intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Luật quốc tế

Chia sẻ: Năm Tháng Tĩnh Lặng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:78

165
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài giảng Luật quốc tế trình bày một số nội dung sau: Khái niệm và nguồn của luật quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, chủ thể của luật quốc tế, dân cư trong luật quốc tế,...và một số nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Luật quốc tế

  1. BÀI 1 KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN CỦA LUẬT QUỐC TẾ I. Khái niệm luật quốc tế 1. Định nghĩa Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng cùng tồn tại và phát triển. Nhà nước hình   thành và phát triển không thể thiếu pháp luật. Ngược lại, pháp luật được ban hành bởi  nhà nước. Do đó, không có nhà nước thì sẽ không có pháp luật. Nhà nước sử dụng công   cụ  quản lý là pháp luật để  điều chỉnh các quan hệ  xã hội và đưa các quan hệ  xã hội  phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp vào một trật tự nhất định. Hệ  thống pháp luật của quốc gia bao gồm nhiều ngành luật khác nhau, điều chỉnh  các quan hệ pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, khi các quốc gia thiết lập   quan hệ bang giao với nhau thì một hệ thống pháp luật mới được hình thành, đó là luật   quốc tế. Hệ thống pháp luật này tuy được hình thành và tồn tại độc lập, khác hẳn với  trình tự  và thẩm quyền lập pháp của pháp luật quốc gia nhưng nó có quan hệ  tác động  qua lại với hệ thống pháp luật quốc gia. Thật vậy, trong quan hệ bang giao giữa các quốc gia, họ cùng nhau xây dựng những   nguyên tắc, quy phạm nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa họ với nhau. Phổ biến nhất là   các quan hệ song phương giữa hai quốc gia. Để đảm bảo cho quan hệ được bền vững,   hai quốc gia thường tiến hành giao kết với nhau bởi một thỏa ước. Thỏa ước này có thể  là bằng miệng hay bằng văn bản, tuỳ theo tính chất và tầm quan trọng của những quan  hệ  được thiết lập. Thỏa  ước này ngày nay chúng ta gọi là điều  ước quốc tế. Và đây   cũng chính là luật quốc tế. Như vậy, chúng ta thấy rằng chỉ cần một điều ước quốc tế  giữa hai quốc gia được giao kết thì luật quốc tế xuất hiện và luật này sẽ được áp dụng  trước tiên cho chính hai quốc gia thiết lập nên nó. Cùng với sự phát triển của xã hội, các quan hệ quốc tế của các quốc gia không còn  dừng lại trong khuôn khổ quan hệ song phương giữa hai quốc gia nữa mà dần dần nó đã   được mở  rộng ra nhiều quốc gia và toàn thế  giới. Do đó, ngày nay, có những quan hệ  giữa các quốc gia mang tính khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Như vậy, thuật ngữ luật   quốc tế bao gồm cả luật quốc tế giữa các quốc gia mang tính song phương, đa phương  khu vực, liên khu vực và đa phương toàn cầu. Cụ  thể : Tổng thể  những nguyên tắc và  quy phạm điều chỉnh quan hệ  song phương mà cụ  thể  là thông qua những điều  ước  quốc tế  song phương là luật quốc tế  tồn tại giữa hai chủ  thể  với nhau. Ví dụ : Việt  Nam và Trung Quốc ký kết với nhau điều ước quốc tế  thì điều ước quốc tế  này chính  là nguồn của luật quốc tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Như vậy, tổng thể tất cả các  nguyên tắc, các quy phạm được thoả thuận giữa hai quốc gia, Việt Nam và Trung Quốc,   là luật quốc tế điều chỉnh quan hệ bang giao giữa hai quốc gia trong các lĩnh vực ký kết.  Như  vậy, tổng thề  những nguyên tắc, những quy phạm thể  hiện trong các điều  ước  quốc tế  đa phương giữa các quốc gia trong một khu vực địa lý được gọi là «  luật quốc  tế khu vực ».Ví du : Các nguyên tắc và quy phạm được các quốc gia Đông Nam Á thoả  thuận xây dựng nên trong khuôn khổ hoạt động của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á   (ASEAN) chính là luật quốc tế khu vực. Tương tự, nếu những nguyên tắc và những quy   phạm điều chỉnh các quan hệ  mang tính chất toàn cầu thì được gọi là « luật quốc tế  chung ».  1
  2. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý, người ta không phân chia ra thành các loại luật   quốc tế  như  trên mà chỉ  gọi một tên chung là « Luật quốc tế » hay « Công pháp quốc  tế ». Sở dĩ có tên « Công pháp quốc tế » là để  phân biệt với một ngành luật quốc gia có  tên là « Tư  pháp quốc tế ». Luật quốc tế và luật tư  pháp quốc tế giống nhau chỉ ở một   điểm là cùng điều chỉnh các quan hệ có yếu tố  nước ngoài. Tuy nhiên, như đã nói, luật   tư  pháp quốc tế  là luật quốc gia, nguồn chủ  yếu là do cơ  quan lập pháp của quốc gia   ban hành và áp dụng nhằm điều chỉnh các quan hệ  dân sự, thương mại và lao động có   yếu tố  nước ngoài. Còn đối với luật quốc tế  thì không phải do cơ  quan lập pháp của  một quốc gia nào ban hành cả, mà do chính các quốc gia và chủ  thề  của nó ban hành   nhằm điều chỉnh các quan hệ giữa họ với nhau trong đời sống bang giao quốc tế vi mục  đích cùng tồn tại và phát triển. Như  vậy, luật quốc tế là hệ  thống các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật điều   chỉnh quan hệ quốc tế  phát sinh giữa các chủ  thể  của luật quốc tế,  do chính các chủ   thể của luật quốc tế tự nguyện thỏa thuận xây dựng nên. 2. Đặc trưng cơ bản của luật quốc tế ­ Về trình tự lập pháp : Khác với luật quốc gia, luật quốc tế không phải do một  cơ quan lập pháp chung, có thẩm quyền tối cao xây dựng nên để áp đặt và áp dụng bắt  buộc đối với các chủ thể  của quan hệ pháp luật. Luật quốc tế  được hình thành trên cơ  sở thoả thuận giữa các chủ thể mà chủ yếu là giữa các quốc gia. Có nghĩa là luật quốc  tế  do các chủ  thể  cùng nhau « ban hành » để  áp dụng trong các quan hệ  giữa họ  với   nhau. Việc « ban hành » này có thể  thông qua việc ký kết điều  ước quốc tế  hay cùng  nhau thừa nhận một tập quán quốc tế nào đó để áp dụng cho quan hệ giữa họ. Ở điểm   này, luật quốc tế  giống như là một hợp đồng giữa các chủ  thể. Đã có thể  xem như  là   « hợp đồng » thì luật quốc tế cũng phải mang những đặc tính của hợp đồng. Có nghĩa là   yếu tố thoả thuận là yếu tố  quan trọng nhất và quyết định sự  xuất hiện và tồn tại của   luật quốc tế. Do đó, để  có được các nguyên tắc, quy phạm của luật quốc tế  thì thoả  thuận, đàm phán là con đường duy nhất được sử  dụng bởi các chủ  thể. Sau khi ký kết   hoặc thừa nhận áp dụng chung một quy tắc nào đó thì các bên trong «  hợp đồng » này  cũng phải có nghĩa vụ thực hiện những cam kết của mình. Tuy nhiên «  hợp đồng » này  đôi khi không phải nhằm mục đích là bảo vệ  lợi ích của chính các bên ký kết mà còn  nhằm mục đích bảo vệ lợi ích và sự sống còn chung của nhân loại.  Tóm lại, không có bất cứ quy phạm của luật quốc tế nào được xây dựng trên cơ sở  bất bình đẳng, ép buộc và không thông qua sự thỏa thuận của các chủ thể trực tiếp tham   gia vào quan hệ quốc tế, ngoại trừ những quy định nhằm bảo vệ hoà bình, sự sống còn   của nhân loại. Như  vậy, luật quốc tế có thể  được xây dựng thông qua những phương   thức sau đây : + Phương thức trực tiếp : Các chủ thể trực tiếp tham gia đàm phán, ký kết điều ước   quốc tế. Đây là phương thức quan trọng và phổ biến nhất. Những nguyên tắc, quy phạm   pháp lý quốc tế  được hình thành thông qua nguyên tắc này được gọi là những nguyên   tắc và quy phạm pháp lý quốc tế mang tính điều ước. + Phương thức gián tiếp : Các chủ thể có thể không tham gia đàm phán, ký kết trực  tiếp các điều  ước quốc tế  mà họ  chỉ  cần gia nhập một điều  ước quốc tế  đã được các  chủ  thể  khác đám phán, ký kết trước đó. Bên cạnh đó, các chủ  thể  cũng có thể  cùng   nhau thừa nhận những tập quán quốc tế đã hình thành lâu dài và được cộng đồng quốc  2
  3. tế áp dụng trong quan hệ của họ để xây dựng thành những quy tắc cho quan hệ quốc tế  của họ. Những quy phạm pháp lý nào được hình thành bằng con đường này gọi là những  quy phạm tạp quán. ­ Về  chủ  thể : Khác với chủ thể của luật quốc gia, tất cả các chủ  thể  của luật   quốc tế đều có quyền tham gia xây dựng nên những quy phạm pháp lý quốc tế. Các chủ  thể này không phải như một số chủ thể bị động, chịu sự áp đặc của quyền lực của giai   cấp thống trị như chủ thể trong luật quốc gia. Tất cả các chủ  thể của luật quốc tế đều  có quyền và bình đẳng trong việc xây dựng, áp dụng pháp luật quốc tế. Chủ  thể  của   luật quốc tế là một thực thể được cấu thành bởi một cộng đồng. Đó là các quốc gia, các  tổ  chức quốc tế  liên quốc gia hay các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và một số  thực thể đặc biệt. Khi tham gia quan hệ quốc tế, các chủ thể này sẽ quyết định trên cơ  sở đảm bảo và bảo vệ quyền lợi cho cả một cộng đồng của chính mình. Do đó, đại đa   số  các quan điểm cho rằng yếu tố  cá nhân với tư  cách là chủ  thề  của luật quốc gia  không được xem là chủ thể của luật quốc tế, tuy rằng trên thực tế, một số  cá nhân, tổ  chức kinh tế, xã hội có tham gia vào một số quan hệ quốc tế nhất định. Cơ sở cho quan   điểm này là cá nhân không thể bình đẳng với quốc gia và các tổ chức quốc tế trong quan   hệ quốc tế. Bởi vì chúng ta đã định nghĩa, luật quốc tế là do chính các chủ thể của luật   quốc tế thỏa thuận xây dựng nên. Do đó, nếu cho rằng cá nhân là chủ thể của luật quốc  tế thì bản chất nguyên thủy của luật quốc tế sẽ bị thay đổi. Bởi vì trên thực tế, cá nhân  không thể  tự  mình đứng ra là một bên trong việc thoả  thuận, xây dựng nên các quy  phạm pháp luật quốc tế với các chủ  thể  khác. Do tính chất đặc biệt của cá nhân là có  mặt trong một số quan hệ có tính chất quốc tế nên có quan điểm cho rằng cá nhân cũng   là chủ thể của luật quốc tế.  Đặc điểm này cũng là một trong các đặc điểm nổi bậc của luật quốc tế  khác với   luật quốc gia. Trong khi trong luật quốc gia, cá nhân tuy không là người lập pháp nhưng  họ  là chủ  thể chủ yếu và quan trọng của luật quốc gia thì trong luật quốc tế, thực thể  nào không tham gia được trong quá trình xây dựng luật quốc tế  thì không được xem là   chủ  thể cơ bản, mặc dù thực thề nó có thể  bị  điều chỉnh của luật quốc tế vì những lý   do đặc biệt như nhằm để bảo vệ mục tiêu và giá trị pháp lý của luật quốc tế. ­ Về  đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế :  Đối tượng điều chỉnh của luật  quốc tế khác với đối tượng điều chỉnh của luật quốc gia. Quan hệ pháp luật trong nước   là những quan hệ giữa cá nhân, pháp nhân, nhà nước trong các lĩnh vực còn quan hệ pháp   luật do luật quốc tế điều chỉnh là quan hệ mang tính chất liên quốc gia, liên chính phủ  nhằm mục đích chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…của cả một quốc gia, tổ chức quốc   tế  trên cơ  sở  thỏa thuận giữa các chủ  thể. Do đó, không phái luật quốc tế  điều chỉnh   cùng lúc hết tất cả các quan hệ trong các lĩnh vực nêu trên mà chỉ điều chỉnh khi nào các   quan hệ đó được quy định, thoả thuận trong một điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế  được các chủ thể thừa nhận. Trên thực tế, trong các lĩnh vực nêu trên thì quan hệ chính   trị là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật quốc tế.  ­ Về các biện pháp bảo đảm thi hành :  Luật quốc tế không có cơ  quan cưỡng chế tập trung đứng trên các chủ  thể  để  giải  quyết tranh chấp hay cưỡng chế thi hành. Các biện pháp cưỡng chế  trong luật quốc tế  chỉ  có thể  được tiến hành bởi chính các chủ  thể  bằng biện pháp cá thể  hoặc tập thể.  Trong hai biện pháp nêu trên, biện pháp cưỡng chế  cá thể  được sử  dụng trước tiên và  rất phổ biến. Ví dụ, quốc gia bị xâm luợc có quyền thực hiện hành vi tự  vệ  nhằm bảo  vệ cho lợi ích của chính quốc gia bị vi phạm và bảo vệ các giá trị pháp lý quốc tế. 3
  4. Đối với biện pháp cưỡng chế tập thể, thông thường được tiến hành bởi nhiều quốc  gia thông qua cơ chế cưỡng chế của một tổ chức quốc tế mà quốc gia vi phạm là thành   viên. Tuy nhiên, trong quan hệ quốc tế, quốc gia bị vi phạm cũng có thể nhờ sự giúp đỡ  của một hoặc một số quốc gia khác nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của mình theo đúng   các cam kết hoặc nhằm để bảo vệ sự sống còn chung của nhân loại mà hành vi vi phạm  của quốc gia vi phạm có thể gây ra. Ngoài hai biện pháp nêu trên, có một bệnh pháp đảm bảo thi hành rất hữu hiệu nữa   đó là nhờ vào dư luật quốc tế trước hành vi vi phạm của một số chủ thể bất chấp luật   quốc tế. Dư  luận quốc tế  có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo thi hành luật   quốc tế và giữ gìn hòa bình, an ninh quốc tế. Việc cộng đồng quốc tế  cùng lên án hành  vi của một quốc gia là vi phạm luật pháp quốc tế sẽ làm cho quốc gia đó phải xem xét  lại hành vi của mình. Bởi vì nếu không tự dừng lại hành vi vi phạm trước dư luận quốc   tế thì quốc gia đó có thể bị cô lập hoặc làm mất lòng tin với cộng đồng quốc tế. II. Lịch sử hình thành và phát triển của luật quốc tế Lịch sử  hình thành luật quốc tế  được chia ra làm 4 giai đoạn phát triển khác nhau :  Cổ đại, trung đại, cận đại và hiện đại ­ Luật quốc tế thời cổ đại (chiếm hữu nô lệ)  Trong giai đoạn này, luật quốc tế tồn tại chủ yếu dưới dạng tập quán quốc tế. Do  đó, khoa học luật quốc tế chưa được hình thành. Dần dần, do sự phát triển của các mối  quan hệ quốc tế ngày càng đa dạng và phức tạp nên đã hình thành một số điều ước quốc  tế. Một điều ước quốc tế nổi tiếng của thời kỳ này là Hòa ước giữa vua Ai Cập và Vua  Hatusin được giao kết năm 1278 trước công nguyên.  Như chúng ta đã biết, trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ, chiến tranh là đặc trưng của  quan hệ quốc tế giữa các quốc gia. Những cuộc chiến có thể gây rất nhiều thiệt hại cho  các bên tham chiến về  người và của. Do đó, một số  khu vực đã hình thành những quy   phạm mang tính tập quán liên quan đến chiến tranh nhằm giảm nhẹ  các hậu quả  của   những cuộc chiến gây ra. Những quy định về  cấm dùng thuốc độc trong trong các loại   vũ khí khi tham chiến đã được hình thành. Như vậy, luật quốc tế về chiến tranh đã xuất  hiện trong thời kỳ  này. Tuy nhiên, luật quốc tế  thời kỳ  này thừa nhận chiến tranh là  biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế một cách hợp pháp. Nó chỉ điều chỉnh các hình  thức, phương thức chiến tranh như thế nào mà thôi. Ví dụ : Đánh nhau như thế nào và  không được sử dụng những loại vũ khí nào trong khi tham chiến, việc bắt giữ và trao trả  tù binh như thế nào… Trong thời kỳ này thì nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta sunt   servanda) và những tập quán về  ngoại giao, lãnh sự  đã được hình thành. Tuy nhiên, do  điều kiện phát triển tự  nhiên và xã hội thời cổ  đại còn thấp kém, việc bang giao giữa   các quốc gia không được mở rộng do thiếu phương tiện giao thông, thông tin liên lạc… nên luật quốc tế trong thời kỳ này chỉ mang tính khu vực khép kín.  ­ Luật quốc tế thời trung đại (phong kiến): Đặc trưng của thời kỳ phong kiến là chế độ vua chúa. Do đó, luật quốc tế trong thời   kỳ  này cũng mang bản chất phong kiến. Có nghĩa là luật quốc tế  chỉ điều chỉnh những  quan hệ giữa các vua chúa mà thôi. Bởi vì, toàn bộ đất đai, lãnh thổ của một quốc gia là   thuộc sở  hữu của ông vua đứng đầu quốc gia đó. Việc xâm chiếm, tặng cho hay cống   nạp đất đai, lãnh thổ  giữa các quốc gia với nhau thực chất đó là mối quan hệ  quốc tế  4
  5. giữa các nhà vua liên quan đến tài sản của họ. Do đó, luật quốc tế trong thời kỳ này còn   gọi là luật quốc tế của các vua chúa. Đây là thời kỳ phân quyền, cát cứ, chiến tranh xảy ra liên miên và tôn giáo phát triển   mạnh mẽ, ảnh hưởng rất lớn đến sự  phát triển và nội dung của luật quốc tế. Do điều  kiện giao thông và sản xuất phát triển nên quan hệ quốc tế mang tính khu vực không còn   nữa, thay vào đó là những quan hệ quốc tế mang tính liên khu vực. Do đó, để  mở  rộng  quyền lực, thị  trường và lợi ích, các quốc gia tiến hành xâm chiếm lẫn nhau, mà nạn   nhân là những quốc gia nhỏ, có điều kiện phát triển kém.  Về mặt pháp lý, luật quốc tế trong thời kỳ này có những bước phát triển mới so với   luật quốc tế thời cổ đại. Những quy phạm pháp luật quốc tế về luật biển và ngoại giao  xuất hiện và tiếp tục phát triển. Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia cũng xuất hiện   trong thời kỳ  này. Tuy nhiên, quyền bình đẳng này thực chất là quyền bình đẳng giữa   các vua chúa. Đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện, luật quốc tế trong thời kỳ này   phụ  thuộc rất lớn vào vai trò của tôn giáo. Các khẩu hiệu phát động từ  tôn giáo rất có   hiệu quả  trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế. Ví du : Hòa bình và đình chiến  theo ý  Chúa, quyền cho cư trú trong nhà thờ… Khoa học luật quốc tế  xuất hiện và đã có những quan điểm của các học giả  nổi   tiếng về  luật quốc tế  xuất hiện như  quan điểm về  « Luật chiến tranh và hòa bình »,  quyền « Tự do biển cả »… ­ Luật quốc tế thời kỳ cận đại (TBCN) Trong thời kỳ này, luật quốc tế phát triển nhờ vào các nguyên tắc bình đẳng về chủ  quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…Đồng thời, chế định quốc tịch   xuất hiện với việc xác định công dân của quốc gia nên chủ  quyền của quốc gia được   nâng cao. Các quy định về  biên giới, ngoại giao, lãnh sự  và luật lệ  về  chiến tranh tiếp  tục phát triển. Một số tổ chức quốc tê xuất hiện như Liên minh điện tín quốc tế (1865),   Liên minh bưu chính thế  giới (1879). Điều này cho ta thấy quan hệ  giữa các quốc gia  trong cộng đồng quốc tế lúc bấy giờ đã phát triển vượt bậc. Đây là mầm mống của loại  chủ thể là các tổ chức quốc tế liên chính phủ trong thời đại của chúng ta.  Tuy nhiên, đặc trưng cơ  bản của luật quốc tế  thời kỳ  này là luật quốc tế  của các  quốc gia tư bản vì chỉ có các quốc gia được gọi là văn minh mới có quyền tham gia vào   các quan hệ quốc tế với tư cách lá chủ thể của luật quốc tế. Do đó, luật quốc tế thời kỳ  này vẫn còn tồn tại những học thuyết, những tư tưởng mang tính chất phản động như  chế độ bảo hộ, nô dịch, quyền chiến tranh bị hạn chế nhưng chưa được ngăn cấm một  cách triệt để.  ­ Luật quốc tế thời kỳ hiện đại:  Luật quốc tế hiện đại bắt đầu từ những thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế giữa   các quốc gia và thành quả  của cuộc Cách mạng tháng mười Nga 1917. Bởi vì sau khi  cuộc Cách mạng này thành công, hàng loạt các nguyên tắc mới xuất hiện trong quan hệ  quốc tế  như : Nguyên tắc « cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ  quốc tế » với việc cấm chiến tranh xâm lược và cấm sử dụng chiến tranh để giải quyết  các tranh chấp quốc tế ; Nguyên tắc « quyền dân tộc tự  quyết » với sự thừa nhận một  chủ  thể mới trong luật quốc tế mà các giai đoạn trước không có đó là các dân tộc đang  đấu tranh giành độc lập ; Nguyên tắc « bình đẳng và chủ quyền giữa các quốc gia » với  việc thừa nhận tất cả  các quốc gia đều là chủ  thể  của luật quốc tế, không phân biệt  5
  6. chế  độ  chính trị, kinh tế, văn hoà và quy mô, diện tích quốc gia….  ; Nguyên tắc « giải  quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình  » với việc quy định các cách thức và   phương thức giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế  mà không thông quan chiến  tranh ; Nguyên tắc « các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau » nhằm phục vụ cho thời  đại toàn cầu hoá như hiện nay…. Với sự phát triển của xã hội và các quan hệ quốc tế trong nhiều lĩnh vực, luật quốc   tế hiện đại đã và đang phát triển rất cao. Các chủ thể  là tổ  chức quốc tế xuất hiện rất   nhiều và ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống quốc tế của các quốc gia.  Khoa học luật quốc tế  phát triển đa dạng, phong phú. Có nhiều quan điểm, học  thuyết mới xuất hiện cùng với sự xuất hiện của những thực thể đặc biệt giữ vai tro rất  quan trọng và mới mẻ trong quan hệ quốc tế cũng như trong sự phát triển của khoa học   luật quốc tế. Vai trò của cá nhân cũng được khả định trong khoa học và thực tiễn quốc   tế. Các thực thể đặc biệt xuất hiện, đòi hỏi luật quốc tế phải thay đổi, bổ sung cho phù  hợp. Ví dụ : quy chế pháp lý của các vùng lãnh thổ là thành viên của các tổ  chức quốc   tế, các quốc gia nằm trong một quốc gia thống nhất, … Luật quốc tế  hiện đại phát triển với sự  phát triển của nhiều ngành luật khác nhau   như  luật biên giới và lãnh thổ  quốc gia, luật điều ước quốc tế, luật biển quốc tế, luật   ngoại giao và lãnh sự, luật hàng không quốc tế,… III. Nguồn của luật quốc tế 1. Khái niệm Nguồn của luật quốc tế là những hình thức biểu hiện sự  tồn tại của luật quốc tế,   chứa đựng các nguyên tắc và các quy phạm pháp lý quốc tế  nhằm điều chỉnh các quan   hệ quốc tế do chính các chủ thể xây dựng hoặc thừa nhận. Như vậy, thoả thuận vẫn là   biện pháp duy nhất để xây dựng nên nguồn của luật quốc tế hiện đại.  Như vậy, về tổng thể, nguồn của luật quốc tế có hai loại là nguồn thành văn và bất  thành văn. 2. Các loại nguồn của luật quốc tế Luật quốc tế  có các loại nguồn sau  : Điều  ước quốc tê, tập quán quốc tế  và các   nguồn bổ trợ. a. Điều ước quốc tế Điều  ước quốc tế  là nguồn cơ  bản của luật quốc tế  hiện đại. Chúng là sự  thỏa   thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế với nhau trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm   xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể đối với nhau. Theo quy định của Công  ước Vienne năm 1969 về  Luật điều  ước quốc tế  và luật  quốc tế hiện hành thì điều ước quốc tế được ký kết bằng văn bản và không nhất thiết  phải ghi trong cùng một văn kiện pháp lý quốc tế. Có nghĩa là sự  thỏa thuận giữa các   chủ  thể  có thể  trong 1 văn bản duy nhất hay trong nhiều văn bản đính kèm hoặc nằm  rải rác trong những điều ước quốc tế song phương, đa phương…mà chủ thể tham gia là   thành viên. Điều  ước quốc tế  có nhiều loại tên gọi khác nhau như  công  ước, hiệp  ước, hiệp  định, nghị định thư, tuyên bố, hiến chương…Luật quốc tế không có quy phạm bắt buộc   về  việc xác định tên gọi của các điều  ước quôc tế. Các chủ  thể  liên quan căn cứ  vào   6
  7. mức độ, nội dung và tập quán mà đặt tên cho điều ứơc quốc tế  mà mình đàm phán, ký  kết. Về hình thức cũng vậy, điều ước quốc tế không bắt buộc có những điều khoản rõ   ràng như văn bản pháp luật trong nước. Có những điều ước quốc tế chỉ có nội dung cam   kết giữa các bên mà không có điều khoản nào cả. Các điều  ước này thông thường là   những tuyên bố của các tổ chức quốc tế. Chúng ta đã định nghĩa điều  ước quốc tế  là do chính các chủ  thể  của luật quốc tế  tham gia xây dựng lên. Như  vậy, chủ  thể  của điều ước quốc tế  cũng chính là chủ  thể  của luật quốc tế. Do đó, những chủ  thể  không phải là chủ  thể  của luật quốc tế  thì   không thể tham gia đàm phán, ký kết điều  ước quốc tế  được. Ví dụ : Một quốc gia và  một cá nhân tham gia ký kết với nhau một thỏa thuận thì thỏa thuận này không được gọi   là điều  ước quốc tế  và không thể  trở  thành nguồn của luật quốc tế  được. Như  vậy,  điều kiện tiên quyết của một điều ước quốc tế là nguồn của luật quốc tế là phải được   ký kết giữa các chủ thể của luật quốc tế. Bởi vì điều ước quốc tế  là hình thức cơ  bản  của luật quốc tế chứa đựng các nguyên tắc và quy phạm pháp lý quốc tế  để  xây dựng  và điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế giữa các chủ thể được phát triển. Điều ước quốc  tế  còn là công cụ, phương tiện pháp lý để  duy trì và tăng cường hợp tác giữa các chủ  thể, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp giữa họ  và có vai trò rất quan trọng trong việc   nội luật hóa trong pháp luật của các quốc gia. Tuy nhiên, không phải tất cả  các điều  ước quốc tế  được ký kết giữa các chủ  thể  đều là nguồn của luật quốc tế hiện đại. Một điều ước của luật quốc tế muốn trở thành  nguồn của luật quốc tế phải thỏa mãn những điều kiện sau đây: ­ Điều ước quốc tế đó phải phù hợp với quy định của pháp luật của các bên ký kết   về thẩm quyền và trình tự, thủ tục ký kết; ­ Điều  ước quốc tế  đó, phải được ký kết trên cơ  sở  hoàn toàn tự  nguyện và bình  đẳng; ­ Nội dung của điều  ước quốc tế, phải phù hợp với những nguyên tắc cơ  bản của   luật quốc tế hiện đại. Do đó, các điều  ước trái với Hiến chương Liên hiệp quốc, các nguyên tắc cơ  bản  của luật quốc tế hiện đại sẽ bị xem là bất hợp pháp và nó sẽ trở nên vô hiệu, không có  giá trị pháp lý tạo ra quyền và nghĩa vụ cho các bên ký kết. Điều này có nghĩa là chúng  không phải là nguồn của luật quốc tế hiện đại. b. Tập quán quốc tế Tập quán quốc tế  là nguồn của luật quốc tế. Nó ra đời ngay từ  thời kỳ  đầu tiên   trong quá trình phát triển của luật quốc tế, sớm hơn nhiều so điều  ước quốc tế. Đó là  những quy tắc xử sự chung do một hay một số quốc gia áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần   và áp dụng chung trong quan hệ  quốc tế. Dần dần, những thói quen về  quy tắc xử  sự  này đã được các quốc gia khác thừa nhận và áp dụng như  những quy phạm pháp luật   quốc tế. Cũng giống như  điều  ước quốc tế, không phải tất cả  các tập quán quốc tế  đều   được công nhận là nguồn của luật quốc tế. Một tập quán được xem là nguồn của Luật   quốc tế phải thỏa mãn các điều kiện sau: ­ Phải là quy tắc xử sự chung, và được các quốc gia công nhận và áp dụng rộng rãi   trong thực tiễn; 7
  8. ­ Phải được thừa nhận chung là quy phạm có tính chất pháp lý bắt buộc (các quốc  gia coi là một nghĩa vụ pháp lý); ­ Phải có nôi dung phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Tập quán quốc tế có giá trị độc lập với điều ước quốc tế và các nguyên tắc của luật   quốc tế. Tập quán quốc tế có vai trò quan trọng trong việc hình thành nên các quy phạm  pháp lý quốc tế trong các điều ước quốc tế. Bởi vì các chủ thể của luật quốc tế mong   muốn các tập quán này được thể hiện dưới hình thức văn bản để không phải giải thích  hoặc xảy ra bất đồng quan điểm trong quá trình áp dụng. Do đó, khi đàm phán, ký kết  các điều  ước quốc tế  thì các chủ  thể  thông thường chuyển hóa những tập quán đã và   đang tồn tại trên thực tế thành những điều khoản trong điều ước quốc tế.  Tập quán quốc tế  là nguồn điều chỉnh hữu hiệu quan hệ quốc tế  giữa các chủ  thể  khi những quan hệ đó không có quy phạm điều ước điều chỉnh. Điều này có nghĩa là khi   có sự  mâu thuẫn giữa tập quán quốc tế  và điều  ước quốc tế  thì điều  ước quốc tế  sẽ  được các chủ thể áp dụng. c. Các nguồn bổ trợ khác Luật quốc tế  có các nguồn bổ  trợ. Các nguồn này có ý nghĩa rất quan trọng trong   việc áp dụng và xây dựng nên các nguồn chính thức của luật quốc tế. Những nguồn bổ  trợ bao gồm : ­ Án lệ của Tòa án quốc tế : Đây là các phán quyết của tòa án quốc tế của Liên hiệp  quốc trong quá trình xét xử, giải quyết tranh chấp giữa các chủ  thể. Ngoài chức năng   giải quyết tranh chấp, các phán quyết này còn có ý nghĩa rất quan trọng mang tính tham   khảo trong quá trình giải quyết tranh chấp của các bên trong quan hệ quốc tế tương tự.  ­ Học thuyết của các luật gia danh tiếng về  luật quốc tế : Các học thuyết của các  luật gia, các cơ sở nghiên cứu luật quốc tế…góp phần rất lớn trong việc hình thành, xây   dựng nên các quy phạm pháp lý quốc tế. Các học thuyết này cũng chỉ  mang tính tham   khảo, bởi nó không được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa các chủ thể. ­ Các Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên hiệp quốc và các tổ chức liên chính phủ : Nghị  quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ có hai loại : Nghị quyết mang tính bắt buộc và  Nghị quyết mang tính chất tuỳ nghi. Đối với Nghị quyết mang tính bắt buộc thì được xem  như là điều ước quốc tế bởi vì những Nghị quyết này được đưa ra bởi đại diện của cả một  tổ chức quốc tế mà quốc gia là thành viên. Còn đối với những loại Nghị quyết mang tính chất   tuỳ nghi thì các quốc gia thành viên  có quyền không tuân thủ. Bởi vì nó chỉ mang tính khuyến   nghị mà thôi. Tuy nhiên, các Nghị quyết tuỳ nghi này có vai trò rất quan trọng trong việc giải   thích, áp dụng các quy phạm pháp lý quốc tế trong các điếu ước quốc tế. Tóm lại, các nguồn bổ  trợ  nêu trên chỉ  mang tính tham khảo, không có giá trị  bắt   buộc đối với các chủ  thể  trong quan hệ  quốc tế. Tuy nhiên, một số  nguồn bổ  trợ  này   nếu được các quốc gia cùng thừa nhận áp dụng lâu dài, không trái nhau về cách áp dụng   và quan điểm thi các nguồn này có thể trở thành tập quán quốc tế hoặc được chính các   chủ thể của luật quốc tế xây dựng nên các quy phạm trong điều ước quốc tế trên cơ sở  thỏa thuận của các bên liên quan. IV. Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia 8
  9. Có nhiều học thuyết khác nhau liên quan đến mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật  trong nước : Học thuyết nhất nguyên luận và học thuyết nhị nguyên luận và quan điểm   của khoa học luật quốc tế hiện đại. 1. Học thuyết nhất nguyên luận Trường phái này cho rằng luật quốc tế và pháp luật trong nước là hai bộ  phận của   một hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó bộ phận này phù thuộc vào bộ phận kia. Ở trong nội bô của trường phái này lại tồn tại hai quan điểm khác nhau, cụ  thể  là:   Một nhóm đại biểu cho rằng lật quốc tế phải được đặt lên trên pháp luật trong nuớc.   Ngược lại, một nhóm đại biểu khác thì có quan điểm cho rằng pháp luật trong nước   phải được đặt lên trên luật quốc tế. 2. Học thuyết nhị nguyên luận Trường phái này cho rằng luật quốc tế và pháp luật trong nước là hai hệ thống pháp   luật khác nhau, song song cùng tồn tại nhưng biệt lập với nhau. 3. Quan điểm khoa học luật quốc tế hiện đại Quan điểm hiện nay, được đa số nhà nghiên cứu luật tán thành cho rằng luật quốc tế  và pháp luật trong nước là hai hệ thống pháp luật khác nhau, song song cùng tồn tại có   quan hệ  tác động qua lại lẫn nhau. Luật quốc gia có ảnh hưởng, mang tính quyết định   việc hình thành và phát triển của luật quốc tế và luật quốc tế có tác động tích cực đến   sự phát triển và hoàn thiện pháp luật quốc gia. Sự độc lập, khác nhau của luật trong nước và luật quốc tế thể hiện ở các tiêu chuẩn   như đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh, trình tự lập pháp, nguồn và các biện   pháp đảm bảo thi hành….của hai hệ thống pháp luật này. Về quan hệ tác động qua lại lẫn nhau : Cả luật quốc tế và pháp luật trong nước đều  chính là công cụ để thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại của quốc gia.  Đối với luật quốc tế, luật quốc gia có ảnh hưởng rất lớn trong qua trình đám phán,   ký kết các điều ước quốc tế. Trước tiên có thể nói đến trình tự, thủ tục và thẩm quyền   đàm phán. Khi tiến hành đàm phán, ký kết điều  ước quốc tế  thì điều  ước quốc tế  đó   phải phù hợp với pháp luật trong nứơc về trình tự, thẩm quyến đàm phán và ký kết. Do  đó, nếu pháp luật quốc gia không rõ ràng và đầy đủ về vấn đề trình tự, và thẩm quyền   đàm phán, ký kết thì sẽ ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của điều ước quốc tế nói riêng và  luật quốc tế nói chung. Ngoài ra, nếu quốc gia đàm phán tốt thì những quy định của pháp   luật quốc gia mình có thể trùng với những quy định của điều ước quốc tế. Lúc đó, luật   quốc gia sẽ được trở  thàng những quy phạm pháp lý quốc tế. Ngược lại, luật quốc tế  ảnh hưởng rất lớn đến luật quốc gia. Cụ thể, luật quốc tế khi được xây dựng, các quốc  gia thành viên phải tuân thủ  bằng nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế  (pacta sunt servande). Do đó, các quốc gia phải áp dụng luật quốc tế  khi trong quan hệ  với chủ thể  mà mình đã thỏa thuận với nhau bằng những điều ứơc quốc tế. Nếu thấy   rằng những quy định của điều ứơc quốc tế sẽ có lợi và làm cho hệ thống pháp luật của   quốc gia phát triển, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại thì các quốc gia phải nội   luật hóa. Có nghĩa là chuyển hóa các quy định của điều  ứơc quốc tế  mà mình là thành   viên hoặc những quy định của các điều ước quốc tế tiến bộ khác thành những quy định   của pháp luật trong nước. 9
  10. Ở Việt Nam, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, vấn đề mối quan hệ giữa luật quốc tế  và luật quốc gia và giá trị  pháp lý của hai hệ thống pháp luật này đang là vấn đề  mang  tính thời sự. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của rất nhiều điều  ước quốc tế  đa  phương và song phương. Khi đã tham gia vào điều ước quốc tế thì Việt Nam phải tuân  thủ  triệt để  nguyên tắc Pacta sunt servanda ­ một trong những nguyên tắc cơ  bản của   luật quốc tế hiện đại. Để đảm bảo tuân thủ nguyên tắc này, Việt Nam đã xây dựng cho   mình những quy phạm pháp luật quốc gia về  ký kết và thực hiện điều  ứơc quốc tế.  Đồng thời, trong các văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia, Việt Nam đã nội luật  hóa rất nhiều những quy định tiến bộ  của các điều ứơc quốc tế mà Việt Nam là thành   viên. Đối với những vấn đề  mà Việt Nam không thể  nội luật hoá được do có sự  khác   nhau giữa các điều  ước quốc tế  và bảo đảm điều chỉnh đối với những quan hệ  pháp  luật thì một giải pháp hữu hiệu để  tuân thủ  nguyên tắc Pacta sunt servanda là quy định  trong các văn bản về giá trị  pháp lý của các điều ước quốc tế khi có sự  mâu thuẫn với  điều ước quốc tế. Ví dụ : Khi có sự mâu thuẫn giữa điều ước quốc tế với văn bản này   thì áp dụng điều ước quốc tế. BÀI 2 CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT QUỐC TẾ Luật quốc tế  bao gồm các nguyên tắc và các quy phạm pháp lý quốc tế  được hình   thành do các chủ  thể  thoả  thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh các mối quan hệ  giữa   các chủ thể với nhau trong các lĩnh vực. Trong đó, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc   tế được xem là hạt nhân của luật quốc tế. Tất cả các quy phạm pháp lý quốc tế và các   tập quán quốc tế  muốn trở thành nguồn của luật quốc tế hiện đại thì phải phù hợp và   không được trái với các nguyên tắc cơ bản này. I. Khái niệm các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những quy phạm quan trọng, có tính chất bao   trùm và được thừa nhận một cách rộng rãi nhất. Như vậy, không phải bất kỳ nguyên tắc  nào của luật quốc tế cũng trở thành nguyên tắc cơ bản, mà chỉ có một số nguyên tắc có  tính bao trùm, phổ  cập và chung nhất mới được thừa nhận là nguyên tắc cơ  bản của   luật quốc tế. 10
  11. Nguyên tắc của luật quốc tế bào gồm 3 loại : Nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc chuyên  ngành và nguyên tắc đặc thù trong các quan hệ  song phương hoặc đa phương giữa các   chủ thể. Tuy nhiên, dù là nguyên tắc thuộc loại nào thì tất cả  các nguyên tắc trên điều phải   nhằm mục đích là bảo vệ  hoà bình, an ninh, hợp tác và sự  phát triển của nhân loại nói  chung và của chính các chủ thể nói riêng. Ngoài ra, các nguyên tắc chuyên ngành và đặc  thù phải là những nguyên tắc phù hợp và không được trái với những nguyên tắc cơ bản  của luật quốc tế đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Như vậy, nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là gì ? Đây là những tư tưởng chính trị ­ pháp lý cơ bản, bao trùm nhất và quan trọng nhất   trong quan hệ quốc tế. Nó làm cơ  sở cho sự hình thành và phát triển của luật quốc tế   hiện đại và được thừa nhận một cách rộng rãi nhất trong quan hệ quốc tế ngày nay. Khác với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật trong nước, nguyên tắc cơ bản của  luật quốc tế  không do giai cấp thống trị  xây dựng nhằm bảo vệ  lợi ích cho giai cấp   thống trị. Những nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở thỏa thuận giữa các chủ thể  của luật quốc tế nhằm mục đích đảm bảo lợi ích và các quy tắc xử  sự  chung của các  chủ  thể  trong quan hệ  quốc tế. Ngoài ra, các nguyên tắc cơ  bản của luật quốc tế  này  không xuất hiện cùng một lúc trong một văn bản quy phạm pháp luật như  nguyên tắc   của luật quốc gia mà chúng xuất hiện thông qua một quá trình phát triển lâu dài của luật   quốc tế. Tính chất phổ  cập và bao trùm nhất là hai đặc tính cơ  bản của các nguyên tắc cơ  bản của luật quốc tế. Tính phổ cập thể hiện ở phạm vi áp dụng của các nguyên tắc này   về mặt không gian và chủ thể của luật quốc tế. Về mặt không gian, các nguyên  tắc này  được áp dụng trên phạm vi toàn thế giới và về mặt chủ thể thì chúng được áp dụng cho  tất cả các quốc gia ­ chủ thể cơ bản của luật quốc tế. Do đó, các nguyên tắc này được  ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế  quan trọng như  Hiến chương của Liên   hợp quốc, Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc và các văn kiện pháp lý khác.  Tính chất bao trùm của các nguyên tắc cơ  bản của luật quốc tế  thể  hiện  ở giá trị  pháp lý của chúng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống quốc tế. Tất cả các lĩnh vực,  các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế đều sử dụng những nguyên tắc này làm   nền tảng. Đồng thời, các nguyên tắc này cũng là những nguyên tắc mang tính bắt buộc  chung. Hay nói cách khác, đây là những nguyên tắc mang tính mệnh lệnh cao nhất trong   quan hệ  quốc tế. Những nguyên tắc, những quy phạm pháp lý quốc tế, những hành vi   được tiến hành trong quan hệ quốc tế  nếu trái với các nguyên tắc này thì sẽ  bị  xem là   trái pháp luật quốc tế.  Do đó, việc tuân thủ  các nguyên tắc cơ  bản của luật quốc tế  là nghĩa vụ  bắt buộc  đối với tất cả  các chủ  thể  trong quan hệ  quốc tế. Bỡi vì bất kỳ  sự  vi phạm nào đến  nguyên tắc cơ  bản này đều tất yếu đụng chạm đến lợi ích của cộng đồng quốc tế  và   lợi ích của các chủ  thể  khác. Do đó, không một thực thể  nào có quyền huỷ  bỏ  những   nguyên tắc này nếu chưa có sự đồng ý của cộng đồng các chủ thể. Tóm lại, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có hai ý nghĩa quan trọng sau đây : ­ Là hạt nhân của toàn bộ hệ thống luật quốc tế ­ Là căn cứ để giải quyết các tranh chấp quốc tế 11
  12. Theo Tuyên bố  ngày 24/10/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc thì luật quốc tế  hiện đại có các nguyên tắc cơ bản sau đây : ­ Nguyên tắc bình đẳng và chủ quyền của các quốc gia ; ­ Nguyên tắc cầm dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế ; ­ Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau ; ­ Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết ; ­ Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt servanda) ­ Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình ­ Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau Ngoài ra, trong khoa học luật quốc tế, người ta còn cho rằng ngoài các nguyên tắc   nêu trên, luật quốc tế còn có thêm các nguyên tắc cơ bản khác như nguyên tắc tôn trọng   quyền con người, nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia….Tuy nhiên, trong 7 nguyên   tắc nêu trên, chúng ta thấy rằng chúng đã bao hàm hết tất cả  các nguyên tắc mà khoa  học luật quốc tế hiện nay đề nghị đưa vào các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. II. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại Trong luật quốc tế hiện đại, cộng đồng quốc tế  đã và đang cùng thừa nhận những   nguyên tắc chung nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau. Những  nguyên tắc này đã được Hiến chương Liên hiệp quốc, Tuyên bố năm 1970 của Đại hội   đồng liên hiệp quốc về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế quy định như một cơ sở  pháp lý bắt buộc đối với các chủ thể trong quan hệ quốc tế. Cơ sở này dựa trên sự bình   đẳng về  chủ  quyền quốc gia, quyền dân tộc tự  quyết, không dùng vũ lực hoặc đe dọa   dùng vũ lực trong quan hệ  quốc tế  và phải tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế  mà   mình đã tham gia… 1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia Nguyên tắc này được hình thành từ cuối thời kỳ trung đại chuyển sang cận đại. Lúc  mới hình thành và phát triển, nguyên tắc này chỉ  áp dụng cho vua chúa và các nước tư  bản phát triển hay còn gọi là các nước văn minh.  Kể từ năm 1917, nội dung của nguyên tắc này mới được nâng cao, hoàn thiện và đầy   đủ. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại hai văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng  đó là Hiến chương Liên hiệp quốc và Tuyến bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của  luật quốc tế của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.  Theo Điều 2, khoản 1, Hiến chương LHQ thì « Liên hiệp quốc xây dựng trên cơ sở   bình đẳng về chủ quyền của tất cả các quốc gia hội viên ».  Nội dung của nguyên tắc là : ­ Các quốc gia phải có nghĩa vụ  tôn trọng quyền năng chủ  thể, chủ  quyền, đặc  điểm về lịch sử, truyền thống văn hóa, dân tộc của nhau ; ­ Các quốc gia phải có nghĩa vụ tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính  trị của nhau ; ­ Mỗi quốc gia có quyền lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã   hội ; 12
  13. ­ Các quốc gia bình đẳng với nhau về  pháp lý. Họ  có quyền và nghĩa vụ  ngang  nhau khi tham gia với tư cách là thành viên của một cộng đồng quốc tế và tổ chức quốc   tế ; ­ Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan; ­ Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế  bình đẳng với các   quốc gia khác; ­ Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như  các quốc gia khác. Như vậy, luật quốc tế không cho phép một hay một nhóm quốc gia phong tỏa ý chí   và áp đặt ý chí lên quốc gia khác trên cơ sở bất bình đẳng và không tự  nguyện. Tất cả  các quốc gia đều bình đẳng với nhau, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt được cộng   đồng quốc tế  thừa nhận. Ví dụ : Quyền phủ  quyết của năm  ủy viên thường trực của  Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc. 2. Nguyên tắc không sử  dụng vũ lực hoặc đe dọa sử  dụng vũ lực trong quan   hệ quốc tế Nếu trong luật quốc tế các giai đoạn trước có nguyên tắc « quyền chiến tranh » để  giải quyết các tranh chấp quốc tế thì trong luật quốc tế hiện đại lại cấm nguyên tắc này  thông qua việc thừa nhận nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ  dùng vũ lực trong  quan hệ quốc tế. Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tổ chức quốc tế Hội quốc liên (sau này là Liên  hiệp quốc) đã đưa ra một nguyên tắc « Các nước thành viên không được sử dụng chiến   tranh khi chưa áp dụng các biện pháp hòa bình ». Như  vậy, quyền chiến tranh vẫn còn  được sử dụng giải quyết tranh chấp quốc tế khi các quốc gia đã sử dụng các biện pháp  hoà giải, đàm phán…mà không giải quyết được tranh chấp. Chiến tranh thế  giới lần thứ  hai kết thúc cùng với sự  ra đời của Liên hiệp quốc,   nguyên tắc cấm dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ  quốc tế được ghi  nhận thành một trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Theo Điều 2, K4 của Hiến chương LHQ thì «Trong quan hệ quốc tế, các thành viên   của Liên hiệp quốc không được đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực chống lại sự toàn   vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào hoặc bằng cách này hay   cách khác làm trái với những mục đích của Liên hiệp quốc ». Nội dung của nguyên tắc : ­ Cấm xâm chiếm lãnh thổ  của các quốc gia khác, vi phạm các quy phạm của pháp   luật quốc tế; ­ Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực; ­ Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược  chống quốc gia thứ ba; ­ Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng  bố tại các quốc gia khác; ­ Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng  vũ trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ của quốc gia khác ; 13
  14. ­ Cấm tuyên truyền chiến tranh xâm lược ; ­ Cấm dùng vũ lực để ngăn cản các dân tộc thực hiện quyền tự quyết của mình ; Tuy nhiên, nguyên tắc này có 3 trường hợp ngoại lệ đó là quyền tự vệ cá thể, quyền  tự  vệ  tập thể  và quyền sử  dụng vũ lực của các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập   đứng lên thành lập quốc gia độc lập. Theo đó, một quốc gia hay chủ thể của luật quốc  tế trên cơ sở xâm lược vũ trang của quốc gia khác thì quốc gia, chủ thể bị xâm lược có  quyền sử dụng vũ trang để  tự  vệ. Ngoài ra, Hội đồng bảo an của LHQ cũng có quyền  sử dụng vũ trang một cách hợp pháp nhằm đại diện cho một tập thể các quốc gia trong   việc gìn giữ hòa bình và sự tồn tại của nhân loại. 3. Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác Nguyên tắc này có mối quan hệ  chặt chẽ  với các nguyên tắc khác như  nguyên tắc   cấm dùng vũ lực hoặc đe doạ  dùng vũ lực trong quan hệ  quốc tế  và nguyên tắc bình  đẳng, chủ quyền giữa các quốc gia. Tư  tưởng không can thiệp vào công việc nội bộ  của quốc gia khác hình thành rất   sớm. Tuy nhiên, mãi đến thời kỳ  cận đại thì tư  tưởng này mới được nâng lên thành   nguyên tắc cơ  bản của luật quốc tế. Hiện nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong  Điều 2, K7 của Hiến chương LHQ. Theo đó, Hiến chương  « không cho phép LHQ được   can thiệp bất cứ   ở  mức độ  nào vào những công việc thuộc thẩm quyền quốc gia của   một nước và không yêu cầu các thành viên đưa những việc loại này ra giải quyết theo   thủ tục của Hiến chương… » Nội dung của nguyên tắc : - Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp hoặc đe dọa can thiệp khác  nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia; - Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị, và các biện pháp khác để bắt buộc các   quốc gia khác phụ thuộc vào mình; - Cấm tổ  chức, khuyến khích các phần tử  phá hoại hoặc khủng bố  nhằm lật đổ  chính quyền của quốc gia khác; - Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ của quốc gia khác; - Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự lựa chọn cho mình chế  độ  chính trị, kinh  tế, xã hội và văn hóa phù hợp với nguyện vọng của dân tộc. Tuy nhiên, nguyên tắc này có hai ngoại lệ. Theo quy định của Chương VII Hiến   chương LHQ, Hội đồng bảo an của LHQ có thể  áp dụng biện pháp cưỡng chế  trong   trường hợp có đe dọa hành vi xâm phạm hòa bình hoặc hành động xâm lược. Như vậy,   nếu Hội đồng Bảo an xác định rằng một sự biến nào đó xảy ra trong phạm vi lãnh thổ  một quốc gia hoặc một cuộc nội chiến nào đó mà có thể  đe dọa đến hòa bình, an ninh   quốc tế thì sự biến và hành vi đó không còn thuần túy là công việc nội bộ của quốc gia  nữa. Lúc đó, hành động can thiệp của LHQ trong trường hợp này không được coi là sự  can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia. Một ngoại lệ thứ hai trong nguyên tắc này  là khi có những hành vi vi phạm nghiêm trọng các quyền cơ bản của con người trong đó   có quyền được sống và sống trong hòa bình thì LHQ cũng có quyền can thiệp vào. Tóm lại, công việc nội bộ mà các quốc gia hay LHQ không có quyền can thiệp vào  theo nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là những công việc thuốc về  thẩm quyền của   14
  15. cơ quan nhà nước của quốc gia và đồng thời không phải là công việc bị cộng đồng quốc   tế cấm. 4. Nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết Nguyên tắc này được ghi nhận trong Điều 55 Hiến chương LHQ. Tuy nhiên, trong   Hiến chương, nguyên tắc này lại không được đưa vào các nguyên tắc cơ bản trong Điều  2. Do đó, tính chất bao trùm, phổ cập chưa được thể hiện một cách cụ  thể. Năm 1960,  LHQ đã có Tuyên bố về trao trả độc lập cho các dân tộc thuộc địa. Theo đó, « tất cả các   dân tộc đều có quyền tự  quyết, trong đó có quyền thiết lập chế  độ  chính trị  và thực   hiện chế độ phát triển kinh tế, văn hóa của mình ».  Nguyên tắc này đã được ghi nhận thành nguyên tắc cơ bản chính thức trong Tuyên  bố của LHQ năm 1970 về các nguyên tắc của luật quốc tế. Tuyên bố này đã khẳng định:  “Việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ  quyền hay tự  do gia nhập vào nhà nước   độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó, cũng như việc thiết lập bất kỳ chế độ chính   trị nào do nhân dân tự quyết định là các hình  thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết”. Nội dung của nguyên tắc ­ Dân tộc đang đấu tranh giành độc lập có quyền được thành lập quốc gia độc lập.   Các quốc gia có quyền cùng với các quốc gia khác thành lập quốc gia liên bang trên cơ  sở tự nguyện; ­ Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội; ­ Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài; ­ Quyền các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc có quyền tiến hành đấu tranh, kể cả đấu   tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ  từ bên ngoài, kể  cả giúp  đỡ về quân sự; ­ Tự lựa chọn con đường phát triển ; ­ Quyền được các dân tộc và các quốc gia khác tôn trọng trong việc thực hiện quyền   dân tộc tự quyết. 5. Nguyên tắc tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế Nguyên tắc này cò được gọi là nguyên tắc Pacta sunt survanda. Đây là nguyên tắc cổ  xưa nhất trong hệ thống luật quốc tế. Nó ra đời từ  thời kỳ cổ đại và có mặt trong suốt  quá trình phát triển của luật quốc tế.  Hiện tại, nguyên tắc này được quy định tại Điều 2, K2 của Hiến chương LHQ và   Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ. Theo đó, Hiến chương quy định  « các nước   thành viên của LHQ phải làm tròn nghĩa vụ  mà họ  phải đảm nhận theo Hiến chương   này ». Để  cụ  thể  hơn, Tuyên bố  năm 1970 quy định rằng mỗi quốc gia phải thiện chí   thực hiện các nghĩa vụ  quốc tề  do Hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ  phát sinh từ  các   nguyên tắc, quy phạm được công nhận rộng rãi của luật quốc tế. Tuy nhiên, khi nghĩa   vụ  theo điều  ước quốc tế  mà các quốc gia thành viên tham gia trái với nghĩa vụ  của  Hiến chương thì nghĩa vụ theo Hiến chương phải có giá trị ưu tiên. Theo Công  ước Vienne năm 1969 về  Luật điều  ước quốc tế  thì   « mỗi điều  ước   quốc tế hiện hành đều ràng buộc các bên tham gia và đều phải được các bên thực hiện   một cách thiện chí » và « bên tham gia không thể viện dẫn đến quy định của pháp luật   trong nước để biện luận cho việc không thực hiện điều ước quốc tế »… 15
  16. Từ các cơ sở pháp lý trên, nguyên tắc này có nôi dung sau đây : - Các chủ  thể  của luật quốc tế  phải thực hiện tận tâm các cam kết quốc tế  phù   hợp với luật quốc tế hiện đại ; - Phải thực hiện một cách thiện chí, tận tâm và đầy đủ  các cam kết quốc tế  mà   minh tham gia ; - Không được viện dẫn luật trong nước trái với điều ứơc quốc tế để làm lý do từ  chối thực hiện điều ứơc quốc tế mà mình ký kết hoặc tham gia ; - Không được phép tự động đơn phương không thực hiện điều ước quốc tế Tuy nhiên, nguyên tắc này có các ngoại lệ. Có nghĩa là các bên có thể  không thực   hiện hoặc ngưng thực hiện điều  ước quốc tế  mà mình là thành viên trong các trường   hợp sau : - Điều  ước quốc tế  được ký sai thẩm quyền và trình tự  theo quy định của pháp   luật quốc gia thành viên ; - Điều ước quốc tế trái với Hiến chương LHQ và các nguyên tắc cơ bản của luật   quốc tế ; - Điều kiện để thực hiện điều ước quốc tế đó bị thay đổi hoàn toàn ; - Khi bên kia không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của điều ước ; - Điều ước quốc tế đó hết hiệu lực áp dụng. Như  vậy, không phải trong tất cả các trường hợp, các bên tham gia điều ước quốc   tế phải tận tâm thực hiện. Bởi vì vẫn có những trường hợp ngoại lệ mà các chủ thể có   thể  không thực hiện điều  ứơc mà vẫn không vi phạm pháp luật quốc tế  nói chung và   nguyên tắc pacta sunt servanda nói riêng. 6. Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế Nguyên tắc này được hình thành kể từ khi luật quốc tế bước vào giai đoạn hiện đại.  Nguyên tắc này được hình thành và phát triển gắng liền với nguyên tắc cấm dùng vũ lực   hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, luật   quốc tế đã có những biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế bằng con đường hoà bình.  Tuy nhiên, quyền chiến tranh vẫn còn được sử dụng khi các biện pháp hòa bình sử dụng   không hiệu quả. Do đó, trước chiến tranh thế giới thứ hai thì chưa xuất hiện nguyên tắc   buộc các chủ thể phải giải quyết tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hoà bình.  Hiện nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong Điều 2, K3 của Hiến chương LHQ và   Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Theo đó, Hiến chương LHQ quy định các biện pháp hòa bình mà các quốc gia phải  lựa chọn và tự áp dụng miễn sao không sử dụng vũ lực và đe doạ dùng vũ lực cũng như  vi phạm các nguyên tắc cơ bản khác của luật quốc tế. Theo đó, « các bên tham gia tranh   chấp quốc tế trước tiên phải cố  gắng giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như :   đàm phán, điều tra, trung gian, hoà giải, trọng tài, toà án, thông qua các cơ quan hay tổ   chức quốc tế hay bằng các biện pháp hoà bình khác do các bên lựa chọn ».  Tuy nhiên, nguyên tắc này có các ngoại lệ giống như ngoại lệ của nguyên tắc cấm  dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ  quốc tế. Có nghĩa là các bên có  16
  17. quyền sử  dụng quyền tự vệ cá thể, tập thể  để  giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ  của luật quốc tế quy định. 7. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau Đây cũng là một trong những nguyên tắc riêng của luật quốc tê hiện đại mà luật   quốc tế  trong các giai đoạn trước không có. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng  trong sự  phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia và của cộng đồng quốc tế. Đồng   thời các vấn đề mang tính toàn cầu hiện nay như môi trường, hạt nhân, khủng bố….sẽ  không thể giải quyết được khi không có nguyên tắc này. Hiện nay, nguyên tắc này được quy định tại Điều 1, Điều 55 và 56 của Hiến chương  LHQ. Các quốc gia phải có nghĩa vụ  hợp tác vơi nhau để  thực hiện tôn chỉ, mục đích   của Hiến chương và phải có nghĩa vụ hợp tác với LHQ để đạt được những mục đích kể  trên. Bên cạnh đó, trong Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng LHQ cũng xác định  « các  quốc gia có nghĩa vụ  hợp tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ  quốc tế  không   phụ thuộc vào hệ thống chính trị, kinh tế, văn hoá…nhằm mục đích duy trì hoà bình và   an ninh quốc tế, góp phần vào việc ổn định kinh tế thế giới và sự phồn vinh chung của   dân tộc và hợp tác quốc tế ». Nội dung của nguyên tắc : - Các quốc gia phải hành động phù hợp với nguyên tắc của LHQ ; - Các quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hoà bình và an   ninh quốc tế ; - Hợp tác để  khuyến khích sự tôn trọng chung về quyền con người và các quyền   tự do cơ bản khác của cá nhân, tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc ; - Các quốc gia phải tiến hành quan hệ hợp tác với nhau trong lĩnh vực kinh tế, văn   hoá, khoa học kỹ thuật, thương mại, công nghệ theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi,   không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau ; - Các quốc gia phải hợp tác với nhau nhằm khuyến khích sự  tiến bộ  về  văn hoá,  giáo dục, phát triển kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Như  vậy, về  cơ  bản, luật quốc tế  có bảy nguyên tắc cơ  bản nêu trên. Tuy nhiên,   theo một số  quan điểm cho rằng luật quốc tế còn có thêm nguyên tắc chủ  quyền quốc  gia và nguyên tắc bảo vệ quyền con người… 17
  18. BÀI 3 CHỦ THỂ CỦA LUẬT QUỐC TẾ I. Khái niệm về chủ thề của luật quốc tế Vấn đề  chủ  thể  của luật quốc tế  hiện nay trong khoa học luật quốc tế  có nhiều   quan điểm khác nhau, đặc biệt là sự  thừa nhận các loại thực thể  nhất định là chủ  thể  hay không là chủ thể. Tuy nhiên, theo quan điểm của hầu hết các quốc gia và những học  thuyết thì để  có tư  cách là chủ  thể  của luật quốc tế  thì chủ  thể  đó phải có khả  năng   tham gia độc lập trong quan hệ quốc tế bằng quyền và những nghĩa vụ pháp lý quốc tế  xác định và có khả năng chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do mình gây ra trong quan hệ  quốc tế. Như vậy, chủ thể của luật quốc tế hiện đại là những thực thể đang tham gia hoặc   có khả  năng tham gia vào quan hệ  pháp luật quốc tế  một cách độc lập, có đầy đủ   những quyền và nghĩa vụ  quốc tế, đồng thời có khả  năng gánh vác những trách nhiệm   pháp lý trên cơ sở những quy định của pháp luật quốc tế. Từ  định nghĩa trên, khi xác định chủ  thể của luật quốc tế chúng ta phải căn cứ  vào   các tiêu chí sau đây :  - Chủ thể phải có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế do luật quốc tế  điều chỉnh ; - Chủ  thể  phải có ý chí độc lập trong quan hệ  quốc tế, không phải chịu sự  chi   phối của một thế lực nào đứng trên nó trong quan hệ quốc tế mà nó tham gia ; - Chủ  thể  phải có đầy đủ  các quyền và nghĩa vụ  riêng biệt đối với các chủ  thể  khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế trong lĩnh vực mà mình tham gia; - Chủ thể phải có khả năng độc lập gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế  do những hành vi mà chủ thể đã thực hiện gây ra. II. Các loại chủ thề của luật quốc tế Trên thực tế, có nhiều quan điểm khác nhau về  các loại chủ  thể  của luật quốc tế.  Có quan điểm cho rằng chủ thể của luật quốc tế chỉ có quốc gia, các tổ  chức quốc tế  liên chính phủ và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập. Có quan điểm cho rằng chủ  thể  của luật quốc tế  bao gồm có cả  cá nhân, các tổ  chức quốc tế  phi chính phủ, các  vùng lãnh thổ độc lập trong một quốc gia và các công ty xuyên quốc gia…Như vậy, tất  cả các quan điểm đều thống nhất ba thực thể sau đây là chủ thể của luật quốc tế : quốc  gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập. 1. Quốc gia 18
  19. Quốc gia là chủ  thể  truyền thống và cơ  bản của luật quốc tế. Quốc gia là chủ  thể  xây dựng nên đại đa số các quy phạm pháp lý quốc tế và là chủ thể sáng lập ra chủ thể  khác, đó là các tổ chức quốc tế liên chính phủ.  Một thực thể  như  thế  nào được xem là quốc gia trong quan hệ  quốc tế ? Cho đến  nay, chưa có một định nghĩa thống nhất nào trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quốc   gia. Trong khoa học luật quốc tế, người ta xác định quốc gia dựa trên các yếu tố  cấu   thành nên một quốc gia.  Theo Điều 1, Công ước Montevideo ngày 26/12/1933 về quyền và nghĩa vụ của quốc   gia thì một thực thể được coi là quốc gia trong quan hệ quốc tế phải hội đủ 4 điều kiện  sau: Có dân số ổn định và thường xuyên; Có lãnh thổ; Có chính phủ; Có khả  năng tham   gia vào quan hệ quốc tế một cách độc lập với các chủ thể khác. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của quốc gia : - Quyền được tôn trọng độc lập, bình đẳng về  chủ  quyền quốc gia và các quyền   lợi khác; - Quyền được bất khả xâm phạm về biên giới và lãnh thổ; - Quyền được tự vệ cá thể và tập thể; - Quyền được phát triển và tồn tại trong hòa bình; - Quyền được tham gia xây dựng các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc   tế; - Quyền tự do quan hệ và hợp tác với các Chủ thể khác của luật quốc tế; - Quyền trở thành hội viên của các tổ chức quốc tế phổ cập; - Quyền được tham gia các Hội nghị quốc tế liên quan đến lợi ích của mình... Khi thực hiện những quyền và nghĩa vụ nêu trên, các quốc gia có thể thực hiện một   cách độc lập theo ý chí của mình, hoặc cùng với các quốc gia khác phối hợp thực hiện.   Tuy nhiên, dù độc lập hay liên kết thực hiện những quyền và nghĩa vụ  thì việc thực   hiện đó không được  ảnh hưởng đến phạm vi chủ  quyền quốc gia của họ  và các quốc  gia  khác. 2. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ Tổ chức liên quốc tế liên chính phủ là tổ chức do hai hay nhiều quốc gia thỏa thuận   thành lập nhằm để thực hiện những mục tiêu nhất định của quốc gia tham gia tổ chức. Tổ chức quốc tế liên chính phủ xuất hiện từ thời kỳ cận đại trong lịch sử phát triển   của luật quốc tế. Tuy nhiên, sau Chiến tranh thế  giới thứ  II thì tổ  chức quốc tế  liên   chính phủ mới bắt đầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình một cách toàn diện trong  đời sống quốc tế. Hiện nay, tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể có vai trò rất quan  trọng trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là quá trình toàn cầu hoá trong các lĩnh vực. Đây là   chủ thể phái sinh. Có nghĩa là nó chỉ được hình thành trên cơ sở của chủ thể khác chứ nó   không được hình thành một cách tự nhiên như quốc gia. Hiện nay có khoảng 500 Tổ  chức Quốc tế  liên Chính phủ  đựơc thành lập và hoạt   động   trên   toàn   cầu,   điển   hình   như:   UN   (United   Nations);   WHO   (World   Health   Organization);   ILO   (International   Labour   Organization);   ICAO   (International   Civil  19
  20. Aviation   Organization);   IMO   (International   Maritime);   UNESCO   (United   Nations  Educational, Scientific and Cultural Organization); ITO (International Telecommunication  Union);… Quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế cơ bản của tổ chức quốc tế liên chính phủ :  ­ Thảo luận và thông qua các văn bản pháp lý về  tổ  chức và hoạt động của   mình trong phạm vi quy định của Hiến chương và Điều lệ; - Quyền được ký kết các điều  ước quốc tế  liên quan đến các hoạt động của  mình; - Nhận đại diện và quan sát viên thường trực của các quốc gia chưa phải là  thành viên của mình; - Tham gia tổ  chức các Hội nghị  quốc tế  liên quan đến nội dung hoạt độ ng  của mình; - Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên và giữa các thành viên   với tổ chức quốc tế; - Được hưởng quyền theo quy định của các điều  ước quốc tế  mà tổ  chức đó  ký kết hoặc tham gia; - Được yêu cầu kết luận tư vấn của Tòa án quốc tế của Liên hiệp quốc; - Thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia, các tổ chức khác trong trường  hợp nhận thấy cần thiết, đồng thời cũng được hưởng những quyền miễn trừ và ưu đãi  ngoại giao. Song song với các quyền cơ  bản nêu trên, các tổ  chức quốc tế  liên chính phủ  còn   phải thực hiện nghĩa vụ  tương  ứng nhất định. Đó là tôn trọng các nguyên tắc cơ  bản  của luật quốc tế, tôn trọng các quyền của các tổ chức quốc tế khác và của các chủ  thể  khác của luật quốc tế… Trong quan hệ quốc tế, các tổ  chức tham gia vào quan hệ  quốc tế không được đầy  đủ  như  các quốc gia. Quyền và nghĩa vụ  của các tổ  chức quốc tế  liên chính phủ  cũng   hạn chế  do đây là chủ  thể  sinh ra từ  các quốc gia. Có nghĩa là chính các quốc gia là   người khai sinh ra các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các quốc gia xác định quyền và  nghĩa vụ  của tổ  chức quốc tế  của mình. Như  vậy, các tổ  chức quốc tế  chỉ  được thực  hiện các quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong hiến chương, điều lệ thành lập nên nó  mà thôi, trong khí đó các quốc gia lại có đầy đủ tất cả các quyền năng của một chủ thể. 3. Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập  Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế là nguyên tắc « Quyền dân tộc  tự quyết ». Do đó, các dân tộc đang đấu tranh vì một nền độc lập và tự do chân chính có  thể  trở  thành chủ  thể  của luật quốc tế  hiện đại. Trong quan hệ  quốc tế, các dân tộc  đang đấu tranh giành độc lập này tham gia rất hạn chế. Hầu như  họ  tham gia chỉ  với   một cơ sở pháp lý duy nhất là quyền dân tộc tự quyết. Do đó, chủ thể này còn được xem  là chủ thể hạn chế của luật quốc tế. Để trở thành chủ thể của luật quốc tế hiện đại thì các dân tộc phải hội đủ các điều   kiện sau: ­ Phải là các dân tộc đang bị đô hộ, nô dịch và bị áp bức; 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2