp ... quy định mức lương tối thiểu. Khi nền kinh tế phát triển là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh giáo dục... bởi vì với sự phát triển mạnh như vũ bão của khoa học kỹ thuật hiện nay. Quốc phòng trang bị bằng những vũ khí hiện đại tối tân (có nhiều nước có vũ khí hạt nhân).
  8. Yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải nắm bắt được khoa học kỹ thuật và phải có sự đầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng, nghiên cứu trong quân sự và trong giáo dục. Khi lợi nhuận cao trong ta sẽ có điều kiện đầu tư để phát triển nhân tố con người cả mặt lý luận và thực tiễn. Hiện nay hệ thống giáo dục nước ta chưa được trang bị đầu tư nhiều, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề thực hành và áp dụng ngoài thực tế dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường kém năng động, không sử dụng được kiến thức của mình vào cuộc sống và công việc một cách sáng tạo. f. Những biện pháp, các thủ đoạn để thu lợi nhuận: Để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh với nhau tr ên thị trường bất kể nội bộ ngành hay giữa các ngành như chúng ta đã trình bày ở trên. Ngoài ra khi sự cạnh tranh tiến lên một mức cao hơn thì họ cạnh tranh nhau trong khâu sản xuất công nghệ và trong khâu tiêu thụ. Về khái niệm cạnh tranh, cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành chúng ta đã có dịp đề cập đến trong phần tỉ suất lợi nhuận bình quân. ở đây chúng ta chỉ nêu ra biện pháp cạnh tranh ở từng loại và kết quả đạt được của nó. Đối với các quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch các nhà sản xuất đã phải cải tiến kỹ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của cạnh tranh là hình thành lên giá trị xã hội của từng loại hàng hoá. Cạnh tranh giữa các ngành sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dẫn đến hình thành dần tỉ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển thành giá trị sản xuất.
  9. Cạnh tranh trong sản xuất là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong sản xuất. - Biện pháp : tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật... Kết quả : hình thành nên giá thị trường từng loại hàng hoá. Hậu quả do theo đuổi lợi nhuận gây ra i. Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mô sản xuất và tư bản phải lớn. Vì vậy đặt ra yêu cầu phải tích tụ và tập trung sản xuất do đó ra đời các xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa và nhỏ phá sản còn tư bản lớn thì càng mạnh hơn. Khi sự tích tụ và tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ cao sẽ hình thành các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa độc quyền càng phát triển thì lợi nhuận của độc quyền ngày càng nhiều, nhưng hậu quả như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại trút xuống đầu giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mâu thuẫn giai cấp càng trở nên sâu sắc. Nếu đứng trên tầng vĩ mô ta thấy rằng vào cuối thế kỷ XIX các nước tư bản đã tích luỹ được trọng lượng tương đối lớn “tư bản thừa” số này đầu tư trong nước thì lợi nhuận thấp. Vì thế nó có nhu cầu xuất khẩu tư bản tới các nước lạc hậu về kinh tế đang cần vốn đầu tư hay một số nước khá phát triển như cần trang thiết bị mới để nâng cao năng suất lao động, nâng cao lợi nhuận. Nhìn chung cả hai phía do mục tiêu về lợi nhuận đã dẫn đến quá trình xuất khẩu tư bản diễn ra gây hậu quả lớn cho cả hai bên. ở nước xuất khẩu tư bản các tổ chức độc quyền thu được lợi nhuận lớn nhưng nền kinh tế các nước này bị giảm tốc độ phát triển vì sự cạnh tranh trong việc xuất khẩu t ư bản đã tác động xấu tới nền kinh tế các nước này làm tăng sự phân hoá giàu nghèo. Còn ở các nước nhập khẩu tư bản, giai cấp vô sản và nhân
  10. dân lao động bị bóc lột nặng nề hơn trước vì tư bản nước ngoài bóc lột tinh vi vì sử dụng kỹ thuật mới. Chúng ta có thể lấy ra một ví dụ về sự tiết kiệm các điều kiện lao động làm thiệt hại đến công nhân. Ngành than mỏ không chịu bỏ ra những khoản tiền cần thiết nhất. Vì có sự cạnh tranh của các chủ mỏ than nên ngoài những khoản tối cần thiết để tạm thời giải quyết những khó khăn về thể chất rõ ràng người ta không chi những món gì khác. Và có sự cạnh tranh giữa các công nhân mỏ mà số lượng thường là quá thừa nên những người này phải bằng lòng chịu những nguy hiểm rất lớn và đồng ý lao động trong những điều kiện có hại cho sức khoẻ với những đồng lương cũng không cao gì. Hai sự cạnh tranh đó đủ để làm cho một phần lớn các hầm mỏ được trang bị bằng những hệ thống rầm nước và thông hơi tồi tệ nhất, thường là xây tồi, hệ thống chống xấu, thợ máy kém, các đường hầm và hệ thống đường goòng xây dựng không tốt, huỷ hoại sức khoẻ và nguy hiểm đến tính mạng bởi những vụ sập hầm thường gây thương tích rất lớn. Ngoài ra các nước nhập tư bản còn bị phụ thuộc chặt chẽ vào các nước đế quốc. Đứng trong tầm vĩ mô của một đất nước lợi nhuận làm mai một dần các ngành nghề cổ truyền, làm lung lay các truyền thống văn hoá có từ lâu đời. Dẫn đến tình trạng thất nghiệp, lạm phát ngày càng tăng, ảnh hưởng đến an ninh chính trị quốc gia. Sự phát triển của công nghiệp cùng với những cặn bã của nó đang làm ô nhiễm bầu không khí, ô nhiễm môi trường sống... Sự ô nhiễm mỗi trường đang là một vấn đề nhức nhối cấp thiết của các quốc gia. Nếu chúng ta không ngăn chặn, đưa ra những biện pháp kịp thời thì thế giới sẽ không còn sự sống. Bên cạnh đó, cũng vì lợi nhuận mà làm nảy sinh các hành vi tiêu cực khác của xã hội như tệ nạn buôn lậu, làm hàng giả, tệ nạn tham nhũng cũng ngày càng phát triển trong tất cả
  11. các cấp các ngành. Các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý, bạo lực cũng mọc ra ở khắp nơi... Nhìn chung có rất nhiều vấn đề nảy sinh đòi hỏi sự sáng suốt của các nhà hoạch định chính sách làm sao cho phù hợp nhất. II. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới ở Việt Nam. a. Cơ chế kinh tế là khái niệm dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành hệ thống mà đó là hệ thống có thể thực hoạt động. Nó mang tính khách quan vốn có của một nền kinh tế. Ta có thể dựa vào cơ chế kinh tế để phân loại nền kinh tế. Cải cách kinh tế được chính phủ Việt Nam khởi xướng vào nămg 1986 và đã đem lại một số thành tựu đáng khích lệ. Dù vậy thất nghiệp, lạm phát và khó khăn trong việc đạt đến thế cân bằng mới trong thương mại quốc tế vẫn đang là vấn đề cần quan tâm. Trước năm 1986 nền kinh tế nhà nước là nền kinh tế chỉ huy, ở đó nhà nước kiểm soát hết các phương tiện sản xuất, để đảm bảo cho điều đó thực hiện được Nhà nước cần phải kiểm soát giá cả, tiền lương và sự phân phối hàng hoá, dịch vụ sao cho doanh nghiệp Nhà nước có thể chiếm đoạt lợi nhuận độc quyền, mà phần lớn nguồn lợi nhuận đó được chuyển vào ngân sách Nhà nước qua doanh thu như một thứ thuế ẩn ngầm. Về phía mình, các doanh nghiệp và người lao động phải cống hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần, thông qua hàng hoá và dịch vụ do Nhà nước cấp. Trong hệ thống “phân phối và phân phối lại” này sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường mà dựa trên hệ thống định mức, đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí quyền lực của nó trong hệ thống “phân phối và phân phối lại”. Điều đáng nói là hệ thống “phân phối và
  12. phân phối lại” là đặc trưng cho mọi nền kinh tế chỉ huy ở mức độ “tập trung hoá” càng cao thì hệ thống đó càng phình ra. Có nhiều doanh nghiệp lớn mà sản phẩm của nó không đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy nền kinh tế đó sẽ gặp khó khăn lớn. Ngược lại trong nền kinh tế đang phát triển, nơi mà sự tồn tại của khu vực vô hình ngăn cản mọi nỗ lực gia tăng mức độ tập trung hoá quản lý kinh tế thì quan hệ thị trường có thể phát triển một cách tự phát. Quá trình cải cách tự phát như vậy thường nảy sinh khi những ảnh hưởng bất lợi của hệ thống “phân phối -phân phối lại” làm cạn kiệt mọi nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư. Tuy nhiên, cải cách tự phát không thể khắc phục được một loạt các yếu điểm chẳng hạn như sự mở rộng các loại thị trường nơi mà giá cao hơn nhiều lần giá chính thức. Điều đó thúc đẩy gia tăng nạn tham nhũng, buôn lậu dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách. Sự mất mát đối với vĩ mô càng nặng nề hơn vì các doanh nghiệp và hộ gia đình đổ xô vào đầu tư vàng và ngoại tệ mạnh. Kết quả là tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư nội địa và mất cân đối với nền kinh tế tự nó đi chệch khỏi trạng thái cân bằng và ngày càng lao sâu vào khủng hoảng. Đó chính là điều xảy ra với Việt Nam năm 1985. Khi tình hình kinh tế xấu đi đã buộc chính phủ phải tiến hành cuộc cải cách đổi thời “giá-lương tiền” nhằm ổn định lại nền kinh tế. Do những hậu quả mà cơ chế kế hoạch hoá tập trung để lại cho nền kinh tế Việt Nam, do xu hướng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường trên thế giới, do tính năng động của cơ chế thị trường , tất cả những yếu tố đó trở thành yếu tố khách quan của sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam. Cải cách kinh tế Việt Nam n ămg1986 đã đem lại một số thành tựu đáng khích lệ như : Nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính năng động của nền kinh tế, xoá bỏ
  13. tính bao cấp, trì trệ của cơ chế cũ, bước đầu phát huy được nội lực, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Từng bước thực hiện quá trình mang tính quy luật của bước chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là nhân tố trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường, hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông trong suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước cũng đạt được sự giải phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu thị trường. Cơ chế này cũng đã thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở hữu. Với sự thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của nền kinh tế nhiều thành phần. Cơ chế thị trường nước ta còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn, sản phẩm của một nền kinh tế ch ưa thoát khỏi khủng hoảng và cơ bản là sản xuất nhỏ, của sự yếu kém của bộ máy Nhà nước, tình trạng quan liêu, thiếu hiểu biết thậm chí trì trệ bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Trước hết cơ chế thị trường Việt Nam chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt những yếu kém trong thể chế tài chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của quá trình chuyển đổi, cơ chế thị trường thiếu đồng bộ. Sự chuyển biến khá mạnh mẽ trên thị trường chấp nhận tự do kinh doanh theo pháp luật, nh ưng lại chưa giải
  14. quyết đầy đủ những tiền đề cơ bản khiến cho thị trường còn mang nhiều yếu tố tự phát. Cơ chế vận hành thô sơ, thô thiển, tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung toàn bộ các chi tiết của mô hình thị trường, cũng không thể vạch ngay được một lịch trình cứng nhắc của biến chuyển mà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và điều kiện chính trị, kinh tế xã hội ở nước ta. Không áp dụng các liệu pháp xốc vừa là đặc điểm vừa là quan điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong nước và quan hệ kinh tế với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường từng bước. Điều quan trọng là cơ chế này được nhân dân đồng tình và đã phát huy được hiệu quả . Vấn đề lợi nhuận trong nên kinh tế thị trường hiện nay. b. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội là toàn bộ quá trình sản xuất đến tiêu dùng gắn liền với thị trường. Kinh tế thị trường không chỉ là công nghệ, kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội, không chỉ bao hàm hai yếu tố là lực lượng và quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường phụ thuộc vào hình thức sỡ hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. Không có kinh tế thị trường chung chung, thuần tuý trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế-xã hội, tách rời chế độ xã hội. Tích cực, tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò Nhà nước, chính sách xã hội của Nhà nước. Mục đích của kinh tế thị trường:
  15. Lợi nhuận là một mục đích của kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường ở nước ta cũng nhằm mục đích lợi nhuận nhưng không theo đuổi lợi nhuận một cách đơn thuần mà xuất phát từ đặc điểm của nước ta là nước xã hội chủ nghĩa là không thay đổi. Vì vậy, chúng ta theo đuổi lợi nhuận nhưng phải đảm bảo hai nhiệm vụ: Bảo đảm hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh doanh nghĩa là sản xuất phải có lãi. - Kết hợp giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội. - Xét cho đến cùng kinh tế thị trường cũng như các hình thức tổ chức kinh tế khác đều nhằm mục đích sản xuất đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của con người, tức sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Điều đó thể hiện bởi lợi nhuận thu về cao. Kinh tế thị trường tạo ra các thị trường là nơi gặp gỡ giữa người bán và người mua để xác đinh ba yếu tố của sản xuất qua đó nâng cao tính năng động của nền kinh tế. Các giải pháp đạt mục tiêu trên. c. Chúng ta chủ trương chuyển qua nền kinh tế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị; lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế. Mặt khác, cũng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước nâng cao chất lượng hiệu quả của quản lý cho ph ù hợp với điều kiện kinh tế thị trường mà tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên một bước phát triển mới. Thể hiện kinh tế mà trong đó thị trường và các quan hệ thị trường ngày càng đóng vai trò quyết định đối với sản xuất và kinh doanh và phân phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của Nhà nước nền kinh tế nhiều thành phần thông qua cạnh tranh, liên kết hợp tác có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy hài hoà giữa sản xuất và nhu cầu. Nền kinh tế vận hành theo các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp đảm bảo thị
  16. trường thống nhất, mở rộng phục vụ mục tiêu tăng trưởng hiệu quả cân bằng và ổn định Nhà nước dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển hùng mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết đảm bảo phúc lợi cho toàn dân và thực hiện công bằng xã hội. Chương III: ý nghĩa vấn đề nghiên cứu và ý kiến cá nhân Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận l à nhân tố ảnh hưởng trực tiếp là cơ sở cho mọi nền kinh tế. Và cùng với những hiểu biết về vai trò cũng như hạn chế của lợi nhuận áp dụng vào đặc điểm của cơ chế kinh tế cũng như đặc điểm về chính trị hoạt động nói lên sự thành công của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể dừng lại ở tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với tăng trưởng phải không ngừng nâng cao chất l ượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập kinh tế tăng trưởng mạnh, y tế, giáo dục phát triển, sự văn hoá giàu nghèo không làm ảnh hưởng lớn tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa dân chúng. Cơ chế thị trường không thể xuống cấp thậm chí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, các quan hệ và đạo đức truyền thống trong xã hội. Kết luận: Toàn bộ đề án đã một phần làm rõ được bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận cũng nh ư vài trò của nó trong nền kinh tế thị trường và sự vận dụng vào Việt Nam. Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi lợi nhuận là một điều tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế vì nó là một động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của vấn đề nảy sinh và sự tiêu cực trong văn hoá, xã hội, lối sống của người dân trong cơ chế mới ... Cũng như sự tăng lên về vấn đề ô nhiễm môi trường. Những vấn đề trên đặt ra một yêu cầu là tất cả chúng ta phải cùng cố gắng để góp phần đưa nền kinh tế phát triển, xã hội lành mạnh văn
  17. minh. Đặc biệt là những nhà kinh tế tương lai, chúng ta không thể đứng nhìn những mâu thuẫn nẩy sinh trong quá trình chuyển đổi mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học tập và lao động để có thể góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chúng ta mong đợi và tin tưởng rằng quá trình phát triển kinh tế của đất nước sẽ đi đến thắng lợi.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2