JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 6B, pp. 158-164<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0112<br />
<br />
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH<br />
KHIẾM THỊ Ở CÁC TRƯỜNG TIỂU HỌC HÒA NHẬP<br />
Nguyễn Thị Thắm<br />
<br />
Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Khuyết tật thị giác không chỉ ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, ngôn ngữ, giao<br />
tiếp, hành vi của học sinh khiếm thị mà còn ảnh hưởng đến kĩ năng sống của các em. Hiện<br />
nay, một số trường tiểu học hòa nhập đã bắt đầu quan tâm đến việc thực hiện giáo dục kĩ<br />
năng sống cho học sinh khiếm thị. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động nên hiệu quả giáo<br />
dục kĩ năng sống cho các em còn chưa cao. Bài viết này ngoài việc phân tích những kĩ<br />
năng sống cần giáo dục cho học sinh khiếm thị tiểu học còn nghiên cứu những yếu tố ảnh<br />
hưởng đến việc tiến hành giáo dục kĩ năng sống cho các em. Chính từ nghiên cứu yếu tố<br />
ảnh hưởng này sẽ giúp các trường có được những biện pháp điều chỉnh để giúp học sinh<br />
khiếm thị có những kĩ năng sống cần thiết nhất.<br />
Từ khóa: Trẻ khiếm thị, trường tiểu học hòa nhập, giáo dục hòa nhập, kĩ năng sống, yếu tố<br />
ảnh hưởng.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Giáo dục hòa nhập là xu thế của xã hội hiện nay. Ở Việt Nam, năm 2010 Luật người khuyết<br />
tật được ban hành đã khẳng định cam kết của Chính phủ trong việc cung cấp cơ hội giáo dục cho<br />
toàn xã hội, tiến hành giáo dục hòa nhập cho tất cả trẻ em khuyết tật nói chung, trẻ khiếm thị nói<br />
riêng [2]. Học sinh khiếm thị có cơ hội học tập, vui chơi, hòa nhập cùng các bạn học sinh sáng.<br />
Đối với học sinh khiếm thị tiểu học, mục tiêu của giáo dục kĩ năng sống (KNS) là tạo cơ<br />
hội cho các em có được sự độc lập [4]. Độc lập giúp học sinh khiếm thị phát triển cảm giác tự tin<br />
và tham gia và cộng đồng như một người chủ. Khi còn nhỏ, trẻ học các kĩ năng sống bằng cách<br />
quan sát ngẫu nhiên và bắt chước hành động của người khác [6]. Khoảng 80% kiến thức và kĩ năng<br />
học được thông qua kênh thị giác. Với học sinh sáng mắt, khi thành thạo kĩ năng này em có thể<br />
khái quát hóa những gì học được và phát triển các kĩ năng mới. Nhưng với học sinh khiếm thị, do<br />
hạn chế về khả năng thị giác nên khi học các kĩ năng sống khó khái quát hóa được từ tình huống<br />
này sang tình huống khác. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khiếm thị cần phải có những<br />
phương pháp đặc biệt, hướng dẫn kĩ năng sống phù hợp với các em, tạo cơ hội để học sinh được<br />
thực hành, tự làm quen và khám phá [4].<br />
Kĩ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình giáo dục cho học sinh khiếm thị<br />
tiểu học. Hiện nay, các trường tiểu học hòa nhập đã lồng ghép việc giáo dục kĩ năng sống cho học<br />
sinh vào các môn học cũng như các hoạt động ngoại khóa. Học sinh khiếm thị được học một số<br />
Ngày nhận bài: 5/4/2016. Ngày nhận đăng: 5/8/2016.<br />
Liên hệ: Nguyễn Thị Thắm, e-mail: Thamnguyencwd@gmail.com<br />
<br />
158<br />
<br />
Yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khiếm thị ở các trường...<br />
<br />
kĩ năng sống giống như học sinh sáng mắt. Bên cạnh đó, trong những tiết cá nhân học sinh khiếm<br />
thị cũng được giáo dục các kĩ năng khác như: kĩ năng định hướng di chuyển, kĩ năng đọc viết chữ<br />
Braille, âm nhạc. Trong quá trình thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khiếm thị tiểu học,<br />
giáo viên, các trường tiểu học hòa nhập đã gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức ảnh hưởng<br />
đến kết quả giáo dục. Việc nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng sống cho học<br />
sinh khiếm thị tiểu học sẽ là cơ sở để các trường hòa nhập có các giải pháp điều chỉnh, nâng cao<br />
chất lượng giáo dục kĩ năng sống cho các em.<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Một số khái niệm cơ bản<br />
<br />
2.1.1. Kĩ năng sống<br />
Năm 1960, thuật ngữ KNS (life skills) lần đầu tiên đã được đề cập đến bởi những nhà tâm<br />
lí thực hành, coi đó như là một khả năng quan trọng trong việc phát triển nhân cách. Ở Việt Nam,<br />
thuật ngữ KNS được biết đến bắt đầu từ năm 1996 cùng với chương trình của UNICEF “Giáo dục<br />
KNS để bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài trường”<br />
do các chuyên gia Australia tập huấn [8]. Trong những năm gần đây, thuật ngữ KNS xuất hiện ngày<br />
càng nhiều ở khắp nơi trên thế giới và và được coi như một trong những vấn đề quan trọng, cấp<br />
bách cần hình thành và rèn luyện cho học sinh ở tất cả các cấp học, bậc học.<br />
Có nhiều quan niệm khác nhau về KNS:<br />
Theo quan điểm của UNESCO: KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng<br />
và tham gia vào cuộc sống hàng ngày.<br />
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): KNS là năng lực đáp ứng hoặc những hành vi tích<br />
cực giúp cá nhân có thể giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng<br />
ngày [8].<br />
Có quan niệm khác cho rằng: KNS là những khả năng tâm lí xã hội của con người để để<br />
tương tác với người khác và giải quyết những vấn đề, những tình huống của cuộc sống hàng ngày<br />
một cách tích cực và có hiệu quả [1].<br />
Tóm lại, KNS được hiểu theo các nghĩa khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là; “KNS<br />
nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức (cái chung ta đã có) và thái độ, giái trị (cái chung ta đã<br />
nghĩ, cảm thấy, tin tưởng) thành hành động thực tế làm gì và làm cách nào là tính tích cực nhất và<br />
mang tính chất xây dựng” [3].<br />
<br />
2.1.2. Khái niệm trẻ khiếm thị<br />
Trẻ khiếm thị là trẻ em dưới 16 tuổi có khuyết tật thị giác, sau khi đã có các phương tiện<br />
trợ thị vẫn gặp nhiều khó khăn trong các hoạt động (sinh hoạt, học tập, vui chơi,. . . ) cần sử dụng<br />
mắt [2].<br />
Trẻ khiếm thị được chia thành hai loại: trẻ mù và trẻ nhìn kém.<br />
<br />
2.1.3. Yếu tố ảnh hưởng<br />
Yếu tố là một trong những bộ phận cấu thành nên các sự vật, hiện tượng, là những cái cần<br />
thiết hình thành và tạo nên cái khác (Từ điển Tiếng Việt).<br />
Yếu tố ảnh hưởng là những cái tác động lên một sự vật, hiện tượng làm thay đổi quá trình<br />
phát triển hoặc hiệu quả hoạt động của sự vật, hiện tượng đó.<br />
Yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khiếm thị tiểu học hòa nhập là<br />
159<br />
<br />
Nguyễn Thị Thắm<br />
<br />
những cái tác động đến quá trình giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khiếm thị tiểu học học hòa<br />
nhập [3]. Đó là các yếu tố liên quan đến điều kiện trường học, giáo viên, cha mẹ, môi trường,. . .<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Một số kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh khiếm thị tiểu học<br />
<br />
Cũng giống như học sinh sáng mắt, học sinh khiếm thị tiểu học cần phải được giáo dục<br />
những kĩ năng sống cơ bản. Nếu thiếu các kĩ năng sống này học sinh khiếm thị sẽ gặp khó khăn<br />
lớn trong việc tự chăm sóc bản thân, trong giao tiếp xã hội, hòa nhập với cộng đồng. Thành thạo<br />
các kĩ năng sống này sẽ tạo cho học sinh khiếm thị “tăng sự tự tin và cảm giác tự hào về bản thân<br />
– điều này rất quan trọng đối với phát triển tâm lí xã hội của học sinh khuyết tật thị giác” (Rosen,<br />
1993). Một số kĩ năng sống cần giáo dục cho học sinh khiếm thị [6]:<br />
- Kĩ năng tự nhận thức [7]: Tự nhìn nhận đánh giá về bản thân để xác định được những mặt<br />
mạnh, mặt yếu của bản thân. Nhận thức được sự thay đổi về tâm sinh lí của bản thân khi bước vào<br />
tuổi vị thành niên để có thái độ và hành vi đúng đắn: không hoảng hốt, lo sợ khi có sự thay đổi về<br />
tâm lí, sinh lí, có ý thức giữ vệ sinh ở tuổi dậy thì, có lối sống lành mạnh về thể chất và tinh thần,<br />
hiểu rõ vị trí của mình trong các mối quan hệ ở nhà, ở trường học và ngoài xã hội thông qua các<br />
hoạt động giao tiếp hàng ngày với thầy cô, bè bạn và những người xung quanh. Đối với học sinh<br />
khiếm thị, việc nhận thức được bản thân sẽ giúp các em cảm thấy tự tin hơn, không mặc cảm, xấu<br />
hổ vì mình bị khuyết tật.<br />
- Kĩ năng tự phục vụ [4]: Đối với học sinh sáng mắt, việc học kĩ năng tự phục vụ chủ yếu<br />
qua bắt chước. Đối với học sinh khiếm thị, các em cần được hướng dẫn các kĩ năng tự phục vụ<br />
cụ thể, bằng những phương pháp đặc thù. Các kĩ năng tự phục vụ dạy cho học sinh khiếm thị bao<br />
gồm: kĩ năng đi vệ sinh, kĩ năng vệ sinh cá nhân (tắm, gội, rửa tay, rửa mặt, đánh răng,. . . ), kĩ năng<br />
mặc quần áo,. . .<br />
- Kĩ năng tự bảo vệ: Học sinh biết cách tự chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của bản thân liên<br />
quan đến các vấn đề vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, dinh dưỡng, phòng bệnh, an toàn ở nhà,<br />
ở trường và ở nơi công cộng. Do khiếm khuyết về thị giác nên việc giữ an toàn, bảo vệ chăm sóc<br />
bản thân với học sinh khiếm thị là rất quan trọng. Các em cần được hướng dẫn cụ thể các kĩ thuật<br />
để đảm bảo sự an toàn khi tham gia vào các hoạt động ở trường hòa nhập. Với học sinh nhìn kém,<br />
các em còn cần biết cách chăm sóc và bảo vệ kính, đôi mắt của mình để tận dụng tối đa khả năng<br />
thị lực còn lại.<br />
- Kĩ năng giao tiếp [5]: Trong kĩ năng này học sinh khiếm thị cần hiểu được các qui tắc giao<br />
tiếp chung như: chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, nói lời yêu cầu, đề nghị, biết cách ứng xử phù hợp với<br />
một số người gần gũi quen thuộc với các em như: thầy cô giáo, bạn bè, người thân trong gia đình,<br />
phụ nữ có thai, người có hoàn cảnh khó khăn, người già. . . Biết cách giao tiếp trong các tình huống<br />
đặc biệt cần sự hỗ trợ của giáo viên, các bạn sáng mắt cùng trang lứa.<br />
- Kĩ năng kiên định và kĩ năng từ chối: Học sinh biết kiên quyết giữ vững lập trường và<br />
biết nói lời từ chối trước những chất gây nghiện, trước lời mời mọc, rủ rê của bạn bè và người xấu,<br />
không tham gia vào việc làm, hành vi mang tính tiêu cực.<br />
- Kĩ năng ứng phó với các tình huống căng thẳng [6]: Học sinh biết cách học tập, nghỉ ngơi,<br />
vui chơi, giải trí phù hợp để có tâm trạng thoải mái, lành mạnh, tránh các tình huống căng thẳng<br />
không cần thiết. Đồng thời, học sinh khiếm thị tiểu học cũng cần biết xác định rõ các mối quan<br />
hệ giữa bản thân với những người xung quanh để có thể chia sẻ, tâm sự, tìm kiếm sự giúp đỡ của<br />
người đáng tin cậy để tìm ra các giải pháp tối ưu khi gặp phải các tình huống căng thẳng trong<br />
cuộc sống hàng ngày. Ví dụ: khi bị các bạn sáng mắt trêu trọc học sinh khiếm thị phải biết cách<br />
giải quyết.<br />
- Kĩ năng ra quyết định: Học sinh khiếm thị tiểu học cũng cần biết cách đưa ra các quyết<br />
160<br />
<br />
Yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khiếm thị ở các trường...<br />
<br />
định nên và không nên làm gì để bảo vệ sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng, bảo vệ môi<br />
trường, để phòng tránh bị xâm hại, tránh các hành vi sai trái làm ảnh hưởng đến cuộc sống, học<br />
tập của bản thân và những người xung quanh.<br />
- Kĩ năng đặt mục tiêu và giải quyết các công việc [5]: Học sinh khiếm thị tiểu học cũng<br />
nên được học kĩ năng phân chia công việc thành các bước đơn giản (Fullwood, 1984). Trước tiên<br />
nên đặt ra cho học sinh khiếm thị các công việc đơn giản, dành cho trẻ để hoàn thành. Chấp nhận<br />
sự sai hỏng và khuyến khích các em kiên trì thực hiện mục tiêu. Điều này rất quan trọng với học<br />
sinh khiếm thị bởi rất nhiều em khi đi học hòa nhập vì không thể thực hiện được các nhiệm vụ đã<br />
phải bỏ học.<br />
<br />
2.3.<br />
<br />
Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục KNS cho học sinh khiếm thị tiểu<br />
học ở các trường hòa nhập<br />
<br />
- Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu mức độ tác động của các yếu tố đến quá trình giáo dục<br />
KNS cho học sinh khiếm thị ở trường tiểu học hòa nhập.<br />
- Địa bàn, đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu trên 30 giáo viên đang dạy cho học sinh khiếm<br />
thị ở 2 trường tiểu học hòa nhập: Trường Nguyễn Đình Chiểu - Hà Nội và Trường Tiểu học Lê<br />
Hồng Phong – Thái Bình.<br />
- Tiến hành nghiên cứu:<br />
Bước 1: Phát phiếu điều tra cho 30 giáo viên<br />
Bước 2: Giáo viên tiến hành trả lời câu hỏi trong phiếu điều tra<br />
Bước 3: Thu thập phiếu điều tra, xử lí số liệu<br />
Bước 4: Phỏng vấn sâu một số giáo viên để thu thập thêm các thông tin liên quan đến nội<br />
dung nghiên cứu.<br />
Bước 5: Phân tích kết quả nghiên cứu<br />
- Xử lí số liệu: xử lí số liệu thu được theo quy trình sau<br />
+ Cộng số điểm mức độ ảnh hưởng của mỗi yếu tố theo đánh giá của giáo viên: tác động<br />
nhiều (3 điểm), tác động bình thường (2 điểm), tác động ít (1 điểm), không tác động (0 điểm).<br />
+ Sử dụng công thức tính X<br />
+ Dựa vào X để xếp thứ bậc mức độ ảnh hưởng của các yếu tố<br />
Sau quá trình điều tra và xử lí số liệu chúng tôi thu được kết quả sau:<br />
Bảng 1. Các yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục KNS cho học sinh khiếm thị tiểu học<br />
Mức độ ảnh hưởng (số lượng)<br />
TT Các yếu tố ảnh hưởng<br />
Thứ bậc<br />
X<br />
Tác<br />
Không<br />
Bình<br />
Ít tác<br />
động<br />
tác<br />
thường động<br />
nhiều<br />
động<br />
1<br />
Sự kì thị của học sinh sáng<br />
25<br />
4<br />
1<br />
0<br />
2,8<br />
5<br />
Học sinh khiếm thị không<br />
được can thiệp sớm trước khi<br />
2<br />
15<br />
9<br />
6<br />
0<br />
2,1<br />
9<br />
vào học tiểu học<br />
Sự kì thị của phụ huynh học<br />
3<br />
13<br />
12<br />
5<br />
0<br />
2,25<br />
8<br />
sinh sáng<br />
<br />
161<br />
<br />
Nguyễn Thị Thắm<br />
<br />
4<br />
5<br />
6<br />
7<br />
<br />
8<br />
9<br />
<br />
Bố mẹ học sinh khiếm thị quá<br />
quan tâm, nuông chiều<br />
Bố mẹ học sinh khiếm thị ít<br />
quan tâm, chăm sóc, giáo dục<br />
Không có thời gian để dạy kĩ<br />
năng sống<br />
Giáo viên chưa có phương<br />
pháp để dạy kĩ năng sống cho<br />
học sinh khiếm thị<br />
Không có chương trình, nội<br />
dung cụ thể để dạy kĩ năng<br />
sống<br />
Lớp học hòa nhập quá đông<br />
X<br />
<br />
20<br />
<br />
7<br />
<br />
3<br />
<br />
0<br />
<br />
2,55<br />
<br />
7<br />
<br />
24<br />
<br />
6<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
2,8<br />
<br />
5<br />
<br />
25<br />
<br />
5<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
2,83<br />
<br />
4<br />
<br />
30<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
3,0<br />
<br />
1<br />
<br />
29<br />
<br />
1<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
2,95<br />
<br />
2<br />
<br />
26<br />
<br />
4<br />
<br />
0<br />
<br />
0<br />
<br />
2,87<br />
<br />
3<br />
2,68<br />
<br />
Nhận xét:<br />
Bảng kết quả trên cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục kĩ năng sống cho<br />
học sinh khiếm thị ở các trường tiểu học hòa nhập. Mức độ tác động của các yếu tố là rất cao. Đa<br />
số giáo viên cho rằng các yếu tố tác động nhiều đến việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh khiếm<br />
thị (X = 2,68), không có ý kiến nào cho rằng các yếu tố trên không tác động. Nếu xét theo tiêu chí<br />
tác động nhiều để xếp thứ bậc thì thứ bậc về mức độ tác động của từng yếu tố là:<br />
Xếp ở vị trí thứ nhất là yếu tố “Giáo viên chưa có phương pháp để dạy kĩ năng sống” (X =<br />
3,0). Mặc dù các giáo viên đều đã được tập huấn về dạy học hòa nhập nhưng dạy kĩ năng sống cho<br />
học sinh tiểu học nói chung, học sinh khiếm thị nói riêng thì các Cô chưa được học. Việc dạy kĩ<br />
năng sống cho học sinh trong lớp chỉ bằng kinh nghiệm cá nhân, chưa có những phương pháp đặc<br />
thù.<br />
Xếp ở vị trí thứ 2 là yếu tố “Không có chương trình, nội dung dạy kĩ năng sống” (X = 2,95).<br />
Qua điều tra giáo viên cho thấy các em học sinh tiểu học nói chung, học sinh khiếm thị nói riêng<br />
chưa được giáo dục KNS một cách chính thức, bài bản. Ở trường hòa nhập, giáo viên dạy kĩ năng<br />
sống chủ yếu mang tính cá nhân, không có một chương trình cụ thể. Đặc biệt với học sinh khiếm<br />
thị, qua phỏng vấn giáo viên chúng tôi nhận thấy rằng: giáo viên chủ yếu dạy kĩ năng sống cho<br />
các em bằng sự tâm huyết, yêu thương trẻ chứ không có chương trình, nội dung nào cụ thể. Ở mỗi<br />
lớp học, giáo viên hướng dẫn những kĩ năng khác nhau, chủ yếu là trong các tình huống học sinh<br />
khiếm thị chưa giải quyết được thì giáo viên sẽ hỗ trợ, hướng dẫn. Chính vì thế gần như học sinh<br />
khiếm thị chưa có được những kĩ năng sống đặc thù, trừ một số học sinh ở tại Hội người mù được<br />
các giáo viên đặc biệt hỗ trợ.<br />
Xếp ở vị trí tiếp theo là yếu tố “Lớp học quá đông” (X = 2,87), “Thiếu thời gian dạy kĩ năng<br />
sống” (X = 2,83). Theo các giáo viên, một lớp học tiểu học hòa nhập có khoảng 55-60 học sinh<br />
trong đó có 3-4 học sinh khiếm thị. Chương trình giáo dục tiểu học chủ yếu dành cho các môn văn<br />
hóa. Chính vì vậy giáo viên không có thời gian để dạy riêng các kĩ năng sống cho học sinh khiếm<br />
thị. Với một số học sinh khiếm thị, bên cạnh học văn hóa các em phải học thêm chữ nổi Braille để<br />
theo kịp học sinh sáng. Giáo viên chủ nhiệm khối lớp 4, lớp 5 – trường tiểu học Lê Hồng Phong –<br />
Thái Bình cho rằng họ vẫn kì vọng các trung tâm, hội người mù sẽ là nơi dạy kĩ năng sống cho các<br />
em khiếm thị. Giáo viên, trường hòa nhập chỉ dạy văn hóa vì lớp học quá đông, chương trình nội<br />
dung học văn hóa đã quá khó khăn đối với học sinh khiếm thị để đạt được mục tiêu theo yêu cầu.<br />
162<br />
<br />