intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Các nhân tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

19
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Các nhân tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán tại Việt Nam dựa trên cơ sở hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu trước đây, xây dựng mô hình nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV với bối cảnh tại Việt Nam từ góc nhìn của người sử dụng thông tin.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Các nhân tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán tại Việt Nam

  1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHOẢNG CÁCH KỲ VỌNG TRONG KIỂM TOÁN TẠI VIỆT NAM Nguyễn Thu Hoài,1∗, Phạm Đức Hiếu1 Tóm tắt: Khoảng cách kỳ vọng (KCKV) trong kiểm toán là một trong những chủ đề thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Trong khi số lượng nghiên cứu về xây dựng khái niệm hay chứng minh sự tồn tại của KCKV là đáng kể, số lượng các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, kết quả từ các nghiên cứu còn nhiều điểm chưa thống nhất, mâu thuẫn với nhau do có sự khác biệt trong bối cảnh nghiên cứu, không gian, thời gian, đối tượng khảo sát. Bài viết này dựa trên cơ sở hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu trước đây, xây dựng mô hình nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV với bối cảnh tại Việt Nam từ góc nhìn của người sử dụng thông tin. Trên cơ sở kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng, kết quả nghiên cứu cho thấy trong 6 nhân tố được đề xuất trong mô hình nghiên cứu, có 3 nhân tố có ảnh hưởng thuận chiều và 3 nhân tố có ảnh hưởng nghịch chiều đối với khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. Từ khóa: Khoảng cách kỳ vọng (KCKV), kiểm toán báo cáo tài chính, nhân tố ảnh hưởng, Việt Nam. 1. GIỚI THIỆU Thuật ngữ KCKV lần đầu tiên xuất hiện trong nghiên cứu của Liggio (1974). Từ đó đến nay, KCKV vẫn luôn là một chủ đề thu hút được sự quan tâm không chỉ của các nhà nghiên cứu mà còn của các cơ quan thiết lập chuẩn mực hay các kiểm toán viên, công ty kiểm toán. Các nghiên cứu trước đây đều cho thấy sự tồn tại của KCKV với các mức độ khác nhau ở các quốc gia trên thế giới. Sự tồn tại của KCKV 1 Trường Đại học Thương mại * Tác giả liên hệ. Email: nguyenhoai@tmu.edu.vn
  2. 514 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... có ảnh hưởng tiêu cực tới sự tồn tại và phát triển của nghề nghiệp kiểm toán (Porter và cộng sự, 2005) cũng như sự phát triển của nền kinh tế của các quốc gia (Noghondari và Foong, 2009; Ogbona và Appah, 2014; Farasangi và Noghondari, 2017). Chính vì vậy, việc thu hẹp KCKV là rất cấp thiết trong thực tiễn nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nghề nghiệp kiểm toán cũng như của nền kinh tế. Để có những phương án thu hẹp KCKV hiệu quả và thích hợp, cần đánh giá được tác động của các nhân tố cụ thể tới khoảng cách này. Tại Việt Nam, KCKV không phải là một khái niệm mới, tuy nhiên số lượng nghiên cứu thực nghiệm nói chung và nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng tới KCKV nói riêng còn hạn chế. Vì vậy, bài viết này không chỉ đề xuất mô hình nghiên cứu mà còn đưa ra kết quả nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV với bối cảnh của Việt Nam.  2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Các nghiên cứu xây dựng khái niệm khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán Từ khi thuật ngữ KCKV ra đời tới nay, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu nỗ lực xây dựng một khái niệm phù hợp cho thuật ngữ này. Tuy nhiên, vì có rất nhiều góc độ tiếp cận khác nhau đối với KCKV nên có sự khác biệt đáng kể giữa các khái niệm đã được hình thành. Theo He (2010), có thể xem xét các khái niệm KCKV trong các nghiên cứu trước đây từ góc độ chủ thể được đề cập tới trong các khái niệm này. Theo đó, các khái niệm của KCKV sẽ được chia thành 2 nhóm: (1) Nhóm thứ nhất tiếp cận khái niệm KCKV từ góc độ của cả kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Theo hướng tiếp cận này, KCKV được xem xét là sự khác biệt trong nhận thức, kỳ vọng giữa kiểm toán viên và người sử dụng thông tin. Các nghiên cứu trong nhóm này bao gồm: Liggio (1974), AICPA (1993) và một số tác giả khác. Theo Liggio (1974, tr.27), “KCKV là sự khác biệt trong mức độ kỳ vọng về kết quả công việc kiểm toán giữa kiểm toán viên và người sử dụng báo cáo tài chính”.
  3. Phần 3. TÀI CHÍNH 515 Theo AICPA (1993, tr.iii), “KCKV là sự khác biệt giữa những gì mà công chúng và người sử dụng báo cáo tài chính tin rằng trách nhiệm của kiểm toán viên phải làm và những gì mà kiểm toán viên tin rằng trách nhiệm họ phải làm theo chuẩn mực nghề nghiệp”. (2) Nhóm thứ hai tiếp cận khái niệm KCKV chỉ từ góc độ của người sử dụng thông tin. Theo đó, KCKV theo cách tiếp cận này sẽ được hiểu là sự khác biệt giữa kỳ vọng và nhận thức về kết quả kiểm toán của người sử dụng thông tin. Các nghiên cứu đưa ra khái niệm theo cách tiếp cận này bao gồm: Ủy ban Cohen (1978), Porter (1993). Theo Cohen (1978, tr.xi), “KCKV là khoảng cách giữa những gì mà công chúng đòi hỏi và mong muốn và những gì mà kiểm toán viên nên và có thể thực hiện một cách hợp lý”. Theo Porter (1993, tr.50), “KCKV là sự khác biệt giữa kỳ vọng của xã hội đối với trách nhiệm, nghĩa vụ của kiểm toán viên và nhận thức của xã hội về kết quả thực hiện các trách nhiệm, nghĩa vụ đó của kiểm toán viên”. Mỗi cách tiếp cận đều có ưu, nhược điểm riêng. Tuy nhiên, khái niệm KCKV theo cách tiếp cận thứ hai được các nhà nghiên cứu đánh giá là phù hợp với bản chất của KCKV cũng như đảm bảo tính khách quan của kết quả nghiên cứu, đặc biệt là các nghiên cứu thực nghiệm hơn cả. Chính vì vậy, nghiên cứu này sử dụng khái niệm KCKV theo cách tiếp cận thứ hai, cụ thể là khái niệm của Porter (1993) để thiết kế nghiên cứu.  2.2. Các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán 2.2.1. Kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin KCKV trong kiểm toán thường gắn liền với kỳ vọng bất hợp lý của công chúng vì công chúng thường hiểu sai mục đích và bản chất của kiểm toán (Humphrey và cộng sự, 1993). Theo Salehi (2007), một trong những nguyên nhân của KCKV là do kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin bao gồm kỳ vọng quá mức về mức độ thực hiện công việc của kiểm toán viên và kỳ vọng quá mức về các chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành. Theo Kamau (2013), nguyên nhân chính gây ra KCKV là do sự thiếu kết
  4. 516 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... nối giữa kỳ vọng của công chúng về vai trò của kiểm toán viên và vai trò, hiệu quả thực tế của họ. Kamau (2013) lập luận rằng những kỳ vọng bất hợp lý của người sử dụng thông tin dẫn đến KCKV với nhiều khả năng những kỳ vọng cao hơn của người sử dụng. 2.2.2. Giáo dục, đào tạo về kiểm toán của người sử dụng thông tin Nghiên cứu của Bailey và cộng sự (1983) tại Mỹ cho thấy người sử dụng thông tin có kiến thức về kế toán, kiểm toán sẽ đặt ra ít trách nhiệm hơn đối với kiểm toán viên. Tương tự, Epstein và Geiger (1994) cũng tin rằng các nhà đầu tư có trình độ học vấn cao hơn cũng yêu cầu về mức độ đảm bảo của kiểm toán thấp hơn. Monroe và Woodliff (1994) cho thấy khoảng cách giữa kiểm toán viên với người sử dụng thông tin có kiến thức là thấp hơn so với khoảng cách giữa kiểm toán viên với người sử dụng thông tin có ít kiến thức hơn. Điều này cho thấy giáo dục, đào tạo về kiểm toán có ảnh hưởng rất lớn tới nhận thức của người sử dụng thông tin và từ đó có thể thu hẹp KCKV. 2.2.3. Nhu cầu của người sử dụng thông tin Theo Sayed và cộng sự (2018), nhu cầu của người sử dụng thông tin về kiểm toán có xu hướng ngày càng tăng, vì thế phát sinh các kỳ vọng mới đối với kiểm toán liên quan tới hệ thống kiểm soát nội bộ, khả năng hoạt động liên tục,… Nhu cầu của người sử dụng thông tin dẫn tới sự gia tăng trong cả kỳ vọng hợp lý lẫn kỳ vọng bất hợp lý đối với kiểm toán. Nghiên cứu thực nghiệm của Kamau (2013) cũng cho thấy nhân tố nhu cầu của người sử dụng thông tin có ảnh hưởng thuận chiều tới KCKV về mặt thống kê. 2.2.4. Tính độc lập của kiểm toán viên Sự độc lập của kiểm toán viên chính là nền tảng của nghề kiểm toán vì nó cũng là nền tảng cho niềm tin của công chúng (Nelson, 2006). Rabinowitz (1996) chi ra rằng một số khiếm khuyết trong quy định về tính độc lập của kiểm toán viên đã khiến cho công chúng giảm niềm tin vào nghề nghiệp kiểm toán. Hay nghiên cứu thực nghiệm của Taslima và Fengju (2020) cho thấy nhận thức về tính độc lập của kiểm toán viên có
  5. Phần 3. TÀI CHÍNH 517 ảnh hưởng nghịch chiều đáng kể đối với KCKV. Tuy nhiên, nghiên cứu của Ogweno (2018) hay Kamau (2013) lại cho thấy không có mối quan hệ đáng kể về mặt thống kê giữa tính độc lập của kiểm toán viên và KCKV. 2.2.5. Năng lực của kiểm toán viên Theo Agyei và cộng sự (2013), đạo đức nghề nghiệp và năng lực có mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng kiểm toán. Chính vì vậy, năng lực của kiểm toán viên được đánh giá là có ảnh hưởng tới KCKV. Macdonald (1988) tin rằng kiến thức và việc đào tạo chuyên môn cho kiểm toán viên là một khía cạnh góp phần thu hẹp KCKV. Nghiên cứu thực nghiệm của Kamau (2013) cũng kết luận kỹ năng của kiểm toán viên giúp thu hẹp đáng kể KCKV về mặt thống kê. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Ogweno (2018) lại cho thấy không có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa năng lực của kiểm toán viên và khoảng cách kỳ vọng.  2.2.6. Chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ Theo nghiên cứu của Lee và cộng sự (2009), các chuẩn mực nghề nghiệp tại Malaysia chưa chỉ ra một cách rõ ràng các trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến phát hiện gian lận và các hoạt động bất hợp pháp. Cosserat (2004) cho rằng kể từ vụ sụp đổ của Enron và Worldcom, các chuẩn mực kiểm toán cần được sửa đổi nhằm nhấn mạnh trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến việc phát hiện gian lận. Bên cạnh đó, nghiên cứu của Porter và Gowthorpe (2004) cho rằng cần kiểm soát tốt hơn việc thực hiện công việc của kiểm toán viên. Mặt khác, Ogbona và Appah (2014) đã chỉ ra rằng bản chất của các chức năng kiểm toán càng trở nên phức tạp bởi những thuật ngữ chuyên môn được sử dụng trong các báo cáo kiểm toán như “trung thực và khách quan”, “hợp lý”, “trọng yếu” …Và hậu quả là người sử dụng thông tin có thể không biết cách diễn giải được nội dung của các thuật ngữ này. Vì vậy, việc bổ sung, sửa đổi nội dung, cách trình bày của báo cáo kiểm toán thông qua sự thay đổi trong quy định của chuẩn mực kiểm toán sẽ có khả năng thu hẹp KCKV.
  6. 518 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... 3. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 3.1. Lý thuyết niềm tin cảm tính (inspired confidence theory) Lý thuyết niềm tin cảm tính được phát triển vào cuối những năm 1920 bởi Limperg. Theo Limperg (1926), có sự khác biệt giữa lợi ích của quản lý và các bên liên quan dẫn tới sự sai lệch trong thông tin được công bố, nên cần phải kiểm toán các thông tin này. Lý thuyết niềm tin cảm tính cũng nhấn mạnh vai trò của kiểm toán viên trong việc đáp ứng nhu cầu xã hội, chính là cơ sở cho việc xác định các nhân tố liên quan đến kiểm toán viên có ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán như tính độc lập, năng lực của kiểm toán viên. Mặt khác, Limperg (1926) cũng cho rằng cần có cơ chế đảm bảo kiểm toán viên đáp ứng nhu cầu của xã hội, đó chính là cơ sở cho việc xác định các nhân tố liên quan đến cơ quan ban hành chuẩn mực kiểm toán như chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ. 3.2. Lý thuyết các bên có liên quan (stakeholder theory) Lý thuyết các bên có liên quan được xây dựng bởi Ian (1983) và về cơ bản là sự tiếp nối của lý thuyết ủy nhiệm. Hill và Jones (1992) đã định nghĩa các bên có liên quan là các cá nhân có ảnh hưởng đến công ty và có thể bị ảnh hưởng bởi chính công ty này. Hill và Jones (1992) đã chia các bên có liên quan thành nhóm bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Bên liên quan bên trong là nhà quản lý, nhà điều hành, nhân viên và cổ đông. Bên liên quan bên ngoài là cộng đồng địa phương, khách hàng, chủ nợ, nhà cung cấp và chính phủ. Mỗi bên có liên quan sẽ có nhu cầu thông tin về doanh nghiệp là khác nhau và nhà quản lý doanh nghiệp nên cung cấp thông tin đáp ứng được những nhu cầu này. Căn cứ vào lý thuyết các bên có liên quan, các yếu tố ảnh hưởng tới khoảng cách kỳ vọng được xác định theo các bên có ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi khoảng cách kỳ vọng bao gồm: người sử dụng thông tin, kiểm toán viên, cơ quan ban hành chuẩn mực. 3.3. Lý thuyết phản hồi của người đọc (reader - response theory) Lý thuyết phản hồi của người đọc dựa trên giả định rằng những người đọc khác nhau có thể suy luận ra nhiều ý nghĩa khác nhau cho
  7. Phần 3. TÀI CHÍNH 519 cùng một văn bản dựa vào tâm lý, suy nghĩ hoặc động cơ của chính họ (Wright, 2012). Một giả định khác được sử dụng trong lý thuyết này đó là nền tảng kiến thức và kinh nghiệm của người đọc có ảnh hưởng tới việc giải thích văn bản của họ (Wright, 2012). Liên quan đến KCKV, vì những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán có kiến thức, sự hiểu biết và kinh nghiệm khác nhau nên có thể giải thích sai hoặc hiểu nhầm nội dung của báo cáo kiểm toán, do đó gây ra KCKV. Lý thuyết phản hồi người đọc là cơ sở giải thích cho sự ảnh hưởng của các nhân tố liên quan đến người sử dụng thông tin có ảnh hưởng tới KCKV như giáo dục, đào tạo về kiểm toán và nhu cầu của người sử dụng thông tin. 4. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU 4.1. Mô hình và giả thuyết nghiên cứu Dựa trên các cơ sở lý thuyết cũng như kết quả của các nghiên cứu tiền nhiệm về các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV, các giả thuyết nghiên cứu được phát biểu như sau: H1: Tồn tại mối quan hệ giữa kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H2: Tồn tại mối quan hệ giữa giáo dục, đào tạo về kiểm toán của người sử dụng thông tin với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H3: Tồn tại mối quan hệ giữa nhu cầu của người sử dụng thông tin với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H4: Tồn tại mối quan hệ giữa tính độc lập của kiểm toán viên với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H5: Tồn tại mối quan hệ giữa năng lực của kiểm toán viên với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H6: Tồn tại mối quan hệ giữa chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam.
  8. 520 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... Theo đó, mô hình nghiên cứu được đề xuất như sau: Kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin (KVQM) Giáo dục, đào tạo về kiểm toán của người sử dụng thông tin (GDDT) Khoảng cách kỳ vọng trong Nhu cầu của người sử dụng thông tin kiểm toán (NC) Tính độc lập của kiểm toán viên (DL) Năng lực của kiểm toán viên (NL) Chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ (CM) Hình 1. Mô hình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV trong kiểm toán 4.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng. Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện nhằm tìm hiểu các nhân tố có ảnh hưởng tới KCKV từ kết quả các nghiên cứu trước đây nhằm hình thành mô hình nghiên cứu, xây dựng các giả thuyết nghiên cứu, thiết lập bảng hỏi điều tra và thang đo tương ứng. Nhóm tác giả cũng tiến hành kiểm tra sự phù hợp của mô hình nghiên cứu, xem xét bổ sung các nhân tố mới cho mô hình và sự phù hợp của bảng hỏi qua việc thực hiện phỏng vấn bán cấu trúc chuyên gia và khảo sát thử. Dựa trên phương pháp nghiên cứu định tính, nhóm tác giả đã hoàn thiện bảng hỏi với 30 thang đo KCKV và 24 thang đo về các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV được đo lường bởi thang
  9. Phần 3. TÀI CHÍNH 521 đo Likert 5 điểm. Nghiên cứu sử dụng các công cụ của phương pháp nghiên cứu định lượng như kiểm định độ tin cậy của thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), đồng thời kiểm định sự phù hợp của mô hình thông qua phân tích hồi quy bội.  5. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 5.1. Kết quả thống kê mô tả mẫu điều tra Nhóm tác giả đã phát ra 450 phiếu điều tra cho nhóm đối tượng khảo sát là người sử dụng thông tin và thu về 305 phiếu điều tra hợp lệ. Bảng 1 đã cho thấy tỷ lệ hồi đáp của phiếu điều tra đạt 67.78%, số lượng phiếu điều tra từ nhóm khách hàng kiểm toán chiếm 33.1% và nhóm có lợi ích trực tiếp chiếm 69.9% tổng số phiếu hợp lệ.  Bảng 1. Kết quả thống kê mô tả mẫu điều tra Số phiếu Phiếu điều tra Tỷ lệ Nhóm đối tượng khảo sát điều tra đã thu về thu về phát Số lượng % (%) Khách hàng kiểm toán 130 101 33.1 77.69 Hội đồng quản trị/Ban giám đốc 50 34 11.1 68 Kế toán viên/Kiểm toán viên nội bộ 80 67 22 83.75 Nhóm có lợi ích trực tiếp 320 204 69.9 63.75 Cổ đông/nhà đầu tư 80 51 17.4 63.75 Nhân viên ngân hàng 80 55 20 68.75 Nhân viên môi giới chứng khoán 80 53 18 66.25 Khác 80 45 14.7 56.25 Tổng số người sử dụng thông tin 450 305 100 67.78 (Nguồn: Tác giả tổng hợp) 5.2. Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo Nghiên cứu sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha để kiểm định độ tin cậy của các thang đo biến phụ thuộc và biến độc lập. Theo bảng 2, hệ số Cronbach’s Alpha của tất cả các biến đều trong khoảng 0.7-0.9, cho thấy đảm bảo độ tin cậy để thực hiện nghiên cứu thực nghiệm.
  10. 522 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... Bảng 2. Kiểm định độ tin cậy của thang đo Cronbach’s N Alpha Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán (KCKV) 0.796 30 Kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin (KVQM) 0.783 3 Giáo dục, đào tạo về kiểm toán của người sử dụng thông tin 0.769 3 (GD) Nhu cầu của người sử dụng thông tin 0.818 4 Tính độc lập của kiểm toán viên (DL) 0.825 4 Năng lực của kiểm toán viên (NL) 0.801 4 Chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ (CM) 0.814 6 (Nguồn: Tổng hợp từ xử lý dữ liệu bằng SPSS20) 5.3. Kết quả phân tích nhân tố khám phá Sau khi phân tích độ tin cậy của thang đo, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) nhằm xác định tập biến cần thiết có đủ điều kiện để tham gia vào bước chạy hồi quy tiếp theo hay không. Với phương pháp xoay nguyên góc (Varimax) các nhân tố, kết quả phân tích EFA theo bảng 3 và bảng 4 như sau: Hệ số KMO = 0.682 > 0.5: như vậy dữ liệu là thích hợp để phân tích nhân tố khám phá. Hệ số Sig. (Bartlett’s Test) = 0.000 < 0.05 cho thấy các biến quan sát có tương quan với nhau trong tổng thể và dữ liệu dùng để phân tích EFA là thích hợp. Eigenvalues = 1.168 > 1: đại diện cho phần biến thiên được giải thích bởi mỗi nhân tố, chỉ những nhân tố có Eigenvalue >1 mới được giữ lại trong mô hình phân tích. Tổng phương sai trích = 69.736% > 50% là đạt yêu cầu, các nhân tố giải thích được 69.736% biến thiên của dữ liệu. Bảng 5 cho thấy các biến quan sát đều có hệ số tải lớn hơn 0.5 và không có trường hợp cross-loading. 
  11. Phần 3. TÀI CHÍNH 523 Bảng 3. Kết quả KMO và Bartlet’s Test Kaiser-Meyer-Olkin Measure of Sampling Adequacy. .682 Approx. Chi-Square 4797.157 Bartlett’s Test of Sphericity df 276 Sig. .000 (Nguồn: Tổng hợp từ xử lý dữ liệu bằng SPSS20) Bảng 4. Kết quả kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát Extraction Sums of Squared Initial Eigenvalues Loadings Component Cumulative % of Cumulative Total % of Variance Total % Variance % 1 6.774 28.226 28.226 6.774 28.226 28.226 2 2.681 11.172 39.398 2.681 11.172 39.398 3 2.334 9.724 49.122 2.334 9.724 49.122 4 2.035 8.480 57.602 2.035 8.480 57.602 5 1.744 7.268 64.870 1.744 7.268 64.870 6 1.168 4.866 69.736 1.168 4.866 69.736 7 .987 4.114 73.850 8 .880 3.667 77.517 9 .789 3.287 80.804 10 .735 3.063 83.867 11 .568 2.369 86.236 12 .494 2.059 88.295 13 .453 1.887 90.182 14 .433 1.803 91.984 15 .350 1.459 93.443 16 .291 1.212 94.655 17 .274 1.140 95.796 18 .258 1.075 96.870 19 .199 .830 97.701 20 .172 .716 98.416 21 .126 .527 98.943 22 .101 .422 99.365 23 .087 .362 99.727 24 .066 .273 100.000 (Nguồn: Tổng hợp từ xử lý dữ liệu bằng SPSS20)
  12. 524 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... Bảng 5. Ma trận xoay các yếu tố Component 1 2 3 4 5 6 CM1 .766 CM4 .750 CM2 .691 CM5 .649 CM6 .612 CM3 .578 DL2 .906 DL4 .785 DL1 .765 DL3 .610 NC2 .829 NC4 .724 NC3 .703 NC1 .593 NL2 .851 NL4 .780 NL3 .775 NL1 .600 GD2 .794 GD1 .695 GD3 .643 KVQM3 .727 KVQM1 .682 KVQM2 .610 (Nguồn: Tổng hợp từ xử lý dữ liệu bằng SPSS20) 5.4. Kết quả phân tích hồi quy bội Từ kết quả của các bước phân tích phía trên cũng như dựa trên mô hình và giả thuyết nghiên cứu đã được xác định, mô hình hồi quy tuyến tính bội đối với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam như sau: KCKV = β0 + β1 CM + β2 DL+ β3 NC + β4 NL + β5 GD+ β6 KVQM+ ε
  13. Phần 3. TÀI CHÍNH 525 - Kết quả kiểm định độ phù hợp của mô hình như sau: + Đối với kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả của chỉ tiêu hệ số phóng đại phương sai Variance Inflation factor (VIF) ở Bảng 6 cho thấy tất cả các biến độc lập đều có hệ số VIF trong khoảng từ 1.2 đến 1.6 và đều < 2, vì vậy nghiên cứu kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập. + Kiểm định tương quan giữa các phần dư Durbin - Watson ở Bảng 6 cho giá trị 1.753, nằm trong khoảng giá trị từ 1 đến 3 nên nghiên cứu kết luận không có hiện tượng tương quan giữa các phần dư. + Kiểm định ANOVA: trị số thống kê F được tính từ hệ số R2 điều chỉnh đầy đủ trong Bảng 6 có mức độ ý nghĩa rất nhỏ (sig. = 0.000), vì vậy kết luận mô hình hồi quy tuyến tính bội phù hợp với dữ liệu và có thể sử dụng được. - Kết quả đánh giá mức độ giải thích bởi các biến độc lập trong mô hình: + Hệ số R2 (R square) = 0.491 (theo Bảng 6), điều này có nghĩa là 49.1% sự biến động của KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam được giải thích bởi các yếu tố là các biến độc lập đã được đưa vào mô hình. + Kết quả hồi quy (theo Bảng 6) cho thấy, cả 6 biến có ảnh hưởng đáng kể tới KCKV (có sig. < 0.05). Trong đó biến chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ (CM), Kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin (KVQM), Nhu cầu của người sử dụng thông tin (NC) có tác động thuận chiều (hệ số Beta > 0) và các biến Tính độc lập của kiểm toán viên (ĐL), Năng lực của kiểm toán viên (NL), Giáo dục, đào tạo về kiểm toán của người sử dụng thông tin có tác động nghịch chiều (hệ số Beta < 0) đối với KCKV. Như vậy, phương trình hồi quy chuẩn hóa đối với các nhân tố ảnh hưởng tới KCKV như sau: KCKV = 0.405 CM - 0.437 DL - 0.156 NL + 0.396 NC - 0.339 GD + 0.266 KVQM
  14. 526 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... Mức độ tác động từ mạnh đến đếu yếu của các nhân tố sẽ là: DL (0.437) > CM (0.405) > NC (0.396) > GD (0.339) > KVQM (0.266) > NL (0.156) Bảng 6. Phân tích hồi quy các nhân tố ảnh hưởng đến KCKV trong kiểm toán Unstandardized Standardized Model Coefficients Coefficients t Sig. VIF B Std. Error Beta (Constant) .979 .055 17.684 .000 CM .099 .012 .405 8.067 .000 1.477 DL -.077 .008 -.437 -9.466 .000 1.249 1 NL -.039 .012 -.156 -3.270 .001 1.326 NC .081 .011 .396 7.510 .000 1.627 GD -.075 .011 -.339 -6.867 .000 1.426 KVQM .054 .011 .266 5.045 .000 1.627 R .700 a R Square .491 Adjusted R Square .480 Std. Error of the Estimate .09494 Durbin-Watson 1.753 Model Sum of df Mean F Sig. Squares Square Regression 2.587 6 .431 47.836 .000b 1 Residual 2.686 298 .009 Total 5.274 304 (Nguồn: Tổng hợp từ xử lý dữ liệu bằng SPSS20) Như vậy, kết quả phân tích nhân tố khám phá cũng như phân tích hồi quy cho thấy tất cả các giả thuyết nghiên cứu H1, H2, H3, H4, H5, H6 đều được chấp thuận. 6. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ kết quả kiểm định mô hình cho thấy, các nhân tố bao gồm: kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin (KVQM); Giáo dục, đào tạo về kiểm toán của người sử dụng thông tin (GD); Nhu cầu của người sử dụng thông tin (NC); Chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ (CM); Tính
  15. Phần 3. TÀI CHÍNH 527 độc lập của kiểm toán viên (DL); Năng lực của kiểm toán viên (NL) đều có ảnh hưởng đáng kể về mặt thống kê (sig. < 0.05) tới KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. Trong đó nhân tố tính độc lập của kiểm toán viên có mức độ ảnh hưởng nghịch chiều lớn nhất và nhân tố chuẩn mực kiểm toán chưa đầy đủ có mức độ ảnh hưởng thuận chiều là lớn nhất tới KCKV về mặt thống kê. Bảng 7. Tổng hợp kết quả nghiên cứu Chiều tương Giả thuyết Kết quả Beta quan H1: Tồn tại mối quan hệ giữa kỳ vọng Chấp nhận Thuận chiều 0.266 quá mức của người sử dụng thông tin với giả thuyết KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H2: Tồn tại mối quan hệ giữa giáo dục, đào Chấp nhận Nghịch chiều -0.339 tạo về kiểm toán của người sử dụng thông giả thuyết  tin với KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H3: Tồn tại mối quan hệ giữa nhu cầu của Chấp nhận Thuận chiều 0.396 người sử dụng thông tin với KCKV trong giả thuyết kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H4: Tồn tại mối quan hệ giữa tính độc lập Chấp nhận Nghịch chiều -0.437 của kiểm toán viên với KCKV trong kiểm giả thuyết toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. H5: Tồn tại mối quan hệ giữa năng lực của Chấp nhận Nghịch chiều -0.156 kiểm toán viên với KCKV trong kiểm toán giả thuyết  báo cáo tài chính tại Việt Nam. H6: Tồn tại mối quan hệ giữa chuẩn mực Chấp nhận Thuận chiều 0.405 kiểm toán chưa đầy đủ với KCKV trong giả thuyết  kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam. (Nguồn: Tác giả tổng hợp từ kết quả nghiên cứu) Trên cơ sở kết quả kiểm định mô hình, một số khuyến nghị được đưa ra nhằm thu hẹp KCKV trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam trong thời gian tới như sau: Thứ nhất, cần bổ sung, sửa đổi một số nội dung trong chuẩn mực kiểm toán hiện hành. Trước hết là cần gia tăng các chuẩn mực kiểm soát chất lượng kiểm toán như yêu cầu đánh giá ngang hàng giữa các công
  16. 528 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... ty kiểm toán. Bên cạnh đó, các chuẩn mực kiểm toán cũng cần xem xét mở rộng trách nhiệm của kiểm toán viên liên quan đến việc kiểm tra và công bố hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ...  Thứ hai, các cơ quan chuyên môn cần hiểu rõ hơn các nhu cầu thông tin hợp lý từ phía người sử dụng thông tin như thông tin dự báo tài chính, hay một số sai sót trọng yếu đã được điều chỉnh cũng như chưa được điều chỉnh... Thứ ba, gia tăng tính độc lập của kiểm toán viên. Để củng cố tính độc lập của kiểm toán viên, có thể thiết lập một cơ quan độc lập giám sát việc bổ nhiệm, luân chuyển kiểm toán viên và các công ty kiểm toán. Các cơ quan chuyên môn cũng cần gia tăng các chế tài xử phạt đối với các trường hợp cố ý vi phạm tính độc lập.  Thứ tư, nâng cao năng lực của kiểm toán viên. Để có được một đội ngũ kiểm toán viên có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp cần có sự tham gia đóng góp rất lớn từ phía các trường đại học. Quá trình đào tạo của các trường cũng cần gắn liền giữa lý thuyết với thực tiễn và cung cấp cho người học bộ kỹ năng cần thiết cho nghề nghiệp sau này. Hơn nữa, đạo đức, tác phong và tư cách nghề nghiệp của kiểm toán viên cũng cần được đề cập và phổ biến trong quá trình đào tạo. Về phía các công ty kiểm toán, cần tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và trao đổi kinh nghiệm cho các kiểm toán viên. Các công ty cũng cần tạo điều kiện cho các kiểm toán viên tham gia các lớp cập nhật kiến thức và các quy định có liên quan do các cơ quan chuyên môn tổ chức.  Thứ năm, đối với nhân tố kỳ vọng quá mức của người sử dụng thông tin, để thu hẹp hoàn toàn các “mong muốn thái quá” của người sử dụng thông tin là không thể. Tuy nhiên việc giảm các kỳ vọng này là có thể đạt được khi các tổ chức nghề nghiệp nỗ lực phổ biến tới người sử dụng thông tin về chức năng và hạn chế của kiểm toán cũng như phân định rõ ràng trách nhiệm, nghĩa vụ của của khách hàng kiểm toán và kiểm toán viên.  Thứ sáu, đối với nhân tố giáo dục, đào tạo về kiểm toán của người sử dụng thông tin. Việc gia tăng sự hiểu biết của người sử dụng thông
  17. Phần 3. TÀI CHÍNH 529 tin về bản chất và hạn chế của kiểm toán có thể được thực hiện bằng cách cung cấp các khóa học về kiểm toán trong các chương trình đào tạo của các trường đại học, cao đẳng khối ngành kinh tế. Về phía khách hàng kiểm toán cần chủ động hơn trong tổ chức thảo luận về mục đích, chức năng của kiểm toán trong các cuộc họp đại hội đồng cổ đông giúp người sử dụng thông tin hiểu rõ hơn về kiểm toán. Các kiểm toán viên trong quá trình thực hiện kiểm toán cần trao đổi rõ ràng về chức năng cũng như những hạn chế của kiểm toán nhằm nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, các kế toán viên, kiểm toán viên nội bộ, các cổ đông của khách hàng kiểm toán.  TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. American Institute of Certified Public Accountants AICPA (1993), Professional Standards, American Institute of Certified Public Accountants, New York, USA. 2. Agyei, A., Kusi, A.B. & Owusu-Yeboah, E. (2013), “An assessment of audit expectation gap in Ghana”, International Journal of Academic Research in Accounting, Finance and Management Sciences, Vol. 3(4), pp. 112-118. 3. Bailey, K.E., Bylinski, J.H. & Shields, M.D. (1983), “Effects of audit report wording changes on the perceived message”, Journal of Accounting Research, Vol. 21, pp.355-370. 4. Cohen Commission (1978), Report of the Commission on Auditors’ Responsibilities; Conclusions and Recommendations, New York: American Institute of Certified Public Accountants. 5. Cosserat, G. (2004), Modern Auditing, John Wiley & Sons Inc, New York. 6. Epstein, M.J. & Geiger, M.A. (1994), “Investor views of audit assurance: recent evidence of the expectation gap”, Journal of Accountancy, Vol. 1, pp. 60-66.  7. Farasangi, S.E., Noghondari, A.T. (2017), “Investigating the relationship between expectations gap from attitude of acccreditation of audit report by credit experts and non-repayment of granted facilities in the branches of Keshavarzi bank of Iran”, International journal of economics and financial issues, Vol. 7(4), pp. 199-206.
  18. 530 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... 8. He, J. (2010), “The research of audit expectation gap”, PhD dissertation DongBei CaiJing University.  9. Hill, C.W.L. & Jones, T.M. (1992), “Stakeholder-agency theory”, Journal of Management Studies, Vol. 29(2), pp.131-154.  10. Humphrey, C., Moizer, P & Turley, S. (1993), “The audit expectations gap in Britain: An empirical investigation”, Accounting and Business Research, Vol. 23(91A), pp. 395-411. 11. Ian, I.M. (1983), “Archetypal social systems analysis: on the deeper structure of human systems”, Academy of Management Review, Vol. 8(3), pp. 387-397. 12. Kamau, C.G. (2013), “Determinants of audit expectation gap: Evidence from limited companies in Kenya”, International Journal of Science and Research, Vol. 2(1), pp. 480-491. 13. Lee, T.H., Ali, A.M. & Bien, D. (2009), “Towards an understanding of the audit expectation gap”, The ICFAI University Journal of Audit Practice, Vol. 6(1), pp. 7-35.  14. Liggio, C. (1974), “The expectation gap: The accountant’s Waterloo”, Journal of Contemporary Business, Vol. 3(3), pp. 27-44.  15. Limperg, T. (1926), “The accountant’s Certificate in Connection with the Accountant’s Responsibilities”, Proceeding, Het International Accountants congress (Musses J., Purmerend, 1926; republished by Arno Press, Newyork 1980), 85-104. 16. MacDonald Commission /CICA (1988), Report of the commission to study the public’s expectation of audits. Toronto: CICA.  17. Monroe, G.S., Woodliff, D.R. (1993), “The effect of education on the audit expectation gap”, Accounting and Finance, Vol. 33(1), pp. 61-78.  18. Nelson, M.W. (2006), “Ameliorating conflicts of interest in auditing: effects of recent reforms on auditors and their clients”, Academy of Management Review, Vol. 31(1), pp. 30-38. 19. Noghondari, A.T. & Foong, S.Y. (2009), “Audit expectation gap and loan decision performance of bank officers in Iran”, Accounting, Auditing and Performance Evaluation, Vol. 5(3), pp. 310-328. 20. Ogbona, G.N. & Appah, E. (2014), “Causality of audit expectation gap and corporate performance in Nigeria”, Researh Journal of finance and accounting, Vol. 5(9), pp. 11-21.
  19. Phần 3. TÀI CHÍNH 531 21. Ogweno, J.A. (2018), “Factors affecting audit expectation gap in listed companies in Nairobi securities exchange”, A Project summitted in partial fulfillment of the requirement of Master of Science in commerce to the KCA University. 22. Porter, B. (1993), “An empirical study of the audit expectation- performance gap”, Accounting and Business Research, Vol. 24(93), pp. 49-68. 23. Porter, B., Simon, J. & Hatherly, D. (2005), Principles of External Auditing, John Wiley & Sons Ltd, New York. 24. Porter, B. & Gowthorpe, C. (2004), “Audit expectation-performance-gap in the United Kingdom in 1999 and comparison with the gap in New Zealand in 1989 and in 1999”, The Institute of Chartered Accountants of Scotland.  25. Rabinowitz, A. (1996), “Rebuilding public confidence in auditors and organizational controls”, CPA Journal, Vol. 66, pp. 30-35. 26. Salehi, M. (2007), “Reasonableness of Audit Expectation Gap: Possible Approach to Reducing”, The Journal of Audit Practice, Vol. 4(3), pp. 50-59.  27. Sayed, A.A.A, Rami, M.A.W. & Gagan, K. (2018), “The Determinants of Audit Expectation Gap: An Empirical Study from Kingdom of Bahrain”, Accounting and Finance Research, Vol. 7(3), pp. 54-66. 28. Taslima, A. & Fengju, X. (2020), “Existence of the audit expectation gap and its impact on Stakeholders’ confidence: the moderating role of the financial reporting council”, International journal of financial studies, Vol. 8(4), pp.1-25. 29. Wright, M.E. (2012), The Comedian as Critic: Greek old comedy and poetics, Bloomsbury Academic, London.
  20. 532 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ DÀNH CHO CÁC NHÀ KHOA HỌC TRẺ KHỐI TRƯỜNG KINH TẾ VÀ KINH DOANH... FACTORS AFFECTING THE AUDIT EXPECTATION GAP IN VIETNAM Abstract: Audit expectation gap (AEG) is one of the topics attracting many researchers around the world. While the number of studies invole the AEG concepts and structures or proving the existence of AEG is considerable, the number of studies on the factors affecting the AEG is still limited. In addition, the results from the studies ares still consistent and contradictory due to differences in the research context, survey subjects… This article is based on the systematization of previous research results, builds a research model, and conducts empirical research on the factors affecting the AEG with the context in Vietnam from the view of audit report users. The research combined the qualitative and quantitative research methods, the results indicated that there are 3 factors that have positive influence and 3 factors that have negative influence on the audit expectation gap in Vietnam. Keywords: AEG, Audit expectation gap, factors affecting, financial statement audit, Vietnam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2