intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Bản đồ địa chính

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:112

29
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng "Bản đồ địa chính" có nội dung khái quát về địa chính và bản đồ địa chính; Tìm hiểu bản đồ địa chính; cơ sở toán học của bản đồ địa chính; các phương pháp thành lập bản đồ địa chính; kỹ thuật biên tập bản đồ địa chính số; sử dụng, lưu trữ và hiện chỉnh bản đồ địa chính,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Bản đồ địa chính

  1. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA CHÍNH VÀ BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH 1.1. Khái quát về địa chính và quản lý địa chính 1.1.1. Nguồn gốc phát sinh của địa chính Từ xa xưa, con người đã biết khai thác sử dụng tài nguyên đất, cùng với quá   trình phát triển của xã hội, việc sử  dụng đất lâu dài đã nảy sinh vấn đề  quan hệ  giữa con người với con người liên quan đến đất đai, đặc biệt là vấn đề chiếm hữu   và sử dụng đất, vấn đề phân phối và quản lý đất. Để đảm bảo việc thực hiện quyền sở hữu đất; quyền sử dụng đất, đo đạc   địa chính; quản lý địa chính và quản lý đất đai ra đời và phát triển không ngừng  trên cơ  sở  của sự phát triển sản xuất và trình độ  khoa học kỹ  thuật. Lịch sử của   địa chính trên thực tế trùng hợp với lịch sử và kinh tế của mỗi dân tộc và mỗi quốc   gia. Người ta đã tìm thấy những khoanh vùng chiếm hữu đất làm nông nghiệp   ngay từ cuối thời kỳ đồ đá mới. Phương tiện để phân chia đất tương đối cố  định,   đó là các hàng rào, bờ giậu và hào đào. Từ thời xa xưa, địa chính đã thực sự được nhiều dân tộc sử dụng. Ở Ai Cập  đã từng có loại thuế  đất nộp bằng sản phẩm được tính theo diện tích đất và sản  phẩm thu được từ  các trang trại. Bảng kê này xuất hiện từ  khoảng 3200 ­ 2800  năm trước Công nguyên. Nó còn được dùng làm cơ  sở  tính toán tái lập các sản  nghiệp và công bố quyền sở hữu đất đai các trang trại sau mỗi lần lũ lụt của sông   Nin. Thời kỳ sau đó, người Ảrập, người Hy Lạp… đã thực hiện việc phân chia,   chiếm hữu đất đai, đặc biệt là các vùng đất chinh phục được ở  Trung Đông, Bắc  Phi. Đất đai được chia lô, đo đạc chính xác và đánh dấu rõ ràng.  Ngày nay, người ta vẫn còn chưa thật chắc chắn về  chữ nghĩa và ý nghĩa  của thuật ngữ này. Địa chính trong tiếng Anh và tiếng Pháp gọi là Cadastra. Trong  1
  2. các tài liệu hiện nay, ta còn gặp cụm từ  tiếng Anh  Land administration hay Land  tenue administration cũng được hiểu là địa chính. 1.1.2. Địa chính và chức năng của địa chính a. Địa chính Địa chính là tổng hợp các tư  liệu và văn bản xác định rõ vị  trí, ranh giới,   phân loại, số lượng, chất lượng của đất đai, quyền sở hữu, sử dụng đất và những  vật kiến trúc phụ thuộc kèm theo. b. Chức năng của địa chính 1­ Chức năng kỹ thuật Được thể hiện thông qua việc xây dựng và duy trì bản đồ địa chính. Bản đồ  địa chính được xây dựng trên cơ  sở  kỹ  thuật và công nghệ  ngày càng hiện đại,   đảm bảo cung cấp các thông tin không gian của đất đai cho công tác quản lý. Bản   đồ  địa chính thường xuyên được cập nhật các thông tin về  sự  thay đổi hợp pháp   của đất đai, việc cập nhật tiến hành theo định kỳ. 2­ Chức năng tư liệu Đó là các tư liệu dạng bản đồ, sơ  đồ  và các văn bản. Tư  liệu này phục vụ  cho các yêu cầu của cơ quan nhà nước và nhân dân. Các tư liệu này thường thông  qua ba quá trình:  ­ Xây dựng tư liệu ban đầu. ­ Cập nhật tư liệu khi có biến động. ­ Cung cấp tư liệu. 3­ Chức năng pháp lý Đây là chức năng cơ bản của địa chính. Chức năng pháp lý có hai tính chất: 2
  3. ­ Tính đối vật: Đó là nhận dạng, xác định về mặt vật lý của đất và tài sản. ­ Tính đối nhân: Nhận biết quyền sở hữu, quyền sử dụng và các quyền lợi của chủ  đất. 4­ Chức năng định thuế Đây là chức năng nguyên thuỷ và cơ bản của địa chính.  1.1.3. Phân loại địa chính a. Phân loại theo giai đoạn phát triển của địa chính ­ Địa chính thu thuế: Đó là việc đăng ký địa chính để phục vụ cho tính thuế  mà các nước tư bản lập ra từ thời kỳ đầu. ­ Địa chính pháp lý: Đó là đăng ký địa chính mà các nước dùng để  bảo hộ  cho quyền tư  hữu đất, khích lệ  việc giao dịch đất đai, ngăn cản việc đầu cơ  đất.  Khi đất đai đã được đăng ký thì quyền sử dụng đó được pháp luật bảo hộ. ­ Địa chính đa mục đích hay địa chính hiện đại chỉ là sự phát triển một bước  của hai loại địa chính nói trên. Mục đích không chỉ nhằm phục vụ thu thuế và đăng   ký quyền sử dụng mà quan trọng hơn là cung cấp những tư liệu cơ bản cho quản   lý đất đai toàn diện, cho việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, lập kế hoạch   phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất có hiệu quả và bảo vệ môi trường.  b. Phân loại theo đặc điểm và nhiệm vụ của địa chính ­  Địa chính ban đầu:  Ở  một thời kỳ, trong một khu vực, một cơ  sở  tiến   hành điều tra một cách toàn diện toàn bộ  đất đai, thành lập bản đồ  địa chính, lập  địa bạ. Đây có thể  không phải là hồ  sơ  địa chính đầu tiên trong lịch sử  của khu   vực, nhưng nó bắt đầu cho một thời kỳ mới. ­ Địa chính thường xuyên hay địa chính biến động: Đó là sự biến động các  tình trạng số  lượng, chất lượng, phân bố  không gian, quyền sở  hữu, quyền sử  3
  4. dụng đất. Địa chính biến động dựa trên cơ sở địa chính ban đầu để bổ sung và đổi  mới. c. Phân chia địa chính theo cấp quản lý hành chính ­  Địa chính quốc gia: dùng để  chỉ  đối tượng địa chính thuộc sở  hữu toàn  quốc, phục vụ quản lý thống nhất theo phạm vi toàn quốc. ­  Địa chính địa phương: Đối tượng địa chính thuộc sở hữu quốc gia, sở hữu   tập thể hoặc cá nhân trong phạm vi địa phương.   d. Phân loại theo độ chính xác ­ Địa chính đồ giải: Là địa chính thiết lập trên cơ sở đo vẽ đồ  giải, sử dụng  bàn đạc mà sản phẩm đầu tiên là các bình đồ địa chính tỷ lệ lớn. Có thể dùng phương   pháp đồ giải để tính toạ độ, khoảng cách, góc, diện tích, nhưng chỉ đạt độ chính xác   hạn chế. ­ Địa chính cho toạ  độ  giải tích:  Ở  thực địa trực tiếp đo được toạ  độ  của  các điểm bằng các máy toàn đạc điện tử, hoặc đo các yếu tố khác như góc, cạnh,   rồi tính ra toạ độ, diện tích…Độ chính xác của kết quả sẽ tốt hơn so với phương  pháp đồ giải. 1.1.4. Nguyên tắc và nội dung của quản lý địa chính Quản lý địa chính là tên gọi chung cho cả hệ thống công tác địa chính. Đó là  hệ thống các biện pháp giúp cho cơ quan nhà nước nắm chắc các thông tin đất đai,   quản lý được quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, bảo vệ  quyền lợi hợp pháp cho  người sở hữu và sử dụng đất.  1­ Nguyên tắc quản lý địa chính: a. Quản lý địa chính cần tiến hành theo quy chế thống nhất do nhà nước quy  định, được cụ thể hoá bằng các văn bản pháp luật như luật, nghị định, thông tư… 4
  5. b. Tư liệu địa chính phải đảm bảo tính nhất quán, liên tục và hệ thống. c. Đảm bảo độ chính xác và tin cậy cao. d. Đảm bảo tính khái quát và tính hoàn chỉnh. 2­ Nội dung quản lý địa chính: Nội dung của nó bao gồm: Điều tra đất đai, đo đạc, lập bản đồ  địa chính,  đăng ký đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phân loại, phân hạng, định   giá đất… Nó có ý nghĩa to lớn trong quản lý đất đai, lập quy hoạch tổng thể, kế  hoạch sử dụng đất, chính sách đất đai, thu thuế,… 1.2. Đo đạc địa chính 1.2.1. Đo đạc địa chính và quản lý địa chính Quản lý địa chính là quản lý cơ  sở  trong quản lý đất đai nói chung, còn đo  đạc địa chính là  công tác kỹ  thuật  cơ  sở  cực kỳ  quan trọng trong quản lý địa  chính, là nội dung trọng tâm của quản lý địa chính. Nó đảm bảo độ tin cậy và tính   chính xác các thông tin đất đai, ví dụ  như  vị  trí chính xác các điểm ranh giới đất,  kích thước, diện tích các thửa đất, vị trí và mối quan hệ với xung quanh,… Quản lý  địa chính mà không có đo đạc địa chính thì không thể thực hiện được nhiệm vụ. Đo đạc địa chính là việc đo đạc với độ  chính xác nhất định để  xác định các   thông tin về đơn vị đất đai như ranh giới, vị trí phân bổ đất, ranh giới sử dụng đất,  diện tích đất, đồng thời điều tra phản ánh hiện trạng phân loại sử dụng đất, phân   hạng chất lượng đất. Đo đạc địa chính bao gồm đo đạc ban đầu để thành lập bản   đồ, hồ sơ địa chính ban đầu và đo đạc hiệu chỉnh được thực hiện khi thửa đất có   thay đổi về hình dạng và kích thước. Sản phẩm của đo đạc địa chính là bản đồ  địa chính và các văn bản mang   tính kỹ thuật và pháp lý cao phục vụ trực tiếp cho quản lý địa chính và quản lý đất  đai. Nó khác đo đạc thông thường ở chỗ có tính chuyên môn cao, thể hiện như: ­ Đó là hành vi hành chính có tính pháp lý cao. ­ Có độ chính xác cao thoả mãn yêu cầu quản lý đất đai. 5
  6. ­ Có tư liệu đồng bộ gồm bản đồ, sổ sách, bảng biểu, giấy chứng nhận,… ­ Cần đảm bảo tính xác thực, tính hiện thời của tư liệu. ­ Sự đổi mới không nhất thiết phải theo chu kỳ cố định, khi yếu tố địa chính   thay đổi thì phải kịp thời đo bổ sung và cập nhật hồ sơ địa chính. Thuật ngữ  Cadastre trong tiếng Pháp được hiểu là địa chính và bao hàm cả  nghĩa đo đạc địa chính, còn trong tiếng Anh hiện đại người ta dựng  Cadastrai   Survey  để chỉ công tác đo đạc địa chính. 1.2.2. Nhiệm vụ của đo đạc địa chính Đo đạc địa chính là công tác đo vẽ và điều tra xác định các thông tin cơ bản  về vị trí, kích thước đất đai và các vật phụ thuộc trên đó, đồng thời tiến hành điều   tra quyền sở  hữu, quyền sử  dụng, phân loại sử  dụng, phân hạng đất nhằm cung  cấp những thông tin về đất đai kịp thời phục vụ quản lý đất, quản lý nhà, thu thuế,  qui hoạch thành phố, làng mạc, khai thác tài nguyên đất quốc gia một cách có hiệu  quả, phục vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Đặc điểm kỹ  thuật của đo đạc địa chính là: Ngoài việc cần đảm bảo thực   hiện đúng các tiêu chuẩn nhà nước về đo vẽ  bản đồ  tỷ  lệ  lớn, còn phải song song   tiến hành điều tra địa chính để thu thập các thông tin về địa lý, kinh tế, pháp luật của  đất đai và các bất động sản. Các thông tin này cần hoàn chỉnh, có hệ thống và được   biểu thị dưới các hình thức như bản đồ, bảng biểu, văn bản, đồng thời biên tập thành   hồ sơ, địa bạ.  Việc quản lý địa chính đòi hỏi có thông tin tin cậy về đất đai, phải đảm bảo   độ chính xác nhất định. Do đó, đo đạc địa chính đương nhiên cần theo nguyên tắc  và phương pháp đo đạc hoàn chỉnh, ví dụ từ toàn diện đến cục bộ, trước tiên phải  tiến hành đo khống chế, sau đó mới đo chi tiết. Nội dung của đo đạc địa chính  gồm có: ­ Đo đạc lưới khống chế toạ độ và độ cao địa chính. ­ Đo vẽ các thửa đất, các loại đất và các công trình trên đất. 6
  7. ­ Điều tra thu thập tư liệu về quyền sử dụng đất, sở hữu nhà, hiện trạng sử  dụng đất, phân hạng, tính thuế… ­ Khi có biến động đất đai cần kịp thời đo vẽ, cập nhật hồ  sơ  địa chính,  công việc gồm: đo vẽ hiệu chỉnh bản đồ  địa chính, đo vẽ  lại và chỉnh sửa hồ  sơ  nhằm đảm bảo tính chính xác và hiện thực của tư liệu địa chính. ­ Căn cứ các yêu cầu về sử dụng đất, khai thác tài nguyên, quy hoạch đất để  tiến hành các công việc đo vẽ có liên quan. Đo đạc địa chính thường đòi hỏi xác định chính xác vị trí mặt bằng của thửa   đất và các công trình có độ chính xác cao. Còn độ cao của chúng không yêu cầu chặt  chẽ. Đo đạc địa chính tuy thuộc phạm trù khoa học kỹ thuật đo vẽ nhưng do nội  dung và sự ứng dụng của nó có liên quan đến pháp luật, kinh tế, xã hội và quản lý   nên những nhân viên làm việc quản lý, đo đạc địa chính cần phải học và tìm hiểu  nhiều kiến thức cơ  sở  về  các lĩnh vực có liên quan. Không những thế, trong quá  trình điều tra, đo vẽ cần phối hợp với các ngành liên quan, phải có quy trình, quy  phạm thống nhất và được pháp luật bảo vệ thì mới có thể thực hiện được nhiệm  vụ. 7
  8. 1.2.3. Sản phẩm của đo đạc địa chính Sổ  địa bạ  và bản đồ  địa chính gọi chung là tài liệu đo vẽ  địa chính là kết  quả cuối cùng của đo đạc địa chính, đó là tài liệu cơ sở cho quản lý địa chính đồng   thời là tài liệu quan trọng trong tư liệu địa chính. Bản đồ địa chính là thành quả chủ yếu của đo đạc địa chính. Đó là loại bản  đồ chuyên ngành, song nó khác với các bản đồ chuyên ngành thông thường ở chỗ  cần thành lập ở tỷ lệ lớn và phạm vi đo vẽ rộng khắp trên toàn quốc và phải được   cập nhật thường xuyên. Bản đồ địa chính đáp ứng yêu cầu của số liệu đồng bộ  hoá dữ liệu trên cả nước, được sử dụng trong các ngành kinh tế kỹ thuật nên nó  còn có tính chất của loại bản đồ cơ bản quốc gia. 1.2.4. Địa chính Việt Nam + Theo các tài liệu lịch sử  thì  ở  Việt Nam từ  thế  kỷ  XI đó tiến hành việc   kiểm tra điền địa. Đến triều đại Lê Thánh Tông, thế  kỷ  XV, bộ  “Hồng Đức bản  đồ” được thành lập, đó là tư liệu quý về trắc địa, bản đồ và quản lý lãnh thổ. + Năm 1806, vua Gia Long ban hành sắc lệnh đạc điền trong phạm vi toàn  lãnh thổ và lập mỗi xã một bộ sổ địa bạ. Trong sổ phân biệt rõ ràng ranh giới giữa  công, tư điền thổ, ghi rõ quy mô diện tích của các loại đất, tứ cận, ghi đủ tên của  các chủ  sở  hữu đất trên các văn tự  và đồ  hoạ  tương  ứng. Đến thời Thiệu Trị  thì  công việc kiểm kê điền địa còn được thực hiện nghiêm chỉnh và tu chỉnh lại 5 năm   một lần theo sắc lệnh của nhà vua. Như vậy từ đầu thế kỷ XIX, tư liệu địa chính  của Việt Nam đó được xây dựng và có chế độ cập nhật rõ ràng. + Trong gần 100 năm đô hộ Việt Nam, thực dân Pháp đa s ̃ ử dụng địa chính  vào việc điều hành kinh tế xã hội như một công cụ quan trọng để  thống trị. Biện   pháp kỹ thuật của họ là đo vẽ bản đồ và điều tra đất đai, lập địa bạ. Từ năm 1871   đến 1895 người Pháp đã cho lập lưới tam giác  ở  Nam Kỳ, xây dựng bản đồ  địa   chính ở các thôn ấp, làng, xã, xác định rõ ranh giới các loại đất, ranh giới các chủ  sở hữu đất. Những năm sau đó đo vẽ bản đồ  địa chính ở nhiều khu vực, đặc biệt  là những vùng đất màu mỡ. Tỷ  lệ  bản đồ  địa chính ở  vùng đô thị  là 1:200, 1:500,  1:1000,  ở  vùng nông thôn đồng bằng là 1:1000, 1:2000, 1:4000, còn  ở  vùng núi là   8
  9. 1:4000, 1:5000 và 1:15000. Tiến hành lập sổ địa chính hay sổ địa bạ để làm căn cứ  tính thuế, lập sổ thuế điền thổ. Về tổ chức, đã lập ra các nha địa chính ở Bắc Kỳ,  Trung Kỳ và Nam Kỳ, ở mỗi vùng áp dụng chế độ quản lý khác nhau. + Trong giai đoạn 1955­1975  ở  miền Nam có Nha địa chính, sau chuyển  thành Tổng nha địa chính (1965­1975) đảm nhiệm việc xây dựng các tài liệu quản   thổ, tài liệu địa chính và khai thác các tài liệu để  thi hành luật thuế  cải cách điền  địa. + Từ 1945 khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời, công tác địa chính  luôn được quan tâm duy trì và phát triển. + Ngày 02 tháng 02 năm 1947 các Ty địa chính được lập vào Bộ canh nông. + Ngày 18/6/1949 Nha địa chính hợp nhất với ngành công sản trực thu thành   Nha công sản Địa chính thuộc Bộ Tài chính. + Ngày 3/7/1958 Chính phủ ban hành chỉ thị 33/TTG về việc tiến hành công   tác địa chính thuộc Bộ tài chính. + Ngày 9/12/1960 Chính phủ  ra quyết định 70/CP quy định nhiệm vụ  tổ  chức ngành quản lý ruộng đất, chuyển ngành địa chính thuộc Bộ  tài chính thành  ngành Quản lý ruộng đất thuộc Bộ Nông nghiệp. + Nghị quyết 548/NQ­QH ngày 21/5/1979 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội   và nghị quyết số 404/CP ngày 9/11/1979 đó thành lập hệ thống quản lý đất đai trực  thuộc Hội đồng Bộ Trưởng và Uỷ ban nhân dân các cấp. Công tác đo đạc thành lập bản đồ giải thửa đã được tiến hành trên phạm vi  cả nước. Bản đồ được thành lập theo hệ toạ độ tự do, đã kịp thời đáp ứng nhiệm  vụ kiểm kê đất đai. + Ngày 22/2/1994 Tổng cục Địa chính được thành lập trên cơ sở hợp nhất   và tổ  chức lại Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục đo đạc ­ bản đồ  Nhà nước.   Tổng cục là cơ  quan thuộc Chính phủ  thực hiện chức năng quản lý nhà nước về  đất đai và đo đạc bản đồ. Để phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai nói  9
  10. chung, công tác đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói riêng, ngành   Địa chính đã tiến hành đo đạc thành lập Bản đồ  địa chính mới trên phạm vi cả  nước. Bản đồ  địa chính và Bản đồ  giải thửa cơ  bản giống nhau về  tính chất và   nội dung. Đến nay khoảng 8000 xã đã có Bản đồ địa chính. + Theo Nghị quyết 02/QH11 ngày 5/8/2002 của Quốc hội khoá 11 về  việc   quy định các bộ và cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, Bộ tài nguyên và môi trường   đã được thành lập. Công tác quản lý nhà nước về đất đai do một số đơn vị  thuộc  Bộ  đảm nhiệm, trong đó có 3 đơn vị  chủ  chốt là : Vụ  Đăng ký và Thống kê đất   đai; Vụ đất đai; Trung tâm điều tra, quy hoạch đất đai.                                                   10
  11. Chương 2 BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH 2.1. Khái niệm bản đồ địa chính Theo điều 3, luật Đất đai 2013 Bản đồ  địa chính là bản đồ  thể  hiện các thửa đất và các yếu tố  địa lý có   liên quan, lập theo đơn vị  hành chính xã, phường, thị  trấn và được cơ  quan Nhà   nước có thẩm quyền xác nhận.  Bản đồ địa chính là tài liệu cơ bản nhất của bộ hồ sơ địa chính, vì vậy bản   đồ địa chính thể hiện tính chất cơ ban là  ̉ tính địa lý: xác định vị trí địa vật, địa hình  khu vực; tính kinh tế:  ở  vị trí và mục đích sử dụng của thửa đất. Đặc biệt, bản   đồ địa chính còn mang tính pháp lý cao phục vụ quản lý chặt chẽ đất đai đến từng  thửa, từng chủ sử dụng đất. Tính pháp lý của bản đồ địa chính còn được thể  hiện  trong hồ sơ địa chính. Công tác địa chính bao gồm cả 3 mặt: tự nhiên, kinh tế, pháp lý. Ba mặt này   có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu thiếu một trong ba yếu tố thì chưa đủ điều   kiện để gọi là “Địa chính”. 2.2. Mục đích và nhiệm vụ của bản đồ địa chính (Theo Mục 1.4 Quy phạm thành lập bản đồ địa chính số 08/ 2008) 1. Làm cơ sở để thực hiện đăng ký quyền sử dụng đất (hay gọi tắt là đăng   ký đất đai), giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, đền bù, giải phóng mặt bằng, cấp   mới, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất và quyền sở  hữu tài sản gắn liền với đất, giấy chứng nhận quyền sở  hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật. 2. Xác nhận hiện trạng về  địa giới hành chính xã, phường, thị  trấn; quận,   huyện, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện); tỉnh, thành phố trực thuộc Trung   ương (gọi chung là tỉnh). 3. Xác nhận hiện trạng, thể  hiện biến động và phục vụ  cho chỉnh lý biến   động của từng thửa đất trong từng đơn vị hành chính xã. 11
  12. 4. Làm cơ sở để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng  các khu dân cư, đường giao thông, cấp thoát nước, thiết kế các công trình dân dụng   và làm cơ sở để đo vẽ các công trình ngầm. 5. Làm cơ sở để thanh tra tình hình sử dụng đất và giải quyết khiếu nại, tố  cáo, tranh chấp đất đai. 6. Làm cơ sở để thống kê và kiểm kê đất đai. 7. Làm cơ sở để xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai các cấp. 2.3. Yêu cầu đối với bản đồ địa chính ­ Thể hiện đúng hiện trạng của thửa đất, chính xác rõ ràng cả về mặt địa lý  và pháp lý, không nhầm lẫn về chủ sử dụng và loại đất. ­ Chọn tỷ lệ bản đồ địa chính phù hợp với vùng đất, loại đất. ­ Bản đồ  địa chính phải có hệ  thống toạ độ  thống nhất, có phép chiếu phù   hợp để các yếu tố trên bản đồ biến dạng nhỏ nhất. ­ Thể hiện đầy đủ  và chính xác các yếu tố  không gian như vị  trí các điểm,  các đường đặc trưng, diện tích các thửa đất… ­ Các yếu tố pháp lý phải được điều tra, thể hiện chuẩn xác và chặt chẽ. ­ Các quy định kỹ thuật đối với bản đồ địa chính (dạng bản đồ giấy, bản đồ  số) phải thuận tiện cho việc sử dụng, bảo quản, cập nhật và lưu trữ. 2.4. Nội dung bản đồ địa chính 2.4.1. Các yếu tố cơ bản của bản đồ địa chính Bản đồ địa chính được sử dụng trong quản lý đất đai là bộ bản đồ biên tập  riêng cho từng đơn vị  hành chính cơ  sở  xã, phường, mỗi bộ  bản đồ  có thể  gồm   nhiều tờ bản đồ ghép lại. Để đảm bảo tính thống nhất, tránh nhầm lẫn và dễ dàng  vận dụng trong quá trình thành lập, sử dụng bản đồ và quản lý đất đai, ta cần hiểu  rõ bản chất một số yếu tố cơ bản của bản đồ địa chính.  Yếu tố điểm: Điểm là một vị trí được đánh dấu ở thực địa bằng dấu mốc  đặc biệt. Trong thực tế, đó là các điểm trắc địa, các điểm đặc trưng trên đường  12
  13. biên thửa đất, các điểm đặc trưng của địa vật, địa hình. Trong địa chính cần quản  lý dấu mốc thể hiện ở thực địa và toạ độ của chúng.  Yếu tố  đường: Đó là các đoạn thẳng cần xác định và quản lý toạ  độ  hai   điểm đầu và cuối, từ toạ độ có thể tính ra được chiều dài và phương vị của đoạn  thẳng. Đối với đường gấp khúc cần quản lý toạ  độ  các điểm đặc trưng của nó.  Các đường cong có hình dạng hình học cơ  bản có thể  quản lý các yếu tố  đặc  trưng, ví dụ: một cung tròn có thể xác định và quản lý điểm đầu, cuối và bán kính   của nó. Tuy nhiên trong đo đạc địa chính thường xác định đường cong bằng cách  chia nhỏ  cung cong tới mức các đoạn của nó có thể  coi là đoạn thẳng, khi đó   đường cong được xác định và quản lý một đường gấp khúc. Thửa đất: Là yếu tố quan trọng của đất đai. Thửa đất là một mảnh đất tồn  tại  ở  thực địa có diện tích xác định, được giới hạn bởi một đường bao khép kín,  thuộc một chủ sở hữu hoặc chủ sử dụng nhất định. Trong mỗi thửa đất có thể có   một hoặc một số  loại đất. Đường ranh giới thửa đất  ở  thực địa có thể  là con   đường, bờ  ruộng, tường xây, hàng rào cây… hoặc đánh dấu bằng các mốc theo   quy ước của các chủ sử dụng đất. Các yếu tố đặc trưng của thửa đất là các điểm   góc thửa, chiều dài các cạnh và diện tích của nó. Trên bản đồ địa chính tất cả các   thửa đất đều được xác định vị trí, ranh giới, diện tích. Mọi thửa đất đều được đặt   tên, tức là gán cho nó 1 số hiệu địa chính, số hiệu này thường được đặt theo thứ tự  trên từng tờ bản đồ địa chính. Ngoài số hiệu địa chính, các thửa đất còn có các đặc  trưng như  địa danh, tên riêng của khu đất, xứ  đồng, lô đất, địa chỉ  thôn, đường   phố, và địa danh thửa đất giúp cho viêc nhận dạng, phân biệt thửa này với thửa   khác trên phạm vi địa phương và quốc gia. Về nguyên tắc mọi sự thay đổi diện tích thửa đất sẽ đương nhiên kéo theo   sự huỷ bỏ số hiệu thửa cũ của nó và việc thiết lập tương ứng các số hiệu mới cho   các thửa đất được hình thành từ việc thay đổi này. Thửa đất phụ: Trên 1 thửa đất lớn có thể  tồn tại các thửa nhỏ  có đường   ranh giới phân chia không  ổn định, có các phần được sử  dụng vào các mục đích  khác nhau, trồng cây khác nhau, mức tính thuế  khác nhau, thậm chí thường xuyên  13
  14. thay đổi chủ sử dụng đất. Loại thửa nhỏ này được gọi là thửa đất phụ hay đơn vị  phụ tính thuế ví dụ: một thửa đất trong khu vực dân cư  nông thôn do một chủ  sử  dụng có đất  ở, ao và vườn. Có thể  phân chia các loại đất trong thửa chính tạo ra  các thửa phụ. Lô đất: là vùng đất có thể gồm một hoặc nhiều thửa đất. Thông thường lô   đất được giới hạn bởi các con đường, kênh mương, sông ngòi…Đất đai được chia   lô theo điều kiện địa lý như có cùng độ cao, độ dốc, theo điều kiện giao thông thuỷ  lợi, theo mục đích sử dụng hay cùng loại cây trồng. Khu đất, xứ  đồng: Đó là vùng đất gồm nhiều thửa đất, nhiều lô đất. Khu  đất và xứ đồng thường có tên gọi riêng được đặt từ lâu đời. Thôn, bản, xóm,  ấp: Đó là các cụm dân cư  tạo thành 1 cộng đồng người   cùng sống và lao động sản xuất trên cùng 1 vùng đất. Các cụm dân cư  thường có  sự liên kết mạnh về các yếu tố dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp… Xã, phường: là đơn vị hành chính cơ sở gồm nhiều thôn, bản hoặc đường   phố. Đó là đơn vị hành chính có đầy đủ  các tổ chức quyền lực để  thực hiên chức  năng quản lý nhà nước một các toàn diện đối với các hoạt động về chính trị, kinh   tế, văn hóa, xã hội trong phạm vi lãnh thổ  của mình. Thông thường bản đồ  địa  chính được đo vẽ và biên tập theo đơn vị hành chính cơ sở xã phường để sử dụng  trong quá trình quản lý đất đai. 2.4.2. Các nội dung cần thể hiện trên bản đồ địa chính Bản đồ địa chính là tài liệu chủ yếu trong bộ hồ sơ địa chính vì vậy trên bản  đồ cần thể hiện đầy đủ các nội dung đáp ứng yêu cầu quản lý đất đai. Các yếu tố  nội dung chính thể hiện trên bản đồ địa chính gồm: 1. Khung bản đồ; 2. Điểm khống chế  toạ  độ, độ  cao Quốc gia các hạng, điểm địa chính, điểm   khống chế ảnh ngoại nghiệp, điểm khống chế đo vẽ có chôn mốc ổn định; 14
  15. Trên bản đồ cần thể hiện đầy đủ các điểm khống chế toạ độ và độ cao nhà   nước các cấp, điểm địa chính các điểm khống chế đo vẽ có chôn mốc để sử dụng  lâu dài. Đây là yếu tố dạng điểm, cần thể hiện chính xác đến 0,1mm trên bản đồ. 3. Mốc địa giới hành chính, đường địa giới hành chính các cấp;   Cần thể  hiện chính xác đường địa giới quốc gia, địa giới hành chính các   cấp tỉnh, huyện, xã, các mốc giới hành chính, các điểm ngoặt của đường địa giới.   Khi đường địa giới hành chính các cấp trùng nhau thì biểu thị  đường địa giới cấp  cao nhất. Các đường địa giới phải phù hợp với hồ  sơ  địa giới đang được lưu trữ  trong các cơ quan nhà nước. 4. Mốc giới quy hoạch; chỉ giới hành lang bảo vệ an toàn giao thông, thuỷ lợi,   đê điều, hệ thống dẫn điện và các công trình công cộng khác có hành lang bảo   vệ an toàn; Trên bản đồ  địa chính phải thể  hiện đầy đủ  mốc quy hoạch, chỉ  giới quy   hoạch, hành lang an toàn giao thông, hành lang bảo vệ đường điện cao thế, bảo vệ  đê điều. 5. Ranh giới thửa đất, loại đất, số thứ tự thửa đất, diện tích thửa đất; Ranh giới thửa đất, số thứ  tự  thửa đất, diện tích thửa đất: Thửa đất là  yếu tố cơ bản của bản đồ địa chính. Ranh giới thửa đất được thể hiện trên bản đồ  bằng đường viền khép kín dạng đường gấp khúc hoặc đường cong. Để xác định vị  trí thửa đất cần đo vẽ  chính xác các điểm đặc trưng trên đường ranh giới của nó   như điểm góc thửa, điểm ngoặt, điểm cong của đường biên. Đối với mỗi thửa đất,  trên bản đồ còn phải thể hiện đầy đủ ba yếu tố là số thứ tự thửa, diện tích và loại   đất theo mục đích sử dụng. Loại đất:  Tiến hành phân loại và thể  hiện 3 loại đất chính là đất nông  nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Trên bản đồ địa chính cần phân   loại đến từng thửa đất, từng loại đất chi tiết. 6. Nhà ở và công trình xây dựng khác:  Chỉ  thể  hiện trên bản đồ  các công trình xây dựng chính phù hợp với mục   đích sử  dụng của thửa đất, trừ  các công trình xây dựng tạm thời. Các công trình   ngầm khi có yêu cầu thể  hiện trên bản đồ  địa chính phải được nêu cụ  thể  trong   thiết kế kỹ thuật ­ dự toán công trình;  Khi đo vẽ bản đồ tỷ  lệ lớn ở vùng đất thổ  15
  16. cư, đặc biệt là ở khu vực đô thị thì trên từng thửa đất còn phải thể hiện chính xác  ranh giới các công trình xây dựng cố định như nhà ở, nhà làm việc… Các công trình  xây dựng được xác định theo mép tường phía ngoài. Trên vị trí công trình còn biểu  thị tính chất công trình như nhà gạch, nhà bê tông, nhà nhiều tầng… 7. Các đối tượng chiếm đất không tạo thành thửa đất  Ví dụ : như đường giao thông, công trình thủy lợi, đê điều, sông, suối, kênh,  rạch và các yếu tố chiếm đất khác theo tuyến; Hệ  thống giao thông: Cần thể hiện tất cả các loại đường sắt, đường bộ,  đường hàng không, đường trong làng, ngoài đồng, đường phố, ngõ phố… nếu có  trên địa bàn. Đo vẽ  chính xác vị  trí tim đường, mặt đường, chỉ  giới đường, các  công trình cầu cống trên đường và tính chất con đường. Giới hạn thể  hiện hệ  thống giao thông là chân đường, đường có độ rộng lớn hơn hoặc bằng 0,5mm trên  bản đồ  phải vẽ  2 nét, nếu độ  rộng nhỏ  hơn 0,5 thì vẽ  1 một nét và ghi chú độ  rộng. Mạng lưới thuỷ văn: Thể hiện hệ thống sông ngòi, kênh mương, ao hồ…  có trên địa bàn được thể  hiện theo mức nước cao nhất hoặc mức nước tại thời   điểm đo vẽ. Độ rộng kênh mương lớn hơn hoặc bằng 0.5mm trên bản đồ phải vẽ  2 nét, nếu độ rộng nhỏ hơn 0,5mm thì vẽ 1 một theo đường tim của nó và ghi chú   độ rộng. Khi đo vẽ trong các khu dân cư thì phải vẽ chính xác các rãnh thoát nước   công cộng. Sông ngòi, kênh mương cần phải ghi chú tên riêng và hướng nước  chảy. 8. Địa vật, công trình có giá trị  về  lịch sử, văn hóa, xã hội và ý nghĩa định   hướng cao; 9. Dáng đất hoặc điểm ghi chú độ cao  Thể  hiện dáng đất bằng đường đồng mức hoặc ghi chú độ  cao hoặc kết  hợp cả hai; và được thể hiện khi có yêu cầu thể hiện phải được nêu cụ thể trong   thiết kế kỹ thuật ­ dự toán công trình; 10. Ghi chú thuyết minh. Khi ghi chú các yếu tố nội dung bản đồ  địa chính phải tuân theo các quy định  về ký hiệu bản đồ địa chính 16
  17. 2.5. Phân loại bản đồ địa chính Khi nghiên cứu đặc điểm quy trình công nghệ thành lập bản đồ địa chính và  phạm vi  ứng dụng của bản đồ  địa chính, ta cần làm quen với 1 số  khái niệm về  các loại bản đồ địa chính sau: ­ Bản đồ giấy địa chính: Bản đồ  giấy địa chính là loại bản đồ  truyền thống, các thông tin được thể  hiện toàn bộ trên giấy nhờ hệ thống ký hiệu và ghi chú. Bản đồ giấy cho ta thông tin rõ ràng, trực quan, dễ sử dụng. ­ Bản đồ số địa chính : Bản đồ số địa chính có nội dung thông tin tương tự như bản đồ  giấy, song   các thông tin này được lưu trữ dưới dạng số trong máy tính, sử dụng một hệ thống ký hiệu đã số hoá. Các thông tin không gian lưu trữ dưới dạng tọa độ, còn thông tin thuộc tính sẽ được mã hoá. Bản đồ số địa chính được hình thành dựa trên hai yếu   tố kỹ thuật là phần cứng máy tính và phần mềm điều hành. Các số liệu đo đạc hoặc  bản đồ cũ được đưa vào máy tính để xử lý, biên tập, lưu trữ và có thể in ra thành bản  đồ giấy.  Hai loại bản đồ  trên thường có cùng cơ  sở  toán học, cùng nội dung. Tuy  nhiên bản đồ  số  đã sử  dụng thành quả  của công nghệ  thông tin hiện đại nên có   được nhiều ưu điểm hơn hẳn so với bản đồ giấy thông thường.  ­ Bản đồ địa chính cơ sở  Đó là tên gọi chung cho bản đồ  gốc được đo vẽ  bằng các phương pháp đo   vẽ trực tiếp  ở thực địa, đo vẽ bằng các phương pháp có sử dụng ảnh hàng không  kết hợp với đo vẽ bổ sung ở thực địa hay được thành lập trên cơ sở biên tập, biên   17
  18. vẽ  từ  bản đồ  địa hình cùng tỷ  lệ  đó có. Bản đồ  địa chính cơ  sở  được đo vẽ  kín   ranh giới hành chính và kín mảnh bản đồ. Bản đồ địa chính cơ sở là tài liệu cơ bản để  biên tập, biên vẽ và đo vẽ  bổ  sung thành bản đồ địa chính theo đơn vị hành chính cơ sở xã, phường, thị trấn, để  thể  hiện hiện trạng vị trí, diện tích, hình thể  và loại đất của các thửa đất có tính   ổn định lâu dài và dễ xác định ở thực địa. ­ Bản đồ địa chính Đó là tên gọi của bản đồ  được biên tập, biên vẽ từ bản đồ  địa chính cơ  sở  theo từng đơn vị hành chính cơ sở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã), được  đo vẽ bổ sung để vẽ trọn vẹn các thửa đất, xác định loại đất theo chỉ tiêu thống kê   của từng chủ  sử  dụng đất trong mỗi mảnh bản đồ  và được hoàn chỉnh phù hợp   với số liệu trong hồ sơ địa chính. Bản đồ  địa chính được lập cho từng đơn vị  hành chính cấp xã, là tài liệu   quan trọng trong bộ hồ sơ địa chính; trên bản đồ thể hiện vị trí, hình thể, diện tích,   số thửa và loại đất của từng chủ sử dụng đất; đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà  nước về đất đai ở tất cả các cấp xã, huyện, tỉnh và trung ương. ­ Bản đồ trích đo Là tên gọi chung cho bản vẽ có tỷ  lệ  lớn hơn hay nhỏ  hơn tỷ lệ bản đồ  địa   chính cơ sở, bản đồ địa chính, trên đó thể hiện chi tiết từng thửa đất trong các ô thửa,  vùng đất có tính ổn định lâu dài hoặc thể hiện chi tiết theo yêu cầu quản lý đất đai. 18
  19. Chương 3  CƠ SỞ TOÁN HỌC CỦA BẢN ĐỒ ĐỊA CHÍNH 3.1. Khái niệm về phép chiếu và hệ toạ độ địa chính 3.1.1. Các phép chiếu bản đồ đã được sử dụng ở Việt Nam Tại Việt Nam, có 2 lưới chiếu đẳng góc được sử  dụng cho bản đồ  địa   chính đó là lưới chiếu Gaus­ Kruger và UTM. Bản đồ  địa chính của Việt Nam được thành lập trước năm 2000 đều sử  dụng múi chiếu Gauss. Tháng 7 năm 2000, tổng cục địa chính đã công bố  và đưa   vào sử dụng hệ quy chiếu và hệ toạ độ nhà nước VN­2000, múi chiếu UTM được  chính thức sử dụng trong ngành địa chính.   Để  đáp  ứng yêu cầu quản lý đất đai, đặc biệt là khi sử  dụng hệ  thống  thông tin đất đai, bản đồ  địa chính trên toàn bộ  lãnh thổ  phải là một hệ  thống  thống nhất về cơ sở toán học và độ  chính xác. Muốn vậy phải xây dựng lưới toạ  độ  thống nhất và chọn hệ quy chiếu tối  ưu và hợp lý để  thể  hiện bản đồ. Trong   khi lựa chọn hệ  quy chiếu cần đặc biệt  ưu tiên giảm nhỏ  đến mức có thể   ảnh   hưởng của biến dạng phép chiếu đến kết quả thể hiện yếu tố bản đồ. Ta xem xét  việc lựa chọn hệ quy chiếu theo các vấn đề sau: 3.1.2.  Ảnh hưởng biến dạng phép chiếu toạ  độ  phẳng đến các yếu tố  trên  bản đồ   Bản đồ  địa chính phải thể  hiện trên mặt phẳng qua một phép chiếu xác  định. Phép chiếu cần được chọn sao cho biến dạng của các yếu tố  thể  hiện trên  bản đồ là nhỏ nhất, tức là ảnh hưởng biến dạng phép chiếu đến độ  chính xác các  yếu tố đo đạc và cần quản lý thể hiện trờn bản đồ là không đáng kể.  Sơ đồ múi chiếu và đặc điểm biến dạng của hai phép chiếu Gauss và UTM  được giới thiệu trên hình 3.1. 19
  20. Hình 3.1    Các trị số biến dạng ghi ở bảng 3.1 Bảng 3.1                                      Múi chiếu 1.5o 3o 6o Các chỉ số biến dạng Tỷ lệ độ dài 1,000086 1,000343 1,00137 Biến dạng dài % 0,0086 0,0343 0,137 D/D   1:11600 1:3200 1:750 Tỷ lệ diện tích 1,000171 1,000685 1,00274 Biến dạng diện tích % 0.0171 0,0685 0,274 P/P 1:58000 1:1460 1:360 Kết luận: Số  liệu bảng 3.1 cho ta thấy biến dạng độ  dài và diện tích cực   đại của phép chiếu Gauss­Kruger giảm đáng kể khi ta giảm độ rộng múi chiếu từ   60 xuống 30hoặc 1.50. Khi lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1:1000. 1:2000 và 1:5000, nên   dùng múi chiếu 30còn khi lập bản đồ  tỷ  lệ  1:500, 1:200 thì phải dựng múi chiếu   Gauss­Kruger với múi 1.5o. Để đảm bảo chắc chắn cho khu vực đo vẽ bản đồ  địa chính cấp tỉnh hoặc  thành phố không cách xa kinh tuyến trục của múi chiếu quá 80 km, trong quy phạm   quy định cụ  thể  kinh tuyến trục cho từng tỉnh riêng biệt. Hiện nay nước ta có  64 tỉnh và thành phố, có nhiều tỉnh nằm trên cùng một kinh tuyến, vì vậy mỗi tỉnh   được chỉ định chọn một trong 10 kinh tuyến trục từ 1030 đến 1090  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2